Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 28 trên 28

Chủ đề: SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 02/2011

  1. #1
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 02/2011

    01/02

    Uy quyền trên cái chết


    Thứ Ba Tuần thứ Tư Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 5,21-43


    21Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22Có một ông trưởng hội đường tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, 23và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." 24Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. 25Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. 27Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. 28Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." 29Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi?" 31Các môn đệ thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?" 32 Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh." 35Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" 36Nhưng Đức Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." 37Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. 38Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" 40Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. 41Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!" 42Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.


    Suy niệm:
    Thánh Máccô hôm nay đã đặt hai phép lạ cùng trong một câu chuyện. Cả hai phép lạ cùng xảy ra giữa đám đông giữa sự chứng kiến của mọi người, mọi tầng lớp dân chúng.
    Số là vì thương hại người cha xấu số có đứa con gần chết mà Chúa lên đường đến tận nhà ông. Đang trên đường đi tới này thì một người bị băng huyết “làm trễ giờ.” Bà này bị bệnh suốt 12 năm rồi, thời gian cũng bằng từ lúc em bé con ông Giairô sinh ra. Bà đã chạy chữa nhiều thầy thuốc nhưng tiền mất tật lại mang.
    Thánh Luca cũng là một bác sĩ ghi rõ rằng: “Bà đã cúng cả gia nghiệp cho các thày thuốc, nhưng không ai chữa nổi” (Lc 8,43). Nói như thế là kể cả Luca cũng đành bó tay và chờ vào quyền lực siêu nhiên của Chúa Giêsu mà thôi. Và đó cũng là hy vọng duy nhất cho đời bà. Bệnh tật đã làm cho bà nhơ bẩn theo luật Lêvi (Lv 15,25), cho nên bà không thể trực tiếp hay công khai gặp được Chúa. Mặt khác cũng vì xấu hổ. Cho nên niềm hy vọng để thực hiện là sờ vào tua áo của Chúa, theo luật Maisen, dân con Chúa phải may áo dài có tua chỉ màu để nhắc nhở uy quyền Giavê, Chúa Giêsu cũng mặc áo kiểu này (Mt 9,20).
    Đức tin và lòng khiêm nhường của bà đã được thưởng công tại chỗ. Tức khắc dòng máu đang chảy ngưng lại ngay (c.29) (Lv 12,7). Bà xấu hổ, định lẩn trốn giữa đám đông. Nhưng Lời Chúa hỏi đã lưu giữ bà lại. Chúa hỏi: “Ai đã sờ vào áo Ta” (c.30). Hỏi như vậy không phải là Chúa không biết ai, Chúa dư biết việc Chúa đã làm và việc gì xảy ra cho ai. Chúa hỏi như thế là để nhắc nhở dân chúng và thiếu phụ có lòng tin. Bà ta quì lạy xuống không phải để xin ơn nữa mà là để tạ ơn vì Chúa đã tha tội và ban ơn khỏi bệnh cho bà. Chúa nói “đức tin của con cứu con” (c.34).
    Không phải việc sờ vào gấu áo mà được lành bệnh đâu. Nhưng là đức tin. Đức tin là yếu tố quyết định được thưởng công.
    Khi đã chữa lành cho thiếu phụ thì đứa con viên sĩ quan cũng vừa chết. Ông Giairô là chủ của một Hội đường có nhiệm vụ hướng dẫn cầu nguyện và học hỏi lề luật cũng như Kinh Thánh. Có lẽ vai trò của ông cũng được nhiều người biết đến nên có tên riêng trong phép lạ hôm nay... Ông đã luống tuổi và chỉ có một mụn con gái lên 12 tuổi. Thấu rõ nỗi đau lòng của một người cha già, Chúa lên đường đi theo tới nhà ông. Điều này làm ông hy vọng chắc chắn Chúa chữa lành cho ông...
    Nhưng rồi người nhà đã tới báo rằng cháu nhỏ đã chết (c.49) và đừng phiền hà tới Chúa nữa. Chắc hẳn đã không có cùng lòng tin như Giairô. Giá như ông ta nghe lời gia đình thì hôm ấy không bao giờ ông thấy mặt đứa con ông nữa và tên ông hẳn không còn ai nhắc nhở tới như hôm nay. Nhưng ông bền đỗ tới cùng. Và phép lạ Chúa làm là một phần thưởng cho lòng ông tin tưởng: con bé nhà ông được sống lại. Phép lạ này minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật.
    Trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước cũng có những phép lạ sống lại như trường hợp tiên tri Elia (1V 17,19), Eliseu (2V 4,34), thánh Phêrô (Cv 9,40) chữa cho bà Yophê sống lại. Nhưng tất cả họ đều phải cầu khẩn thiết tha và nhân danh Thiên Chúa. Còn đây Chúa Giêsu chỉ phán có một lời không nhân danh ai cả. Trường hợp hỏi các thày thuốc từ ngàn xưa đến nay có ai chữa bệnh cho kẻ chết rồi sống lại. Người ta vẫn nói “chữa bệnh chứ không ai chữa được mệnh.” Thế mà Chúa Giêsu đã làm được tất cả. Chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống, toàn thắng trên cả thần chết. Thần chết là kẻ thù cuối cùng của nhân loại, theo Phaolô.
    Chúa Giêsu nói chết là một loại bệnh, là một giấc ngủ. Câu nói này có vẻ khôi hài ít ra là đối với tang gia lúc ấy. Nhưng nghĩ kỹ đó là một sự thực, vì chết chỉ là tạm bợ, một chuyển tiếp, một khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu, là sự trở về nguồn, trở về với Đấng sinh thành ra mình. Lá rụng về cội.
    Sau khi em bé sống lại, Chúa bảo cho em ăn (c.43). Chúa lo phần xác. Việc ăn uống này chứng tỏ em sống lại thực. Có 5 nhân chứng trong phép lạ này. Hãy lưu ý lòng người cha này. Người ta nhận rõ lòng người cha khi hoạn nạn.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần rước Chúa là một lần chúng con được đụng chạm đến Thánh Thể Chúa. Xin cho chúng con đủ đức tin để ơn lành của Chúa được ban đến cho chúng con, như những người Do Thái năm xưa, họ mong muốn được chạm vào thân thể Chúa để được chữa lành. Xin giúp chúng con biết siêng năng chạy đến cùng Chúa nơi Bí tích Thánh Thể để lãnh nhận nguồn suối tình yêu của Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, cuộc sống vốn là một phép lạ. Từng hơi thở của con người là một phép lạ. Từng mầm sống triển nở trên trần gian là một phép lạ. Phép lạ biểu lộ tình yêu của Chúa dành cho con người chúng con. Xin Chúa hãy chúc lành cho cuộc sống chúng con. Xin Chúa ban niềm vui và bình an cho mỗi người chúng con. Xin Chúa hãy gìn giữ linh hồn và thân xác chúng con trong tình thương của Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống làm người cho Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa mà chúng con nhận ra gương mặt mới của Thiên Chúa: một vì Thiên Chúa giầu lòng xót thương. Một vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi loài. Xin dạy chúng con biết sống sao cho xứng với tình yêu cao sâu của Chúa. Xin giúp chúng con biết dùng tài trí Chúa ban để ca khen tình thương Chúa cho nhân trần.Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ______________________________________


    Rừng Mắm

    Trong một chuyện ngắn mang tựa đề "Rừng Mắm", cố văn sĩ Bình Nguyên Lộc đã giải thích về ích lời của cây mắm qua mẩu đối thoại sau đây giữa hai ông cháu:
    - Cây mắm sao con không nghe nói đến bao giờ?
    - Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm lửa cũng không được nữa là.
    - Vậy trời sinh nó làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sinh ra hằng hà sa số như là cỏ vậy?
    Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước, phù sa là đất bùn mềm lũn và không bao giờ thành đất thịt để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một mai kia, cây mắm sẽ ngã rạp, giống tràm sẽ nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, Ông cụ vịn vai nó nói tiếp: "Ông với tía, má con là cây mắm, chân giam trong bùn. Ðời con là tràm, chân vẫn còn lắm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Ðời cây mắm tuy vô ích nhưng không uổng đâu con".
    Mỗi lần nhìn lại thời gian đã qua, chúng ta thường tự hỏi: "Tôi đã làm gì được cho tôi, cho quê hương, cho Giáo Hội?". Y?nghĩ về sự vô tích sự của mình có thể tạo nên trong tâm hồn chúng ta mỗi chua xót, đắng cay, thất vọng.
    Chúng ta hãy nhìn lại của đất phù sa và cây mắm trong câu chuyện trên đây. Cần phải có cây mắm, đất phù sa mới trở thành đất thịt, để rồi từ đó cây tràm và các laọi câu khác mới có thể mọc lên.
    Mỗi một người sinh ra trên cõi đời này, dù tàn tật, dù dốt nát và xấu xa đến đâu, cũng có thể là một thứ cây mắm, cây tràm để cho đất đai trở thành màu mỡ, nhờ đó những cây ăn trái mới có thể vươn lên.
    Ước gì ý nghĩa ấy giúp chúng ta có một cái nhìn lạc quan hơn về quá khứ, về chính bản thân của chúng ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng trong lịch sử nhân loại và đều có một giá trị bổ túc cho những thiếu sót của người khác.
    Với ý nghĩ ấy, còn tâm tình nào xứng hợp hơn trong giây phút này cho bằng tri ân, cảm mến đối với Thiên Chúa Tình Yêu? Cảm tạ Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, cảm tạ ngài đã ban chúng ta được phục vụ Ngài, cảm tạ Ngài đã cho chúng ta được hữu dụng trong Tình Yêu Quan Phòng của ngài.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  2. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  3. #2
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    02/02

    Cuộc sống âm thầm


    Thứ Tư Tuần thứ 4 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 6,1-6


    1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày Sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người. 4Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." 5Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6Người lấy làm lạ vì họ không tin.


