|
6. Những Bài Ca Trong Thánh Lễ Theo QCTQ.SLR :
1. CA NHẬP LỄ
Ý Nghĩa: "Khi dân chúng đã tập họp, thì bắt đầu hát ca nhập lễ, đang khi linh mục và các người giúp lễ tiến vào. Bài ca này có mục đích mở đầu việc cử hành thánh lễ, giúp giáo dân thêm hiệp nhất, hướng tâm hồn họ vào mầu nhiệm mùa phụng vụ hay ngày lễ và đi kèm với cuộc rước của linh mục và các người giúp lễ". Như chúng ta biết ca hát là cách diễn tả thông thường của bất cứ một lễ hội nào. Việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội. Vì thế ngay từ lúc bắt đầu, ca nhập lễ được hát lên sẽ xóa tan sự lạnh lùng của cá nhân và kết hợp mọi người thành một cộng đoàn tình thương và sống động, để diễn tả niềm vui được gặp nhau, được tạ ơn Chúa.
Đặc tính: Kèm theo nghi thức (Rước), giúp tín hữu khám phá ra Đức Kitô hiện diện nơi vị Chủ tế. (Theo J. Gélineau: có khi là chính nghi thức). Do đó bài ca cần có đặc tính vui tươi, phổ thông.
Cách thực hiện:
Ca nhập lễ được hát như sau:
• Hoặc luân phiên giữa ca đoàn và dân chúng;
• Hoặc luân phiên giữa một ca viên và dân chúng;
• Hoặc tất cả do dân chúng hát;
• Hoặc do một mình ca đoàn hát mà thôi. Có thể dùng điệp ca cùng với thánh vịnh, ghi trong sách Graduale Romanum hay trong sách Graduale Simplex; hoặc dùng bản hát nào khác phù hợp với cử hành phụng vụ, với tính chất của ngày lễ, hay mùa phụng vụ. Bản văn bài hát này phải được Hội Đồng Giám Mục chuẩn nhận.
2. KINH: “LẠY CHÚA XIN THƯƠNG XÓT”.
3. Ý Nghĩa: là một lời "Tung hô – kêu cầu", xuất phát từ đáy lòng để kêu cầu ơn trợ lực. Đó là một lời kêu cứu thiết tha (lặp lại nhiều lần), và "sự lặp đi lặp lại này đã mang một hình thức kinh cầu".
Đặc tính: Bài ca nghi thức.
Cách thực hiện: "Trừ khi lời kêu cầu này đã được thực hiện trong phần chuẩn bị sám hối", bài này thường:
• Được mọi người hát, nghĩa là dân chúng, ca đoàn hay xướng ca viên, đều góp phần vào đó.
• Được hát hai lần mỗi lời tung hô; nhưng vì đặc tính của ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể hát nhiều lần hoặc xen vào một câu hát ngắn.
• Nếu không hát thì đọc. (12)
3. KINH VINH DANH:
Ý nghĩa: Kinh Vinh danh là một Thánh thi rất cổ kính, mà Hội Thánh, được đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần, dùng để tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn Chiên Con.
Đặc tính: Không kèm theo một nghi thức nào hết. Nó tạo nên một chỗ đứng riêng cho mình, nhất là trong Mùa Giáng Sinh. Kinh Vinh danh là chính nghi thức của cử hành Thánh lễ.
Cách thực hiện: Kinh này được hát
• Hoặc do toàn thể cộng đoàn tín hữu;
• Hoặc luân phiên giữa dân chúng và ca đoàn;
• Hoặc do chính ca đoàn. Nếu không hát thì phải đọc. Hát hay đọc trong các Chúa Nhật ngoài Mùa Vọng và Mùa Chay, Lễ Trọng và Lễ Kính.(13)
(12) QCTQ, số 30.
(13) QCTQ, số 31.