    Suy niệm:

    Phân tích

    Thánh Máccô đã từng cho thấy thái độ không tin nơi những người bà con của Chúa Giêsu; Mc 3,20-21: họ nói Ngài mất trí và muốn bắt người về quê; Mc 3,31: Họ ngăn cản Ngài rao giảng. Trong đoạn này, Máccô ghi nhận thêm thái độ không tin cỉa những người cùng làng với Ngài.
    Lý do không tin là thành kiến “Bụt nhà không thiêng”: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em ông không phải là Giacôbê, Giosê và Simon sao? Chị em ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta hay sao?” (c. 3)
    Hậu quả của thái độ không tin: “Ngài đã không làm được phép lạ nào tại đó; Ngài chỉ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ.” (c. 5)

    Suy gẫm

    1. Ta dễ ngưỡng mộ tài năng và đức độ của những “người dưng” và coi thường những “người nhà”. Thánh Gioan Tiền Hô nói với dân Do Thái “Có một vị giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Trong nếp sống cộng đoàn thái độ này không có thái độ khuyến khích và tôn trọng lẫn nhau. “Gần chùa gọi bụt bằng anh.” phải chăng vì Chúa quá gần và quá dễ dãi với chúng ta nên ta coi thường Chúa?
    2. Tin vào một Chúa Giêsu đang làm những phép lạ hiển hách ở Caphácnaum thì dễ hơn là tin vào một Chúa Giêsu là bác thợ mộc, là anh chị em ta. Bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích chúng ta làm điều thứ hai, tức là tin vào Chúa Giêsu trong đời thường, trong công việc, trong anh chị em…
    Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe doạ. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé ra và nói:
    - Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.
    Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa
    - Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu
    Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói.
    - Đây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
    Qủa thật, về sau cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt với sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột thịt của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn cuả mẹ Ngài. “Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo, nếu con muốn nên làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa.”
    Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói như thế với Chúa Giêsu, Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazaret trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazaret. Đây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình nhưng phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài đã phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?”
    Phản ứng của những người đồng hương về những âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazaret là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm đều đáng được chiêm ngưỡng, và trong sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
    3. “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4)
    Ra trường với mảnh bằng sư phạm trong tay, tôi được cử dạy tại một ngôi trường gần nhà. Tôi rất sung sướng vì khỏi phải đi xa. Tôi đã cố gắng vận dụng mọi kiến thức và khả năng để giảng dạy cho các em, và điều đó làm cho tôi rất vui.
    Một ngày kia, tình cờ tôi nghe thấy các em nói với nhau: “Ổng ở gần nhà tao đó. Mày có biết không, hồi nhỏ ổng dốt lắm, anh tao nói môn toán “xơi ngỗng” hoài!”
    Từ ngày đó, tôi phải chấp nhận những ánh mắt nghi ngờ, những dấu chấm hỏi làm nhức nhối con tim. Dù sao tôi vẫn không thể thoái nhiệm hay dễ dàng rời xa lý tưởng của mình.
    Cha Carôlô

    Cầu nguyện:
    Nguyện xin Chúa thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt con người.
    Xin giúp con theo Chúa đến cùng trên con đường yêu thương và phục vụ, dù có bị rẻ rúng giữa những người mà con đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Amen


    _________________________________________



    2 Tháng Hai
    Dâng Hài Nhi Giêsu Vào Ðền Thánh

    Vào cuối thế kỷ thứ tư, một phụ nữ tên Etheria đã hành hương đến Giêrusalem. Cuốn hồi ký của bà, được khám phá vào năm 1887, thật bất ngờ đã đem lại một nét đại cương về sinh hoạt phụng vụ ở đây. Trong các dịp lễ mà bà viết lại là lễ Hiển Linh, kỷ niệm ngày Ðức Giêsu giáng sinh, và một cuộc rước để kính nhớ việc Dâng Chúa Trong Ðền Thờ vào 40 ngày sau -- ngày 15 tháng Hai. (Trong luật Môisen, về phương diện lễ nghi, người phụ nữ được coi là "ô uế" sau khi sinh con, và bà phải "thanh tẩy" bằng cách đến trình diện với tư tế và dâng của lễ trong đền thờ. Tiếp xúc với bất cứ ai đã chạm đến bí ẩn của sự sinh nở và sự chết, đều bị loại trừ khỏi viêïc thờ phượng).
    Ngày lễ này được lan tràn khắp Giáo Hội Tây Phương trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu. Nhưng Giáo Hội Tây Phương mừng sinh nhật Ðức Giêsu vào ngày 25 tháng Mười Hai, do đó lễ Dâng Chúa Trong Ðền Thờ được dời sang ngày 2 tháng Hai -- 40 ngày sau Giáng Sinh.
    Vào đầu thế kỷ thứ tám, Ðức Giáo Hoàng Sergius mở đầu buổi lễ bằng một cuộc rước nến; cho đến cuối thế kỷ ấy việc làm phép và phân phát nến đã trở thành một phần của việc cử hành, bởi đó, cho đến ngày nay, ngày lễ này thường được gọi là: Candlemas (Lễ Nến).

    Lời Bàn


    Theo phúc âm Thánh Luca, Hài Nhi Giêsu được tiếp đón vào đền thờ bởi hai người lớn tuổi, là ông Simeon và bà Anna. Họ biểu hiện cho dân Israel đang kiên nhẫn trông chờ; họ xác nhận Hài Nhi Giêsu là đấng Messiah họ trông đợi từ lâu.

    Lời Trích


    "Chính Ðức Kitô đã nói, 'Ta là sự sáng thế gian.' Và chúng ta là ánh sáng, chính chúng ta, nếu chúng ta tiếp nhận ánh sáng từ Ngài... Nhưng làm thế nào để chúng ta tiếp nhận ánh sáng ấy, làm thế nào để ánh sáng ấy bùng lên? ... Hình ảnh cây nến nói với chúng ta: qua sự cháy, và sự tàn lụi. Một ánh lửa, một tia đức ái, một hy sinh không thể tránh như cây nến tinh tuyền, thẳng tắp đang tuôn trào nguồn ánh sáng của nó, và đã tự tan biến trong sự hy sinh âm thầm" (Ðức Phaolô VI).
    Trích từ NguoiTinHuu.com

    Đức Mẹ dâng Con (Lễ Nến)
    Cuối thế kỷ thứ IV, một phụ nữ tên là Etheria đi hành hương tới Giêrusalem. Bản ghi chép của bà được tìm thấy năm 1887, cho thấy cái nhìn thoáng qua về đời sống phụng vụ hồi đó. Trong số các nghi thức bà mô tả có lễ Hiển linh (Epiphany, 6/1), việc mừng sinh nhật Chúa, và rước mừng việc Đức Mẹ dâng Con trong Đền thờ 40 ngày sau – 15/2. (Theo luật Môsê, một phụ nữ phải làm lễ Tẩy trần sau khi sinh con 40 ngày, khi phụ nữ này đến gặp các tư tế và dâng của lễ để thanh tẩy. Lễ này nhấn mạnh sự xuất hiện lần đầu tiên của Chúa Giêsu nơi Đền thờ hơn là sự tẩy trần của Đức Mẹ.
    Việc tuân thủ này lan truyền qua Giáo hội Tây phương hồi thế kỷ thứ V và VI. Vì Giáo hội Tây phương mừng lễ Giáng sinh ngày 25/12, lễ Đức Mẹ dâng Con được dời qua 2/2 cho đủ 40 ngày sau lễ Giáng sinh.
    Từ đầu thế kỷ thứ VIII, ĐGH Sergius cho rước nến. Cuối thế kỷ thứ VIII, việc làm phép nến và phân phát nến được áp dụng cho đến ngày nay, vì thế mà lễ này còn được gọi là Lễ Nến (Candlemas).

    Trầm Thiên Thu dịch
    ______________________________________



    Người Mẹ Bồng Con


    Một buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
    Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
    Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
    Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
    Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  4. Được cám ơn bởi:


  5. #3
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    03/02

    Mùng 1 Tết: Cầu bình an trong năm mới

    T4, 02/02/2011 - 19:06

    Tin Mừng: Mt 6,25-34
    "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi ; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

    Suy niệm
    Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
    Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. "Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sa?”
    Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
    Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
    Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó.” Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
    Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
    Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.

    Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
    Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chún
    g con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn. Amen

    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 04-02-2011 lúc 08:34 AM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  6. Được cám ơn bởi:


  7. #4
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Sứ mệnh tộng đồ


    Thứ Năm Tuần thứ 4 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 6,7-13

    7Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. 8Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; 9được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ." 12Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

    Suy niệm:
    Phân tích
    Trước đây Chúa Giêsu đã trọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mc 13,14). Vậy sau khi họ đã “ở với Ngài” một thời gian, nay Ngài “sai họ đi rao rao giảng.” Đây Là những người còn non yếu, cho nên trước khi họ ra đi, Chúa chỉ dẫn họ những điều cần thiết.
    Mục đích lần sai đi này là “để họ đi rao giảng.” Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?
    -Về nội dung lời giảng, Thánh Máccô tóm lược trong công thức rất gọn “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Như thế, đây là nội dung chính, tất cả những lời rao giảng khác đều qui về nội dung chính này. Hơn nữa, đây cũng chính là nội dung rao giảng của Chúa Giêsu (Mc 1, 15) và của Gioan Tiền Hô (Mc 1,14).
    - Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng
    a/ việc làm chứng c7: họ đi từng nhóm hai người, đúng qui định của luật lệ Môisê và điều kiện để sự làm chứng có giá trị;
    b/ việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà “trừ quỉ”;
    c/ việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác “chữa bệnh”
    -Những chỉ dẫn về tác phong người rao giảng có thể tóm lại trong hai điều: nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.

    Suy gẫm
    1. Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
    Đã có lần Lênin nói với thánh Phanxicô Assisi “Để có thể làm thay đổi bộ mặt Thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy.”
    2. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi “từng hai người một.” Việc truyền giáo là việc là của tập thể và phải làm trong tinh thần cộng tác với nhau.
    Có những người làm việc Chúa nhưng không theo tinh thần ấy: họ làm theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không thích bị người khác kiểm soát, không muốn người khác chia sẻ thành công…
    Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng: “nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác và về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe Ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”
    Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chính tá của họ.
    3. “Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì ra khỏi nơi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” ( Mc 6,11)
    Để tiện việc ôn thi đại học của đứa em, tôi phải thuê nhà trọ ở gần trường và ở chung với nó. rồi một buổi tối, trời mưa như trút nước, ba mẹ con hành khất đến xin chủ nhà cho ngủ trọ. Người chủ nhà từ chối và tìm cách đuổi khéo.
    Nhìn bóng ba mẹ con hành khất khuất dần trong bóng tối, tôi cảm thấy sức nặng của Tin Mừng và những đòi hỏi quyết liệt của nó. Giả như các môn đệ của Chúa đến với tôi không bị, không bánh, không tiền, liệu tôi có thể tiếp nhận các Ngài không? Rất có thể một lần nữa, các Ngài sẽ bị xua đuổi hay khước từ.
    Lạy Chúa xin cho co biết nhận ra Chúa nơi tất cả mọi người nhất là những người cùng khổ, để luôn ân cần đón tiếp mọi người.
    4. Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong điều diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
    Từ trước đến giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của tông đồ, Ngài cần có những người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ một sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát vả dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.
    Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống chúng ta. Điều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.
    Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận của người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt thành cho Nước Chúa trị đến.

    Cầu nguyện:

    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tình yêu và là con đường dẫn đến nguồn suối tình yêu. Chúa đã dành trọn cuộc đời để yêu thương và phục vụ tha nhân. Chúa đã vì yêu thương chúng con nên mang lấy thân phận con người, để cảm thông và chia sẻ với phận người chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con sống một đời với trọn ý nghĩa là trở nên hữu ích cho tha nhân.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin thắp sáng lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa, để chúng con biết đem Tin mừng tình yêu Chúa đến cho những người chúng con gặp gỡ, cho môi trường chúng con đang sống. Xin cho chúng con biết ra đi với một tình yêu đầy lòng quảng đại để có thể cảm thông với nỗi khốn cùng của anh em. Một tình yêu bao dung để đón nhận mọi người trong tha thứ khiêm cung. Một tình yêu vô vị lợi để dám quên mình phục vụ anh em. Xin cho mỗi bước chân chúng con đi luôn để lại dấu tích của yêu thương mà không mong đền đáp. Xin cho cuộc đời chúng con luôn thanh thoát để đến với nhau trong tình nghĩa chân thành.
    Lạy Chúa, Chúa hằng mong muốn quy tụ mọi người thành một đoàn dân duy nhất để tôn thờ Chúa. Xin cho chúng con luôn là những sợi chỉ để liên kết mọi người nên một với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện chân thành của chúng con. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền


    _____________________________________


    Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

    Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
    Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học, tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
    Cho người mù lòa và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó? xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?
    Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi ôm trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô. Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.
    Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể.
    Ánh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng.
    Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
    Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
    Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ Tình Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  8. Được cám ơn bởi:


  9. #5
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    04/02

    Mùng 2 Tết: biết ơn tổ tiên


    T5, 03/02/2011 - 17:35






    Lời Chúa: Mt 15,1-6
    Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Ðức Giêsu và nói rằng: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? Người trả lời: "Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: ‘Ngươi hãy thờ cha kính mẹ ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử’. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy, không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.”

    Suy niệm
    Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?...” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: "Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
    Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ.”
    Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
    Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình.” Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi.” Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
    Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên - ông bà - cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6,1-3).”
    Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
    Công cha như núi ngất trời,
    Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
    Núi cao biển rộng mênh mông,
    Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
    Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương ; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
    Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:

    Đố ai đếm được lá rừng,
    Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
    Đố ai đếm những vì sao,
    Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
    Lạy Chúa,
    Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
    Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
    Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.




    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  10. Được cám ơn bởi:


  11. #6
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Sự bất tử của thánh nhân



    Thứ Sáu Tuần thứ 4 Thường Niên


    Lời Chúa:
    Mc 6,14-29


    14Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: "Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ." 15Kẻ khác nói: "Đó là ông Êlia." Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ." 16Vua Hêrôđê nghe thế, liền nói: "Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy!" 17Số là vua Hêrôđê đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê, 18mà ông Gioan lại bảo: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!" 19Bà Hêrôđia căm thù ông Gioan và muốn giết ông, nhưng không được. 20Thật vậy, vua Hêrôđê biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.
    21Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. 22Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." 23Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được." 24Cô gái đi ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì đây?" Mẹ cô nói: "Đầu Gioan Tẩy Giả." 25Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm." 26Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. 27Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, 28bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. 29Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.

    Suy niệm:
    Phân tích
    Câu chuyện về cái chết của Gioan Tẩy giả gồm bốn nhân vật với những đặc điểm tâm lý khác nhau:
    - Hêrôđê là một người không có lập trường: một đàng kính trọng Gioan nhưng khi bị Gioan vạch tội thì căm thù Gioan; khi nghe Gioan giảng thì ông thích, nhưng khi nghe bà Hêrôđia xúi bậy thì lại bắt Gioan tống ngục; lúc thì hứa sẽ cho cô con gái của bà Hêrôđia bất cứ điều gì nó xin, nhưng khi nó xin cái đầu của Gioan thì ông lại buồn, nhưng không giám từ chối…
    - Bà Hêrôđia: một người đàn bà chạy theo đam mê bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn: phụ tình với chồng cũ, giết Gioan…
    - Con gái bà Hêrôđia nàng Salômê: không biết dùng nhan sắc và tài năng vào việc tốt, lại dùng chúng để làm tội…
    - Gioan Tẩy giả: một ngôn sứ chính danh. Ngôn sứ là chính giả của Lời Chúa, can đảm nói Lời Chúa cho dù phải từ tội và phải chết.
    Suy gẫm
    1. Những dư luận về Chúa Giêsu rất khác nhau: Gioan Tẩy giả sống lại, Êlia, một ngôn sứ… Ngày nay cũng có nhiều dư luận về Chúa Giêsu, trong đó có những dư luận không tốt. Tôi phải làm gì để cho người ta hiểu đúng về Ngài?
    Tên “Giêsu” nghĩa là “Chúa Cứu Độ,” hay nói theo ngôn ngữ thông dụng, Ngài là Đấng “Cứu nhân độ thế.” người ta không quan tâm lắm đến các danh hiệu khác của Ngài: Con Thiên Chúa, Kitô Messia, Con Vua Đavít…. Nếu Ngài là Đấng cứu nhân độ thế thì ai cũng thấy cần đến Ngài cứu giúp, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Nhưng làm sao cho người ta không chỉ biết mà còn thấy rõ Ngài là Đấng cứu nhân độ thế? Giáo Hội và các môn đệ Ngài phải cho người ta thấy điều đó qua cách sống và những việc làm của mình.
    Suy nghĩ về tính thiếu cương quyết của Hêrôđê: nếu thấy một điều gì đó là đúng thì phải cương quyết làm, nếu thấy một điều gì đó sai thì cũng phải cương quyết bỏ, không chần chừ, không rút lại điều đã quyết định.
    Suy nghĩ về những đam mê của bà Hêrôđia: đam mê là một động lực rất mạnh, nhưng cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu đam mê một điều tốt thì người ta sẽ làm được những kỳ công, nếu đam mê một điều xấu thì tai hại rất lớn…
    Xem câu chuyện của nàng Salômê, tôi phải xin Chúa giúp tôi biết sử dụng những khả năng Chúa ban cho đúng.
    Suy gẫm gương thánh Gioan Tẩy giả: tôi có cam đảm nói và sống Lời Chúa bất chấp mọi khả năng, mất mát không?
    2. Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do Thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Elia đã không chết, nhưng được cất nhắc về trời: khi Gioan tẩy giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Elia: rồi đến lượt Gioan Tẩy giả bị giết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chuá Giêsu.
    Có lẽ để xoá tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Máccô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy giả cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy giả đã thực hiện sự chết và Ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Elia.
    Gioan Tẩy giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
    Gioan Tẩy giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, Ngài qua đi nhưng tinh thần Ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ Ngài, và một cách nào đó, Ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ hơn 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy giả, của các Tông đồ, của các thánh tử đạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành dây liên kết mọi Kitô hữu. Điều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/95, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
    “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Ngài mãi mãi.”
    Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô, cùng với Thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: “Không có gì thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô”
    Cha Carôlô


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để làm chứng cho sự thật. Chúa biết rằng sự thật sẽ giải thoát chúng con khỏi cái chết muôn đời. Chúa cho chúng con biết sự thật của chúng con là con cái của Chúa. Chúa tạo dựng chúng con để được sống hạnh phúc đời đời bên Chúa. Xin cho chúng con biết đón nhận sự thật với niềm tin sắt son. Xin giúp chúng con biết sống theo chân lý vẹn toàn là sống đúng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa.
    Nhưng Chúa ơi, đã bao lần chúng con đã không sống với lương tri con người. Chúng con sống quanh co, giả dối. Chúng con sống thiếu công bình, bác ái. Chúng con còn chưa dám sống với những điều mình tin. Chúng con còn sợ hy sinh, ngại gian khó khi phải sống theo Lời Chúa. Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn can đảm sống điều mình tin, cho dù phải trả giá bằng cả mạng sống như thánh Gioan năm xưa. Xin giúp chúng con dám sống chân thật và dám làm chứng cho sự thật. Xin ban ơn can đảm để chúng con biết sống theo lương tâm soi sáng, biết tránh xa sự xấu, và biết gìn giữ vẻ đẹp của linh hồn chúng con là hình ảnh của Chúa luôn trong trắng, tinh tuyền.
    Lạy Chúa, Chúa là Đấng chân thật. Xin giúp chúng con luôn can đảm làm chứng cho sự thật. Xin cho chúng con lòng trung thành tuyệt đối để có thể nói như thánh Phaolô: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.” Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    _____________________________________