4. BÀI HÁT XEN GIỮA BÀI ĐỌC:
ĐÁP CA
Ý nghĩa: Việc cải tổ Phụng vụ của Vaticanô II đã phục hưng lại các "đáp ca". Tiếng Chúa được gửi tới dân chúng qua lời người đọc sách và cộng đoàn lắng nghe, rồi đáp lại bằng "đáp ca". Đây là hình ảnh cuộc đối thoại không ngừng giữa Chúa và dân Ngài. Nhờ các bài hát, dân chúng làm cho Lời Chúa thành của mình nhờ lời tuyên xưng đức tin, họ gắn bó với Lời Chúa.
Đặc tính: Cũng gọi là ca tiến cấp, bài ca này là thành phần trọn vẹn của Phụng vụ Lời Chúa.
Cách thực hiện: Thánh vịnh thường lấy ở sách bài đọc, vì mỗi bản văn thánh vịnh đều liên quan trực tiếp với mỗi bài đọc, nên việc lựa chọn thánh vịnh tùy thuộc các bài đọc. Tuy nhiên, để dân chúng có thể hát thánh vịnh đáp ca cách dễ dàng hơn, một số bản văn đáp ca và thánh vịnh đã được lựa chọn cho từng mùa trong năm, hoặc cho từng loại thánh nhân, để mỗi khi hát thánh vịnh, có thể dùng các bản văn này thay cho bản văn hợp với các bài đọc liên hệ.
Trong Phụng vụ Lời Chúa, các thánh vịnh đã được biết dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử. Người ta thường chú trọng đến ba hình thức chính:
a. Thánh vịnh bài đọc: Thánh vịnh được đọc, hoặc được ngâm bởi người đọc sách: Mọi người lắng nghe như nghe Lời Chúa.
b. Thánh vịnh đáp ca: Các câu của thánh vịnh được người đọc sách hát tại giảng đài (hay tại một nơi thuận tiện), rồi sau mỗi câu như thế, cộng đoàn sẽ tham gia bằng câu ĐÁP.
c. Trong thực hành, chúng ta có nhiều cách để thể hiện bài Thánh vịnh trong các Thánh lễ:
Hát Thánh Vịnh đáp ca theo nghĩa chặt:
Trong thể thức đáp ca này, có sự liên kết chặt chẽ giữa câu điệp khúc, rất ngắn (gọi là đáp ca) và các câu thánh vịnh. Câu đáp ca phải gắn liền với câu Thánh vịnh, và không được tách rời nhau, cả về lời văn lẫn về âm điệu theo cách này, sự đối đáp luôn mau lẹ và liên tục. Hát Thánh vịnh trong bài Alleluia là hình thức rõ nhất, trong đó Alleluia đóng vai trò đáp ca.(14)
• Hát Thánh vịnh có điệp khúc:
Ở đây điệp khúc có thể tách rời và đây là hát đối đáp, hơn là hát đáp ca. Đây là hình thức mà cuốn Sách Bài Đọc gợi ý cho ta: điệp khúc sẽ được lặp lại sau ba hoặc bốn dòng chữ Thánh vịnh.
• Hát Thánh vịnh tập thể :
Toàn thể cộng đoàn sẽ ngâm bài Thánh vịnh (có thể chia làm hai bè đối đáp hoặc đối đáp giữa cộng đoàn và một ca sĩ). Cái lợi là ở đây cộng đoàn "ăn" Lời Chúa, và như vậy sẽ thưởng thức vị ngon ngọt của Thánh vịnh.
• Nghe hát Thánh vịnh:
Thánh vịnh được hát bởi một người, có phần nhạc đệm êm nhẹ: cộng đoàn lắng nghe trong tinh thần suy gẫm.
(14) xt.Kim Long, Thánh Vịnh Đáp ca, 1994.