    Lạy Cha Chúng Con Ở Trên Trời

    Con gái ông Karl Marx có lần thú nhận với người bạn gái từ thủa nhỏ bà không được huấn luyện cho biết có Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng như chính bà không cảm thấy mình có một tâm tình tôn giáo hay tin tưởng vào một thực tại vô hình nào.
    Nhưng bà tâm sự tiếp: mộ ngày kia bà tình cờ đọc được một kinh của người Kitô mà bà thầm mong ước là những câu kinh ấy được biến thành sự thật.
    Nghe nói thế, người bạn gái của bà không khỏi ngạc nhiên và tò mò hỏi: "Kinh gì mà hay thế?". Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi này, người con gái ông Karl Marx chậm rãi đọc bằng tiếng Ðức: "Vater unser im Hinmel? Lạy Cha chúng con ở trên trời?".
    Có một Giám Mục kia trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà lão. Người ta nói bà là một tấm gương cho cả lòng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám Mục hỏi:
    - Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất?
    - Thưa Ðức Cha con không biết đọc, bà cụ trả lời. Nghe nói thế, vị Giám Mục tiếp tục hỏi: "Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà?". Thấy Giám Mục đã biết bí quyết của mình, bà cụ thật thà thưa:
    - Thưa Ðức Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin Kính. Một ngày con khởi sự đọc đến mười lần nhưng thường thì con không đọc xong.
    - Tại sao thế? Vị Giám Mục muốn biết. Bà cụ thuật tiếp:
    - Tại vì khi con bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con? Con bỗng không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mực cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi ngài là Cha. Ðiều đó làm cho con phải khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám Mục khuyến khích:
    - À, này bà cụ, đó là lời cầu nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo câu đó.
    Tục ngữ Việt Nam có câu: "Gần chùa gọi bụt bằng anh". Ðó là tâm tình thông thường của con người. Bởi lẽ những thực tại dù to lớn đến đâu, nếu đã trở nên những công việc hằng ngày thường bị hạ thấp giá trị.
    Ước gì Kinh Lạy Cha giúp chúng ta ý thức thật sâu đậm về sự thật: Thiên Chúa là Cha chúng ta, như bà cụ đơn sơ trong câu chuyện trên đã cảm nghiệm được, đồng thời giúp chúng ta sống và thực hành những gì chúng ta luôn miệng cầu khẩn trong kinh Lạy Cha.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  12. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  13. #7
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    05/02

    Mùng 3 tết: Thánh hoá công việc làm ăn


    T6, 04/02/2011 - 17:52




    Tin Mừng: Mt 25,14-30
    "Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn dấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!" Ông chủ đáp: "Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa ; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
    Suy niệm
    Ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “những người đầy tớ và những yến bạc” để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công việc làm ăn:
    Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không phải là “số các yến bạc được trao bao nhiêu”, mà là “những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào.” Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở “số lượng” nhưng bằng nhau ở “nỗ lực.” Nếu so “số lượng nén bạc” được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng “nỗ lực công việc” và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
    Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
    Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã có.
    Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
    Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,… nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh mất nó.
    Ngày mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. “Ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn.”
    Lạy Chúa, đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của chúng con. Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con. Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời sống an bình tươi vui. Amen.
    http://tgpsaigon.net
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  14. Được cám ơn bởi:


  15. #8
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Chúa động lòng thương



    Thứ Bảy Tuần thứ 4 Thường Niên


    Lời Chúa:
    Mc 6,30-34


    30Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
    Suy niệm:
    Chúng ta biết là các môn đệ vừa trở lại Capharnaum kháo với Chúa về những việc làm và thành quả của học trên đường chập chững truyền giáo. Họ có nhiều điều phải bàn hỏi, phải tính toán. Nhưng Chúa bảo thôi, đi ra khỏi vùng đất Hêrôdê Antipas cai trị vì ông đã bắt đầu dòm ngó dò xét. Cho nên Chúa muốn cùng các môn đệ đi sang miền thuộc quyền Philip, có lẽ là vùng Betsaida-Julia tương đối ôn hòa hơn (Lc 9,10). Họ ra đi như thế cũng là để nghỉ ngơi lấy sức nữa.
    Từ Caphanaum đi Betsaida chỉ 140 cây số nên khi dân chúng thấy Chúa lên thuyền họ hiểu ý và đi bộ đón đường. Khi thuyền Chúa tới nơi thì dân chúng cũng tới đó rồi. Trông thấy dân chúng đông đảo, Chúa động lòng thương xót quên cả việc nghỉ ngơi của mình và các môn đệ. Cho nên Chúa lại bắt đầu tiếp tục giảng dạy lâu giờ, Chúa giảng dạy như thế chỉ vì tình thương. Chúa Giêsu thương hết mọi người, thương 99 chiên lành cũng như một chiên lạc (Lc 15,1). Chúa làm mưa nắng trên kẻ lành người dữ (Mt 5,45)
    Chúng ta biết rằng sau khi nguyên tổ phạm tội, tất cả nhân loại chìm đắm trong tội lỗi... thì chính động lực duy nhất là tình yêu đã làm Chúa lận đận từ Trời xuống thế cứu vớt từng con chiên, kêu gọi từng đứa con hoang đàng trở về nhà Cha. Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại đến nỗi thí mạng sống mình vì họ (Ga 10,15). Còn tình yêu nào cao vời hơn tình yêu này nữa không? (Ga 15,13).
    Thường thường, ai cũng thế một anh hùng dân tộc chẳng hạn. Họ chết là chết cho phe mình, chứ không ai dại gì chết cho kẻ nghịch với mình. Nhưng đây, Chúa Giêsu lại chết cho kẻ Ngài yêu và cả những ai không yêu Ngài, ghét Ngài.
    Trước khi tắt thở trên Thánh Giá, Chúa phán: “Ta khát” (Ga 19,28): Chúa khát các linh hồn và Chúa vẫn còn khát khao như thế. Mỗi linh hồn còn quí giá hơn mọi châu báu ngọc ngà. Hồi còn ở trần gian, Chúa đã từng ví các linh hồn đáng quí như một mùa lúa chín (Mt 9,37-38). Mùa lúa chín là mùa của sự sống vươn lên. Lúa chín thì người ta phải lo tính toán gặt hái cho mau, để lâu lúa lên mộng, sợ chim trời, chuột bọ, trộm cắp, bão tố... làm hư. Mỗi hạt lúa chín là một linh hồn. Mỗi hạt lúa là một linh hồn. Mỗi hạt lúa là một hạt mồ hôi. Mỗi linh hồn là một giọt máu thánh của đồi Canvê, của Thánh lễ.
    Để diễn tả tình thương này nữa, Chúa Giêsu đã dùng thêm hình ảnh gà mẹ túc gà con dưới cánh (Mt 23,37). Con gà mẹ túc con lại khi nó kiếm được mồi cho bầy con. Con gà mẹ túc con lại mỗi khi gặp diều hâu, mà thân mẹ hy sinh chiến đấu, thà mẹ khổ chứ đừng để bày con mồ côi. Gà mẹ túc con khi chúng đi lạc và mỗi chiều khi về đi ngủ. Gà mẹ là hình ảnh của chính Chúa, Chúa từ trời đi gọi chúng ta nơi trần thế, đã hy sinh mạng sống Ngài để đưa chúng ta thoát ách tội lỗi mà về với Thiên Chúa Cha trên trời. Còn hình ảnh nào dễ cảm động cho bằng hình ảnh của một bày chiên (Mc 6,34). Chiên cần có chủ chăn mới có nước có cỏ, nơi chốn nghỉ ngơi, tránh trộm cắp, sói rừng... Chúa nói “Ta là Chúa chiên lành. Ta hiến mạng sống mình vì đàn chiên”
    Đã hơn hai ngàn năm nay, tình thương của Chúa đã lôi cuốn không biết bao nhiêu người về với Chúa. Không có một nhân vật anh hùng nào trên thế giới được đông đảo người yêu mến như Chúa Giêsu.
    Có được một minh tinh kia được cả triệu người hâm mộ, đi đâu là báo đăng, là chụp ảnh, là quay phim, cắt tóc kiểu nào. Lập tức bao nhiêu người cắt theo trong ngày ấy. Thí dụ M. Monroe, Bardot, nhưng đến khi Moroe chết thì người thân yêu nhất đưa xác là chiếc xe tang của thành phố với một con chó đi theo sau, không còn ai đi sau nữa? Còn Chúa Giêsu, sau Ngài, 20 thế kỷ, vẫn có những thánh đồng trinh, tử đạo và biết bao nhiêu tín hữu vẫn tiếp tục yêu, người yêu cứ tăng lên mãi. Xin Chúa cho chúng con hiểu được Chúa yêu chúng con để chúng con yêu Chúa.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tình yêu. Chúa luôn chạnh lòng thương xót những mảnh đời bất hạnh của tha nhân. Chúa yêu thương và yêu thương họ đến cùng. Xin cho chúng con biết siêng năng kết hợp với Chúa qua Bí tích Thánh Thể, để được đón nhận sức sống của Chúa, và xin cho chúng con biết sống yêu thương theo khuôn mẫu của Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, từng trang Tin Mừng là một bức họa chân dung yêu thương của Chúa. Chúa yêu thương nên hóa thân làm người. Chúa yêu thương nên chia sẻ cuộc đời trong thân phận nghèo khó. Chúa luôn đến với người nghèo. Chúa luôn xoa dịu những ai đang đau bệnh thể xác cũng như tinh thần. Chúa giải thoát những ai đang bị giam cầm bởi đam mê tội lỗi. Chúa là một vì Thiên Chúa nhưng mang trái tim con người. Chúa luôn có mặt trong từng nhịp thở của chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã cho chúng con biết thế nào là yêu thương. Một tình yêu không so đo tính toán. Một tình yêu cho đi đến cùng mà không mong đền đáp. Xin dạy chúng con biết sống cuộc đời yêu thương như Chúa.
    Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con. Chúng con xin phó dâng cuộc đời cho lòng thương xót Chúa. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  16. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  17. #9
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    06/02

    Sứ mạng của người môn đệ


    Chúa Nhật thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mt 5, 13-16

    13"Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.” 14"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.