Các hình thức cầu kỳ hơn:
Có tác giả còn đề ra nhiều kiểu cách khác nhau cho các năm A, B, C. chẳng hạn cuốn "Thánh vịnh ngày Chúa Nhật" trong Eglise qui chante các số 18, 19, 21 (các năm 1986 -1988).(15)
ALLELUIA hay là TUNG HÔ TIN MỪNG:
Ý nghĩa: Hơn bất cứ lời tung hô nào khác (như Amen, Hosanna), Al-lê-lui-a là lời tung hô đã có trong tất cả nền Phụng vụ xưa, đó là niềm vui sướng thuần túy, đó là "tiếng nói của niềm vui trong sáng không diễn taû bằng lời nói".
Đặc tính: Khi các người giúp lễ rước sách Tin Mừng, tất cả cộng đoàn cung kính tung hô Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Bài ca này đi kèm nghi thức.
Cách thực hiện:
Sau bài đọc thứ hai, là bài Al-lê-lui-a, hay bài hát khác như mùa phụng vụ đòi hỏi:
a) Al – lê – lui – a được hát trong các mùa ngoài Mùa Chay. Hết mọi người, hoặc ca đoàn, hay ca viên, bắt đầu hát, và nếu cần thì lặp lại; còn có lời tung hô thì lấy ở sách bài đọc, hay sách Graduale Simplex.
b) Còn bài hát khác là lời tung hô Tin Mừng, hoặc một Thánh vịnh khác cũng gọi là ca liên tục (tractus), như có trong sách bài đọc hay trong sách hát Graduale. (16)
(15) x.J.Gélineau, Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II, trang 255-256.
(16) QCTQ, số 37.
Khi chỉ có một bài đọc trước Tin Mừng thì:
a) Trong mùa phải hát Allêluia, có thể hát hoặc bài thánh vịnh tung hô Allêluia, hoặc thánh vịnh và Allêluia với lời tung hô, hay chỉ hát thánh vịnh hoặc Allêluia mà thôi.
b) Trong mùa không phải đọc Allêluia, có thể hát hoặc đọc thánh vịnh, hoặc lời tung hô Tin Mừng. Thánh vịnh theo sau bài đọc, nếu không hát thì đọc; còn Allêluia hay lời tung hô Tin Mừng, nếu không hát thì có thể bỏ.(17)
Ca tiếp liên:
Ngoài lễ Phục Sinh và Lễ Hiện Xuống thì được tùy ý.(18)
5. LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN:
Ý nghĩa: Kinh tin kính cũng gọi là tuyên xưng đức tin, trong khi cử hành thánh lễ, nhằm làm cho giáo dân chấp nhận và đáp lại Lời Chúa, mà họ đã nghe trong các bài đọc và bài diễn giảng; đồng thời nhắc họ nhớ lại luật đức tin trước khi cử hành phần phụng vụ Thánh Thể.(19)
Đặc tính: Bên Tây phương, kinh này được coi là sự kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa, tin theo sứ điệp vừa nghe, và là "cửa bước vào phần thánh lễ của các tín hữu" (J. A. Jungmann).(20)
(17) QCTQ. Số 38-19.
(18) QCTQ, số 40.
(19) QCTQ, số 43.
(20) Bên Đông Phương, Kinh này có vẻ nhắm chuẩn bị các tín hữu cử hành Thánh Thể (Sau khi đã mời các dự tòng ra về) xt.J.Gèlineau, HNCHPV, tập II, trang 261).