    Suy niệm:
    1. Hướng chiếu của ánh sáng
    Ánh sáng chiếu ra ngoài nó hay chiếu vào trong nó?
    Đương nhiên là chiếu ra. Cây đèn có sức chiếu sáng, nhưng không phải chiếu cho nó mà cho chung quanh nó. Chính Đức Giêsu đã nói: "Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của chúng con cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngơi khen Cha các con trên trời."
    Hình ảnh cây đèn rất đơn sơ, nhưng lý giải được rất sâu sắc những bế tắc của đức tin nơi nhiều người môn đệ Chúa: Tại sao đức tin của họ không lớn mạnh lên mà còn nhỏ yếu đi? Tại sao đức tin ấy như không đủ sức nâng đỡ cuộc sống của họ trong những lúc gian nan, chứ đừng nói chi đến nâng đỡ người khác? Câu trả lời của cây đèn rất đơn giản mà rõ ràng: lại vì họ là đèn, thế mà chỉ biết quanh quẩn lo chiếu vào trong mình chứ không chiếu ra ngoài.
    Nhiều người môn đệ Chúa cứ mãi lo tuân giữ luật Chúa, mãi lo tham dự đầy đủ các ngày lễ, mãi lo những sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội... Họ tưởng mình như thế là sống đức tin rồi đấy. Nhưng họ cứ băn khoăn: Tại sao Giáo Hội không phát triển? Tại sao nội bộ Giáo Hội cứ lục đục hoài?
    Khi so sánh đức tin của người môn đệ với cây đèn và hạt muối, Đức Giêsu đã đưa ra một định hướng rất rõ: đức tin là để tỏa ra, đức tin là phải hướng đến người khác. Nếu không tỏa ra, đức tin sẽ là hạt muối lạt, cây đèn sẽ tắt... Chỉ còn ném bỏ.
    Như thế, cách nuôi lớn đức tin là tập quên mình để sống cho người khác, sống vì người khác. Khi các tín hữu, nghĩa là người có đức tin, biết hướng đến người khác thì Giáo Hội sẽ phát triển, những khó khăn nội bộ của Giáo Hội cũng dần dần biến tan.

    2. Sức sáng của tình thương

    Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy làm ngọn đèn chiếu sáng trước mặt thiên hạ. Còn trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia dạy chúng ta cách nào để cho đời mình thành đèn chiếu sáng: cách tiêu cực là không khinh bỉ người khác, loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu...; cách tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc...
    Và Isaia bảo đảm: "Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành mạnh nhanh chóng... ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”
    Chúng ta đã biết mình có bổn phận làm gương sáng. Isaia dạy cho chúng ta biết thêm: không gương sáng nào sáng bằng tình thương; không việc làm nào chiếu sáng bằng việc yêu thương.

    3. Sứ mạng ướp mặn cuộc đời

    Thời nay, những sứ điệp nói có một tầm quan trọng rất lớn (radio, tivi, sách báo v.v.) Trong Thánh Lễ, bài giảng rất quan trọng. Những nhà thờ có cha giảng chán thì giáo dân thưa thớt, ngủ gục, lo ra... Những nhà thờ có Cha giảng hùng hồn, mạch lạc, truyền cảm thì giáo dân đông đúc, sinh động.
    Tuy nhiên phẩm chất của lời nói và của người nói càng quan trọng hơn. Đó là kinh nghiệm tâm đắc của Phaolô, vị tông đồ thành công nhất của Giáo Hội: "Lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người," "Tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh", "Tôi đến với anh em trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy"... Xem thế, thánh Phaolô thành công không phải vì ngài nói hay, mà vì tư cách, phẩm chất và cả con người của Ngài thấm mặn Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, đến nỗi Ngài có thể nói "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi." Nhờ đó, khi Ngài đi đến đâu, tiếp xúc với ai thì chất mặn của muối Tin Mừng từ trong Ngài tỏa ra và thấm vào mọi người chung quanh.

    4. "Chúng con là ánh sáng thế gian”

    Nên để ý một chút đến văn phạm của câu nói này: Đức Giêsu không khuyến khích "Chúng con hãy là ánh sáng,” mà Ngài khẳng định "Chúng con là ánh sáng." Quả thực chúng ta là ánh sáng, bởi vì khi tạo dựng chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khả năng làm những việc thiện giúp cho người khác
    Chúng ta có đôi mắt để thấy
    Chúng ta có đôi tai để nghe.
    Chúng ta có đôi tay để chăm sóc
    Chúng ta có đôi chân để bước tới
    Chúng ta có lưỡi để nói

    Chúng ta có quả tim để yêu thương
    Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta dần lu mờ đi và có khi tắt ngấm. Xin Chúa giúp chúng ta dám tin vào ánh sáng của mình và vào khả năng làm điều thiện của mình.

    5. Chuyện minh họa

    Ngày xưa có một nhà nghiên cứu Thánh Kinh suốt ngày ở trong phòng để am hiểu Lời Chúa và cầu nguyện, suy gẫm. Một hôm hay tin có một vị thánh nhân đến thành phố mình, nhà nghiên cứu này hăng hái đi tìm. Ông tìm ở các nhà thờ lớn mà không gặp. Ông tìm ở các nhà nguyện nhỏ cũng không gặp. Tìm đến các dòng tu cũng không gặp. Cuối cùng đang khi đi ngang chợ thì ông gặp dược vị thánh ấy. Ông liền trình bày thao thức của mình, cũng là lý do chính khiến ông muốn gặp vị thánh:
    - Xin Ngài chỉ cho con biết làm thế nào để nên thánh.
    Vị thánh hỏi lâu nay nhà nghiên cứu đã làm gì. Nhà nghiên cứu cũng thành thật kể rõ mọi việc. Cuối cùng vị thánh đưa ra lời khuyên: -Làm thánh trong phòng thì dễ thôi. Hãy ra chợ và cố gắng làm thánh ở đó.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để cùng nhau chúng con là ngọn đèn dập tắt bóng tối của hận thù, ghen ghét, và bất công trong thế giới, và thay vào đó là ánh sáng bình an và hy vọng của Chúa Kitô. Amen
    http://tgpsaigon.net

    _____________________________________


    Hướng Về Nagasaki

    Nagasaki là một thành phố đã bị trái bom hạt nhân thứ hai tiêu hủy cùng với hàng trăm ngàn sinh linh vào năm1945. Khoảng 350 năm trước đó, vào tháng 2 năm 1597, 26 vị tử đạo đã bị treo vào thập tự trên một ngọn đồi quay mặt hướng về thành phố Nagasaki. Họ là những linh mục truyền giáo, tu sĩ, giáo dân. Họ là những người thuộc dòng Thánh Phanxico, dòng Tên và thành viên của dòng 3 Phanxico. Họ thuộc loại giai cấp xã hội: là những giáo lý viên, nông dân, y sĩ, những người giúp việc và ở mọi lứa tuổi, nhưng tất cả 26 vị được kết hợp trong cùng với một đức tin và một tình yêu Thiên Chúa và Giáo Hội.
    Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật vào những năm 1860, họ ngỡ là sẽ không tìm thấy một dấu vết nào của Thiên Chúa Giáo nữa. Nhưng sau khi đã thiết lập được vài công đoạn bé nhỏ, các Ngài ngạc nhiên khám phá ra hàng ngàn tín hữu sinh sống quanh thành phố Nagasaki vẫn âm thầm, lén lút giữ vững Ðức Tin mà 26 vị tử đạo đã anh dũng tuyên xưng.
    Vào năm 1617, 26 vị này được phong á thánh và cuối cùng được tôn phong hiển thánh vào năm 1862.
    "Bản án tử hình của chúng tôi có để lại: những người bị hành quyết này đã đến từ Phi Luật Tân. Nhưng tôi, tôi không đến từ Phi Luật Tân. Tôi là người Nhật chính tông. Lý do tôi bị xử án là vì tôi đã rao giảng đức tin Kitô và thật đúng như vậy, tôi đã rao giảng Tin Mừng này. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được chết vì rao truyền danh Ngài. Tôi tin tưởng là tôi đã rao giảng sự thật và muốn nói với các bạn những lời cuối cùng này: Hãy cầu xin ơn Thiên Chúa giúp các bạn được hạnh phúc. Tôi vâng lời Chúa Giêsu và vâng lệnh Ngài, tôi tha thứ cho những người xử tử tôi. Tôi không hờn ghét họ. Tôi cầu khẩn Thiên Chúa thương xót tất cả các bạn và tôi hy vọng máu tôi sẽ tuôn rơi trên đồng bào tôi như là những giọt mưa giúp phát sinh nhiều hoa trái".
    Ðó là lời phát biểu cuối cùng khi đang bị treo trên thập tự của thầy Phaolô Miki, người Nhật thuộc dòng Tên, người được biết đến nhiều nhất trong số 26 vị tử đạo tại Nhật.
    Ngày nay, một thời đại mới đã khởi đầu cho Giáo Hội Nhật. Tuy là một thiểu số khiêm nhường, nhưng những người Công Giáo tại Nhật được mọi người kính nể và được hưởng tự do hoàn toàn tiếp tục rao giảng Tin Mừng và Niềm tin Thánh Phaolô Miki đã rao giảng trong cuộc sống của Ngài và trong những giây phút sắp lìa trần.
    Ước gì sự xác tin, lòng can đảm va sự sẵn sàng tha thứ của Thánh Miki được tiếp tục sống mãi trong tâm hồn các anh chị em tín hữu Nhật và trong tất cả chúng ta
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  18. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  19. #10
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    07/02

    Chấp nhận bị quấy rầy


    Thứ Hai Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 6,53-56

    53Khi qua biển rồi, Đức Giêsu và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghennêxarét và lên bờ. 54Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. 55Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. 56Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.