Cách thực hiện: Kinh tin kính phải do linh mục đọc chung với giáo dân vào các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng; cũng có thể đọc trong những lễ đặc biệt khá trọng thể. Nếu hát, thì thường mọi người cùng hát, hoặc hát luân phiên.(21)
6. CA DÂNG LỄ:
Ý nghĩa: Bắt đầu phụng vụ Thánh Thể, đại diện của cộng đoàn đưa lên bàn thờ các lễ phẩm sẽ trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Trong khi rước lễ phẩm hát ca dâng lễ. Bài hát này sẽ đem lại cho cuộc rước một ý nghĩa phong phú. Điều này rất được trân trọng nơi các nền phụng vụ Đông Phương, bài ca dâng lễ này được coi là linh thánh nhất và trọng đại nhất của thánh lễ,(22) vì được so sánh với các bài ca của thiên thần Kêrubim theo hầu Chúa Kitô khi Ngài tự tế lễ chính mình cho Thiên Chúa Cha, cùng với toàn thể Giáo Hội và toàn thể các tạo vật.
Đặc tính: Kèm theo nghi thức.
Cách thực hiện: CĐ. Vat. II đã mang lại một đổi mới ở điểm này: trước kia, bài ca dâng lễ (offertorio) do ca đoàn hát, trong khi vị chủ tế nhận các lễ vật, và bài ca này không liên hệ nhiều đến thánh lễ. Nay thì bài ca dâng lễ sẽ do cộng đoàn hát và kéo dài bài hát ít là cho tới khi đặt lễ phẩm trên bàn thờ, và bài ca này có liên hệ chặt chẽ với thánh lễ.
(21) QCTQ, số 44.
Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng giống như cách hát ca nhập lễ. Nếu không có bài hát thờ lạy và chúc tụng này, người ta có thể thay thế bằng một bản nhạc dạo trên đàn,(23) hay một bài khác được chuẩn nhận thay thế, miễn là bài đó phải hợp với ngày lễ hay Mùa Phụng vụ hoặc hợp với phần Thánh lễ;(24) hoặc bài hát có ý: dâng bánh rượu, dâng hồn xác,… lên Chúa. Nên chọn bài có kèm ý: "để bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa";(25) nếu không hát thì bỏ luôn ca tiến lễ.
7. BÀI "THÁNH, THÁNH, THÁNH" (SANCTUS): Ý nghĩa: Phải đặt bài ca này trong toàn bộ Kinh Tạ ơn – một kinh có tính chất tâm tình – thì chúng ta mới có thể hiểu được ý nghĩa trang trọng đậm nét trử tình của nó. Thật vậy cùng với giọng "cao rao" của Kinh Tiền Tụng, giọng "ngâm nga" của truyện lập Phép Thánh Thể, khí thế "tung hô" của lời tưởng niệm, lời "đối thoại" ở phần đầu và tiếng tung hô "Amen" ở phần kết thúc, thì những lời "tung hô" của bài Sanctus đã tạo nên lời ngợi khen đa dạng. Tất cả những "bài hát" kế tiếp nhau đó chỉ là một lời. Bài "Thánh" là việc tung hô mà toàn thể cộng đoàn hợp cùng các thần thánh trên trời hát lên.
Đặc tính: Lời tung hô này là phần chính của Kinh Tạ ơn.
(22) QCTQ, số 49; 101;293.
(23) QCTQ, số 50.
(24) Huấn thị về Thánh Nhạc trong Phụng vụ (5.3.1967), số 32.
(25) UBTN.Việt Nam, thông cáo số 3, mục [4],c.
Cách thực hiện: Sau khi chủ tế hát (hay đọc) những lời cuối của Kinh Tiền Tụng: "và tung hô rằng: " (hoặc: không ngừng tung hô rằng; lớn tiếng tung hô rằng; phấn khởi … hân hoan… thành khẩn… xưng tụng rằng: v.v…) thì cả giáo dân và linh mục cùng hát (hay đọc) ngay. (đàn chỉ báo cung 1, 2 nốt nhạc thôi). (26)
8. LỜI TUNG HÔ TƯỞNG NIỆM (Sau Truyền Phép):
Ý nghĩa: Nhờ việc tưởng niệm, khi thi hành mệnh lệnh đã lãnh nhận từ Đức Kitô qua các Tông Đồ, Hội Thánh tưởng niệm chính Đức Kitô, nhất là nhắc lạI cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ, sự sống lại vinh hiển và lên trời của Người.(27)
Đặc tính: Lời tung hô sau khi chủ tế công bố "Đây là mầu nhiệm đức tin", mang ý mong Chúa lại đến là quan trọng nhất.
Cách thực hiện: Cộng đoàn cùng tung hô (nét nhạc cần phải trang trọng hân hoan). Sách Lễ Rôma đã dự trù 3 công thức tung hô để thay đổi.
(26) QCTQ, số 55b.
(27) QCTQ, số 55đ.
9. VINH TỤNG CA KẾT THÚC KINH TẠ ƠN:
Ý nghĩa: Đây là lời chúc vinh Thiên Chúa kết thúc và tô đậm nét chính yếu của Kinh Tạ Ơn, với một công thức vững vàng: "Chính nhờ Đức Kitô…". Công thức này cho ta thấy trong Người mà mọi chúc tụng đều qui về Chúa là Cha trong Thánh linh, Thánh Thể của Giáo Hội.
Đặc tính: Long trọng và xác tín trong lời tung hô và thưa lớn tiếng.
Cách thực hiện: Sau khi linh mục hát (hay đọc): "… đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến muôn thuở muôn đời", thì giáo dân thưa lớn tiếng Amen. Có thể lặp lại tiếng Amen 2 hay 3 lần: cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được đọc trong Kinh Tạ ơn.(28)
10 . KINH LẠY CHA:
Ý nghĩa: Trong kinh này ta xin Chúa ban bánh hằng ngày; bánh này đối với Kitô hữu còn ám chỉ bánh Thánh Thể; lại xin Chúa thanh tẩy tâm hồn cho khỏi mọi tội lỗi, hầu của thánh được thực sự ban cho những người thánh.(29)
(28) QCTQ, số 55h.
(29) QCTQ, số 56a.
Đặc tính: Dù hát hay đọc, Kinh Lạy Cha trước hết là kinh, không phải là học thuộc lòng hay để đọc lại. Đây là phần nghi thức mở đầu cho nghi thức hiệp lễ. Cách thức linh mục mở đầu cộng thêm rất nhiều vào giọng và điệu của cộng đoàn. Khi thực hiện tốt, sự sốt sắng nội tâm mà cộng đoàn có khi cầu nguyện, theo kinh nghiệm, là bằng chứng tốt nhất của sự chặt chẽ và phẩm chất của sự tham gia Phụng vụ Thánh Thể.(30)
Cách thực hiện: Linh mục đọc lời mời cầu nguyện: "Vâng lệnh Chúa Cứu Thế…" rồi:
• Hết mọi tín hữu cùng đọc hay hát kinh đó với linh mục;
• Mình linh mục đọc tiếp lời khẩn xin;
• Khai triển ý cuối cùng của Kinh Lạy Cha;
• Giáo dân kết thúc bằng lời tung hô: "Vì Chúa là Vua uy quyền…"
Lời mời cầu nguyện, chính Kinh Lạy Cha, kinh khẩn xin và lời chúc vinh mà giáo dân dùng để kết thúc, được hát hay đọc rõ tiếng.(31)
(30) J.Leben, Để sống Phụng vụ, Cerf, 1986, số 171.
(31) QCTQ, số 56a.
11. KINH "LẠY CHIÊN THIÊN CHÚA":
Ý nghĩa: Ngôn Sứ I – sa – ia dùng danh từ CHIÊN THIÊN CHÚA để chỉ Chúa Kitô; Thánh Gioan Tẩy Giả cũng gọi Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa (x. Is 53, 7 và Ga 1, 29). Kinh này nhắc nhớ Con Chiên Thiên Chúa đã đổ máu ra trên thánh giá để tẩy xóa mọi tội của nhân loại và trong Thánh lễ chuyển thông công nghiệp máu ấy để tha tội cho từng người rước lễ.