    Suy niệm:
    Phân tích
    Trong bốn câu rất ngắn gọn, thánh Máccô đã mô tả sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
    - “Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó”
    - “Ngài đi tới đâu… người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi.”

    Suy gẫm

    1. Dân chúng có những nhu cầu: Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó.
    “Bất cứ ai chạm đến đều được khỏi.” Nếu tôi thực sự chạm đến Chúa, chắc chắn tôi cũng được khỏi những bệnh tật linh hồn tôi.
    Lúc bệnh tật và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa nhất.
    Người hấp hối than thở với cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế.
    Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó…và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khỏi” (Mc 6,55-56)
    Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
    Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở bên trong.
    Đám đông dân chúng nay đã tự mở cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
    Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ tự kiêu, đam mê… hay có khi mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa.
    2. Tin Mừng hôm nay là một bản khái quát những hoạt động của Chúa Giêsu làm cho con người, những hoạt động này vừa nhiều vừa đa dạng, đến mức làm cho người ta có cảm tưởng Chúa Giêsu là một lương y đa khoa.
    Nhìn vào cách thức hành động của Chúa Giêsu, con người thời nay có thể cho rằng Ngài làm việc thiếu khoa học. Dường như Chúa Giêsu không lên kế hoạch làm việc cho từng ngày, ngày nào của Ngài cũng chỉ theo một chương trình duy nhất, rao giảng Tin Mừng và làm cho Nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người.
    Đối tượng phục vụ của Ngài là người nghèo đủ loại, và nhu cầu của người nghèo lại cấp bách đến độ không thể dời lui dời tới hoặc giới hạn vào một số giờ nhất định. Sống với người nghèo là chấp nhận bị quấy rầy vì những vấn đề của họ thật cấp thiết nhưng lại không dễ giải quyết, quấy rầy vì họ luôn ở cạnh chúng ta mà chúng ta không được phép quên đi.
    Giáo Hội hôm nay muốn chọn người nghèo làm đối tượng ưu tiên để phục vụ như Chúa Giêsu ngày xưa đã làm, thì Giáo Hội cũng không thể quên sự quấy rầy của người nghèo và các vấn đề liên quan đến người nghèo. Nếu Giáo Hội có phải phân nhiệm cho ủy ban này, ủy ban kia lo từng vấn đề, nếu Giáo Hội có phải lên thời khóa biểu hàng ngày, thì tất cả chỉ vì muốn phục vụ người nghèo cho có kết quả hơn, chứ không phải để giảm bớt hoặc thoái thác công việc.
    Chúa đã không phục vụ con người theo kiểu trưởng giả, gián tiếp, nhưng đã dấn thân phục vụ tất cả mọi người bất cứ giờ phút nào. Xin cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta đừng phục vụ người nghèo trên môi miệng, trên giấy tờ hoặc trong tư duy, nhưng là phục vụ trong hành động cụ thể và mau mắn.
    Cha Carôlô

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tình yêu. Chúa luôn thi thố tình yêu của mình cho nhân loại chúng con. Sự hiện diện của Chúa luôn mang lại hoan lạc tâm hồn cho những người nghèo đói, tật nguyền. Chúa luôn nâng đỡ và chữa lành cho những ai thành tâm đến với Chúa. Xin Thánh Thể Chúa nâng đỡ và gìn giữ chúng con trong tình yêu của Chúa.
    Lạy Chúa, những người bệnh tật năm xưa chỉ ao ước được chạm vào thân thể Chúa để được chữa lành. Giờ đây, chúng con cũng ao ước được rước Chúa vào tâm hồn chúng con. Chúng con xác tín vào quyền năng của Chúa có thể bảo vệ và chữa lành bệnh tật hồn xác của chúng con. Chúng con xin trao vào tay Chúa con người mỏng dòn đầy yếu đuối của chúng con. Xin chữa lành những tật nguyền trong linh hồn chúng con là những thói hư tật xấu, những đam mê lầm lạc, những thói lười biếng và tham lam đã làm mất đi vẻ đẹp của tâm hồn chúng con. Xin nâng đỡ ơn phần xác để chúng con luôn có một tinh thần vui tươi trong một thân xác khỏe mạnh.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con biết đến với Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày, để chúng con được ơn Chúa biến đổi nên hoàn thiện hơn. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

    _________________________________________


    Một Lý Tưởng Ðể Ðeo Ðuổi


    Một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc trong bàng hoàng sửng sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giả đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng dù sao, đây cũng là dịp để Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về ông. Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây ra. Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng kiến tạo hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một nhà "kinh doanh trên sự chết chóc" mà thiên hạ đang có về mình.
    Ông quyết định làm cho thế giới hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để thiết lập một trong những giải thưởng lớn nhất thế giới: đó là giải thưởng Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng Hòa Bình thế giới.
    Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà là Hòa Bình.
    Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Những ngưeời bất hạnh nhất phải chăng không là những người sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng cuộc sống của mình trên những sự chết chóc của người khác. thế giới sẽ không bao giờ quên những Tần Thủy Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật lên.
    Người Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho người khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc sống chứng tá của họ.
    Khi nói về sự rao giảng Tin Mừng, Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như sau: "Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi một người Kitôhay một nhóm người Kitô sống giữa nhân loại, bày tỏ được khả năng có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo. Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị thông thường và bày tỏ niềm hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy hoặc không dám mơ ước. Với chứng từ không lời ấy, người Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những ai đang thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể né tránh được. Ðó là: Tại sao họ sống như thế? Ðiều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế? Tại sao họ sống như thế giữa chúng ta?".
    Ðâu là chúc thư chúng ta muốn để lại cho hậu thế? Ðâu là lời biện minh của chúng ta trước mặt người đời nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.

    Trích sách Lẽ Sống



    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  20. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  21. #11
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    08/02

    Tìm cái cốt yếu


    Thứ Ba Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 7,1-13

    1Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến. 2Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. 5Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?" 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." 9Người còn nói: "Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. 10Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11Còn các ông, các ông lại bảo: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là "Corban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, 12và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. 13Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!"


    Suy niệm:
    Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của đạo. Chẳng hạn người Ấn Giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Đấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng đã coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do Thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ…
    Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do Thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh.
    Đây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán những người xấu hay tốt dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: “Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài, đừng lẫn lộn ý muốn của con người với ý muốn của Thiên Chúa, đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
    Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do Thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Đền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với Cha Mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính Cha Mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
    Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.


    Cầu nguyện:

    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã kêu gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin giúp chúng con dám sống theo tinh thần Phúc Âm và sống hiếu thảo với Cha trên trời. Xin đừng để sự kiêu căng và giả tạo dẫn chúng con xa rời tình yêu Chúa. Xin giúp chúng con biết tìm kiếm ý Chúa và thực thi với trọn niềm tin yêu.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa cũng dạy chúng con phải thảo kính cha mẹ. Vì tình yêu của cha mẹ như trời bể mênh mông, như núi non cao vời, đòi hỏi chúng con phải sống đền ơn đáp nghĩa với công ơn sinh thành của mẹ cha. Xin giúp chúng con luôn khắc ghi ân tình mẹ cha như câu ca dao đã dạy: “Núi cao bể rộng mênh mông – Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!” Xin giúp chúng con đừng như những đứa con bất hiếu theo kiểu: “Tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quyện nhau đi,” nhưng luôn biết thảo ngoan, vâng lời, kính yêu mẹ cha.
    Lạy Chúa Giêsu kính yêu, Chúa đã sống kiếp người như chúng con. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa. Càng lớn càng khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời. Amen

    http://tgpsaigon.net

    ________________________________________


    Sống Lạc Quan

    Năm 1989,một cuộc thi toán quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 tuổi thuộc sáu quốc gia trên thế giới. Kết quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Ðại Hàn, kế đó là các em Tây Ban Nha, Anh Quốc, Ailen, Canada và đội sổ là các thiếu nhi Hoa Kỳ.
    Song song với cuộc thi toán ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng thuộc lứa tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định như sau: "Tôi là người giỏi toán". Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và bi quan nhất lại chính là các em Ðại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là giỏi toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Ðại Hàn tự nhận mình có thực tài.
    Qua cuộc thi toán và thăm dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa Kỳ không phải là những trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về tính lạc quan do các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người Mỹ muốn chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan xã hội khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là biết tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.
    Lạc quan là đức tính cơ bản nhất để thành công trong cuộc sống. Có tin tưởng nơi chính mình, có tin đời, có tín nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả khi gặp thất bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.
    Trong cuộc sống đức tin, lạc quan là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc quan là người luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người tín hữu lạc quan là người không bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là người không bao giờ thất vọng về người khác.
    Ðá tảng để người tín hữu xây dựng sự lạc quan của chính mình là Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu thủy chung.
    Tình yêu ấy nói với con người rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi Thiên Chúa đành phải bó tay.
    Tình yêu ấy nói với con người rằng, nơi nào có tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc được thi ân dồi dào hơn.
    Tình yêu ấy nói với con người rằng, đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh quang, của sự sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ cuộc, đầu hàng.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  22. Được cám ơn bởi:


  23. #12
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    09/02

    Chiến đấu với thói hư và tội lỗi


    Thứ Tư Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 7,14-23


    14Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 16Ai có tai nghe thì nghe!" 17Khi Đức Giêsu đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. 18Người nói với các ông: "Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao? Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, 19bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?" Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch. 20Người nói: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. 21Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."



    Suy niệm:
    Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy chính cõi lòng người mới là cội rễ của việc lành hay việc dữ. Đồng ý con người bị ảnh hưởng không gian, thời gian, hoàn cảnh chi phối. Nhưng thật ra thiện căn ở tại lòng ta. Cũng chính từ cõi lòng này mà sinh ra 12 nết xấu mà Phúc Âm kể ra: dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, giảo quyệt, phóng đãng, ghen tỵ, gièm pha, kiêu hãnh, bất lương. Đó là 12 tội chính mà Kinh Thánh nêu lên còn biết bao ác quả kéo theo nữa. Cho nên một câu nói quá đi rằng: “Không gì xấu xa bằng lòng người” cũng chưa hẳn là sai. Người đời đã phải thốt ra:
    Sông sâu còn có kẻ dò
    Lòng người nham hiểm ai đo cho tường
    Dò sông dò biển dễ dò
    Lòng người nham hiểm ai đo cho tường
    Lòng người thăm thẳm mù khơi
    Không bờ không bến biết nơi nào dò.
    Đức Giám mục Tihamer Toth đã viết “Lòng người theo một nhà triết học ngày nay thì giống như ổ rắn.” Có lẽ lời nói ấy quá táo bạo. Nhưng với tôi thì nói giống như cánh đồng lầy hoang vu. Đồng lầy có thể là đất tốt nếu người ta trồng trọt, nó sẽ nảy lúa đơm hoa. Nhưng nếu người ta bỏ hoang, nó sẽ mọc lên gai góc và cây độc. Bởi vậy mỗi khoảng đất sẽ nảy gai, nảy cành khô khẳng nếu ta chẳng chăm sóc. Mỗi tâm hồn sẽ hư hỏng hết nếu chúng ta chẳng chăm nom cho nó ăn những tư tưởng tốt lành.
    Chúng ta thử nghĩ xem một cánh đồng mà bỏ hoang sẽ ra sao: thưa sẽ là nơi cư ngụ của rắn rết, chuột bọ, cỏ lùng. Dĩ nhiên là đồng lúa đó sẽ hư hỏng không thu gặt được gì.
    Trên một phương diện xấu, chúng ta phải chấp nhận rằng có nhiều tội ác tầy trời, xấu xa ô uế trước mặt Thiên Chúa và nhân loại. Tuy nhiên đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ có người khác mới xấu còn mình thì tốt nhất. Thật ra, cái xấu nơi người khác thì cũng đủ xác định cái xấu bởi chính mình, nếu ở trong cùng một hoàn cảnh có khi ta còn xấu hơn hoặc xấu nhất. Thấy người khác ham muốn thì mình cũng có thể và có được chứ. Thấy người khác ích kỷ thì nhớ rằng mình cũng chẳng hơn gì họ. Nói như thế không phải để dung dưỡng tội ác đâu. Nhưng để chúng ta nhận ra chân lý này là thông cảm với người anh em chúng ta đang ở trong đàng tội mà cố gắng lôi kéo họ ra khỏi đó. Làm như vậy thay vì lên án họ, buộc tội họ, thay vì nhận họ xuống bùn đen, thì chúng ta lại được phúc đưa họ lên và về với chân lý hằng sống là Chúa Kitô.
    Chúng ta nên nhớ rằng một y sĩ bị đau không thể cứu lấy mình, hay cứu giúp được các bệnh nhân. Muốn cứu giúp người khác ít ra mình phải đủ sức khỏe. Nói khác đi là trên phạm vi siêu nhiên, chúng ta phải sống thánh thiện thì mới mong kéo lôi người khác hay con cái trong gia đình. Khổ nỗi con người ai ai cũng bị đôi co giữa hai mãnh lực tốt xấu. Chính thánh Phaolô cũng phải thốt lên “Tôi cảm thấy trong tôi hai mãnh lực tốt xấu. Chính khi tôi muốn làm lành thì không làm được, mà khi không muốn làm dữ thì lại làm.” Vì thế mà con người trước khi cứu vớt ai thì trước hết phải phấn đấu chiến thắng được chính mình. Đời là một cuộc chiến đấu triền miên. Cám dỗ sẽ bén gót chúng ta từ khi chào đời đến khi nhắm mắt.
    Thiên chức đời ta là chiến đấu, chiến đấu như sóng vỗ cả đêm thâu.
    Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ngư ông và biển cả của Hemmimgway. Số là một ngư ông đánh cá sống một mình trên chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả suốt 84 ngày. Khi ra xa ngoài khơi, ông lão thấy cần câu trĩu nặng bị kéo chìm xuống thật mạnh. Đó là một con cá marlin (ông voi). Con cá cũng dài gần bằng chiếc thuyền của ông lão. Khi mắc câu, con cá vẫy vùng kéo lôi cả chiếc thuyền ông đi. Trong khi đó sức lực của một cụ già, đã già rồi mà vẫn phải sinh nhai vất vả. Ông lão dũng hết sức chèo chống để bắt con cá cho kỳ được. Không những ông phải cố ghìm cần câu lại đến nỗi tê buốt cả bàn tay, mà mặt khác ông phải chiến đấu với sóng gió và đàn cá mập đã bám sát lấy chiếc thuyền để rúc thịt con cá mắc câu của ông. Cuộc chiến đấu kéo dài ba ngày liên tục. Cuối cùng ông thắng thế. Nhưng khi vào bờ, con cá kia chỉ còn có bộ xương. Tinh thần bất khuất của ông cụ, cái quan trọng không hệ tại sự thành công, mà chính là sự cố gắng phấn đấu đã là một phần thưởng rồi. Nước trời là của những người chiến đấu.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn mạch sự sống trường sinh. Ai tin vào Chúa thì sẽ được sống muôn đời. Xin tuôn chảy nguồn sức sống thần linh của Chúa trên cuộc đời chúng con. Xin chữa lành hồn xác chúng con trong tình yêu của Chúa. Xin Chúa thương ngự xuống tâm hồn chúng con để ban bình an và chữa lành hồn xác chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con biết rẳng: mỗi lần chúng con phạm tội, là một lần chúng con lìa xa sự sống đời đời trong Chúa. Mỗi lần chúng con để những quyến luyến tội lỗi lưu lại trong tâm trí chúng con, là một lần ơn thánh hóa của Chúa đang mất dần nơi chúng con. Tội lỗi phá huỷ sự sống trần gian của chúng con. Tội lỗi cũng phá huỷ sự sống đời đời nơi chúng con. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin ban cho chúng con sức mạnh để lướt thắng những cám dỗ tội lỗi, và can đảm đứng dậy sau những lần vấp ngã.
    Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Xin Chúa phán một Lời để tâm hồn chúng con được chữa lành khỏi những tật nguyền tội lỗi. Amen

    http://tgpsaigon.net

    __________________________________________


    Khi Yêu Trái Ấu Cũng Tròn

    Ignacy Paderewski là một chính trị gia kiêm nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng của Balan. Ông đã từng là chủ tịch Hội Ðồng Nhà Nước năm 1919.
    Một hôm, ông đến thăm một người bạn. Do sự yêu cầu của gia đình người bạn, ông đã ngồi vào đàn dương cầm để biểu diễn một vài bản nhạc do chính ông sáng tác. Tiếng đàn vang lên trong cả khu phố. Từ phòng bên cạnh, một người đàn bà đang chăm chú dọn dẹp và sắp đặt lại trật tự trong nhà. Tiếng đàn du dương của nhà nhạc sĩ đại tài, thay vì làm vui tai bà, lại làm cho bà khó chịu. Người đàn bà đã nhắc điện thoại lên yêu cầu người bạn cho nhạc sĩ Paderewski ngưng chơi đàn, vì bà không chịu nổi tiếng ồn ào. Nhưng người bạn của nhà nhạc sĩ mới giải thích: "Thưa bà, người đang chơi đàn chính là nhạc sĩ Paderewski đại tài của chúng ta đó".
    Vừa nghe nhắc đến tên của nhạc sĩ, người đàn bà láng giềng khó tính bỗng đổi giọng tức khắc. Những âm thanh trước kia bà nghe như tiếng ồn ào, nay được bà đón nhận như những âm thanh tuyệt mỹ. Người đàn bà bèn gọi điện thoại mời bà con và bạn bè đến thưởng thức những tấu khúc của Paderewski.
    Cũng một âm thanh, nhưng có lúc người đàn bà nghe như những tiếng ồn ào khó chịu, có lúc lại được bà đón nhận như khúc nhạc tuyệt mỹ. Ðó cũng là phản ứng thường tình của chúng ta. Khi chúng ta mang sẵn thành kiến đối với người nào đó, thì dường như tất cả những gì người đó nói hay làm đều được chúng ta đón nhận một cách tiêu cực. Yêu nhau thì trái ấu cùng tròn, mà ghét nhau thì cau bảy cũng bổ ra làm mười. Thái độ của chúng ta đối với người khác tùy thuộc ở cái nhìn của chúng ta về người đó. Nếu chúng ta chỉ nhìn người đó bằng lăng kính của thành kiến có sẵn, thì dĩ nhiên, chúng ta không thể yêu thích được bất cứ điều gì người đó nói hay làm.
    Chúa Giêsu đã không nhìn người bằng thành kiến. Ngài tiếp đón tất cả mọi người. Ngài làm bạn với mọi người. Ngài ngồi đồng bàn với mọi người. Người biệt phái cũng có thể đến với Ngài. Ngài không nhìn người với những nhãn hiệu, mà chỉ bằng đôi mắt của Yêu Thương. Ngài không lắng nghe bằng những tiếng đồn đãi, bằng những định kiến, mà bằng sự cảm thông. Ngài không đo lường lầm lỗi bằng những thước đo của công lý mà chỉ xử lý bằng sự tha thứ.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  24. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  25. #13
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    10/02

    Một đức tin vững mạnh


    Thứ Năm Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 7,24-30


    24Đức Giêsu đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia. Người vào một nhà nọ mà không muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. 25Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. 26Bà là người Hylạp, gốc Phênixi thuộc xứ Xyri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. 27Người nói với bà: "Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con." 28Bà ấy đáp: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con." 29Người nói với bà: "Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi." 30Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.