Đặc tính: Bài ca kèm theo nghi thức.
Cách thực hiện: Đang khi bẻ bánh và bỏ một phần vào chén thánh thì ca đoàn hay ca viên thường hát đối đáp hay đọc lớn tiếng kinh "Lạy Chiên Thiên Chúa", và giáo dân đáp lại. Kinh này có thể lặp đi lặp lại, bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh (cả khi trao phát cho các vị đồng tế). Lần cuối cùng được kết thúc bằng câu: "xin ban bình an cho chúng con".(32)
12. CA HIỆP LỄ:
Ý nghĩa: Nói đến Mầu Nhiệm theo Phụng vụ. Bài ca này có mục đích diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất thiêng liêng giữa những người rước lễ, khi họ đồng thánh ca hát, đồng thời biểu lộ niềm vui trong tâm hồn và làm cho việc tiến lên rước Mình Thánh Chúa có tính cách huynh đệ hơn.(33)
(32) QCTQ, số 56đ.
(33) QCTQ, số 56i.
Đặc tính: Theo truyền thống rất xa xưa, bài hát này đúng tên của nó, phụ họa cho cuộc đi rước lễ của tín hữu. Vì thế hai bài hát đang khi rước lễ, và sau khi rước lễ, không bắt buộc.
Cách thực hiện: Ca hiệp lễ bắt đầu khi linh mục rước lễ và tùy nghi kéo dài đang khi giáo dân rước lễ. Nếu có hát bài ca nào sau khi rước lễ, thì phải kết thúc bài ca hiệp lễ vào đúng lúc.
Có thể dùng điệp ca trong sách Graduale Romanum cùng với thánh vịnh hay không có thánh vịnh, hoặc dùng điệp ca với thánh vịnh trong sách Graduale Simplex, hoặc bài hát nào thích hợp đã được giáo quyền chuẩn nhận. Một mình ca đoàn hát, hoặc ca đoàn hay ca viên hát với giáo dân.(34)
Sau khi rước lễ, linh mục và giáo dân tùy nghi thinh lặng cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian. Nếu muốn, có thể hát một thánh thi, một thánh vịnh hay một thánh ca ngợi khen nào khác.(35) Thánh ca này khác hẳn bài "đi rước lễ", nó phải có giá trị qui tụ mọi lời cầu nguyện cá nhân.
(34) QCTQ, số 56i.
13. BÀI CA KẾT LỄ:
Sau công thức giải tán, có thể hát một bài, đề tài tương đối tự do hơn, như:
• Về ngày lễ (Đức Mẹ, Các thánh,…); hay mùa phụng vụ.
• Ra đi sống Thánh Lễ… gieo Tin Mừng; Tạ ơn Chúa…
• Về lòng sùng kính (36)… hay cầu nguyện cho các giới. Bài hát này nên hát cách tưng bừng phấn khởi, nhưng phải ngắn gọn, có thể vừa ra về vừa hát cho tới khi ra khỏi nhà thờ.(37)
Việc có những bài Thánh Ca đúng phụng vụ đã là một điều khó. Việc chọn lựa, sắp xếp các bài ấy cho phù hợp với cử hành phụng vụ lại càng khó hơn. Lời ca, tiếng hát phải phục vụ và nuôi dưỡng bầu khí cầu nguyện. Bởi vậy những người phụ trách về ca hát phải hiểu biết và theo dõi diễn tiến của thánh lễ. Cho nên, ngoài sở trường về âm nhạc, học phải có những hiểu biết căn bản và tương xứng về phụng vụ, thì mới chu toàn tốt đẹp chức năng của họ trong cộng đoàn.
(35) QCTQ, số 56k.
(36) Kim Long, Thánh ca trong phụng vụ, trang 78.
(37) Huấn thị về Thánh nhạc (3.9.1958), số 36.
Lm.Nguyễn Duy
|
|