    Suy niệm:
    Trước sự bất tín của dân Do Thái và lòng hiềm thù tăng vút mỗi ngày của đầu mục trong dân, Chúa Giêsu quay về huấn luyện các tông đồ và chữa bệnh. Như thế không có nghĩa là Chúa bỏ dân riêng Ngài để đi với dân ngoại trước đâu. Chính Chúa nói rằng: “Ta chỉ được gửi tới chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24). Rồi sai các môn đệ ra đi truyền giáo, Chúa dặn các ông “Các con đừng đến với dân ngoại, đừng vào thành nào của Samaria.” Tuy nhiên sau phục sinh, Chúa ra lệnh cho các môn đệ đi khắp muôn dân, đến với dân ngoại. Cho nên hồi sinh tiền, Chúa mới nhắm tới dân Do Thái nhiều hơn dân ngoại. Nhưng cũng không vì thế mà bỏ hẳn dân ngoại. Cụ thể là trường hợp của thiếu phụ Canaan hôm nay.
    Thiếu phụ đây là người Hy lạp. Thánh Matthêu còn ghi rằng bà thuộc miền Cana (22,15). Thánh Máccô còn ghi rõ hơn là bà thuộc miền Syro Phênici (c.24). Rõ ràng bà không là người Do Thái. Nhưng bà đã chịu nhục nhã, chịu xua đuổi để được một ơn lộc. Có thể nói tinh thần của những dụ ngôn xin bánh ban đêm (Lc 11,5-8), góa phụ trước cửa quan (18,1-5) đều có nơi thiếu phụ ngoại giáo này. Đó là tinh thần cầu nguyện, gan lì. Bền đỗ tới cùng sẽ được (Mt 10,22). Chúng ta thấy mẫu gương kiên trì của bà. Các môn đệ tỏ thái độ muốn đuổi đi vì bà kêu van mãi nhức đầu (Mt 15,23). Còn Chúa, Chúa nói Ngài chỉ đến với dân Israel và không được lấy bánh vứt cho con chó (c.27).
    Cách từ chối của Chúa thật ra chỉ là tinh luyện đức tin của bà. Chúa muốn bà nhận ra mình là ai, là dân ngoại, là người ngoài chứ chưa phải là con cháu trong nhà đâu mà đòi thụ hưởng. Mặt khác, khi nhận ra như thế rồi, Chúa vẫn tỏ ra như từ chối, từ chối tạm thời để tăng cường lòng tin cho bà.
    Chính nhờ lòng tin mà bà đã trở nên con cái thật của Abraham, Chúa muốn từ sự bất tín của Do Thái dựng nên lòng tin của một lớp dân mới là miêu duệ của Abraham (Mt 3,9). Từ sự sa ngã của dân cũ mà có sự phục sinh cho lương dân không còn phải qua Do Thái nữa (1Pr 2,1). Đúng như lời sách Công vụ “Thiên Chúa đã tinh luyện con tim lương dân bằng đức tin” và Thiên Chúa “Đã ghé mắt đoái nhìn các lương dân để làm thành một dân tộc thờ kính danh Ngài.” Điều này cho thấy Thiên Chúa toàn năng tự do lựa chọn dân Ngài và Ngài thương yêu hết mọi người. Chỉ ai từ chối Ngài mới không có tình yêu mà thôi.
    Lời cầu xin của thiếu phụ cuối cùng đã được Chúa ban phép lạ. Điều này cho thấy ngược hẳn lại với quan niệm của Do Thái lúc ấy, họ tưởng đâu cứ thuộc về dân Do Thái là con cháu Abraham là được mọi ơn, là có quyền bước vào nước trời, Chúa muốn dạy chúng ta một bài học: là tín hữu chưa chắc ăn đâu, phải có lòng tin, phải có sự khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, phải cầu nguyện kiên gan lắm, Nước trời chỉ thuộc về tay những ai bền gan dùng sức mạnh phấn đấu tới cùng (Mt 11,12). Trong số đó, có bà ngoại giáo. Đức tin của bà lớn lao thật (Mt 15,28). Chính Chúa phải xác nhận như thế. Chúng ta phải công nhận vậy, vì đức tin của bà mạnh đến nỗi bà xin phép lạ không phải cho bà mà cho chính con bà.
    Nếu như hôm nay, thưa các bà mẹ, các bà có đứa con hư hỏng hay bệnh tật cách nào đó, mà các bà đến xin ơn Chúa cho con mình liệu Chúa có ban ơn vì đức tin của các bà hay không?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tình yêu. Tình yêu Chúa luôn dành cho hết thảy mọi người. Chúa không thiên vị một ai. Chúa luôn sẵn lòng ban ơn cho những ai chạy đến với Chúa. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể chúc lành cho cuộc sống chúng con luôn bình an và tràn đầy hoan lạc.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Lời Chúa hôm nay cho chúng con thấy nét đẹp của việc đối thoại giữa Chúa và một người phụ nữ. Người phụ nữ luôn khiêm tốn và nhẫn nại trong đối thoại. Còn Chúa thì luôn hiền hoà và linh hoạt trong cách làm việc. Sự đối thoại chân thành đó đã mang lại hạnh phúc vô biên vì tìm được tiếng nói chung của sự cảm thông và nâng đỡ.
    Ước gì loài người chúng con cũng biết đối thoại chân thành với nhau để thế giới được an bình và hạnh phúc. Ước gì mỗi người chúng con cũng biết đối thoại với nhau để hiểu biết nhu cầu của nhau, để nâng đỡ và chia sẻ với nhau. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể liên kết chúng con nên một trong Chúa, để cùng nhau xây dựng xã hội mỗi ngày tốt đẹp hơn.
    Lạy Chúa, Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, xin xót thương những ai đang nặng gánh u sầu, đang lầm than thất vọng. Xin thương đến phận người đầy những khó khăn của chúng con. Amen

    http://tgpsaigon.net

    ____________________________________


    Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

    Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
    Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
    Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.
    Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
    Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
    Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
    Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
    Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh".
    Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  26. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  27. #14
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    11/02

    Hãy mở ra!


    Thứ Sáu Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 7,31-37

    31Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. 32Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. 33Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. 34Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Épphatha", nghĩa là: hãy mở ra! 35Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. 37Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."


    Suy niệm:
    Thường thường đã bị điếc thì cũng bị câm, vì người điếc khi mới sinh ra không được nghe tiếng người khác nói cho nên không bắt chước, nên không nói được gì. Nhưng theo bản dịch LXX nguyên chữ Hy Lạp dùng chữ Mogilaon: câm thôi. Về sau bản dịch phổ thông dịch là câm và điếc. Thật ra chữ Molilalon không có nghĩa là câm hẳn, nhưng là khó nói, nói ngọng. Đúng với c.35 “Nút cột lưỡi liền tuột ra và người ấy liền nói được rành rọt.”
    Dù sao thì câm và ngọng cũng mất đi nhiều hạnh phúc cho cuộc đời. Hiểu như thế, thân nhân đã đem anh ta tới gặp Chúa và xin Chúa đặt tay trên anh ta. Đặt tay là dấu chúc lành như thói tục Israel (St 18,14) và đó cũng là dấu Chúa hay làm khi chữa bệnh hay chúc lành cho trẻ em (Mc 6,5-8, 23-25). Lời cầu xin được Chúa chấp nhận. Có điều đặc biệt trong phép lạ này là Chúa kéo nạn nhân ra khỏi dân chúng và Chúa dùng nước miếng để chữa bệnh.
    Tại sao Chúa lại đưa ra như thế? Có hai lý do:
    1. Để tránh sự tò mò háo hức, tình cảm nồng nhiệt nhất thời của dân chúng, chỉ muốn xem sự kỳ lạ mà không muốn mở rộng con mắt đức tin. Thật ra cũng có những phép lạ Chúa làm trước công chúng, thí dụ bánh hoá nhiều (Mt 14,13t), người bại tay (Mc 3,1-6). Chúa chỉ làm phép lạ khi có lợi cho đức tin và ơn cứu rỗi cho nhiều người hoặc để sửa soạn lòng tin cho lương dân. Ngoài ra có những trường hợp Chúa làm phép lạ cho một số người mà thôi. Chẳng hạn khi cho con của Giairô sống lại (Mc 3,37) thì chì có năm nhân chứng là 3 môn đệ, hai cha mẹ. Khi chữa bệnh cho người mù thành Betsaida. Chúa cũng đưa ra xa xa với một số nhân chứng thôi. Lý do là củng cố lòng tin của người hiện diện trong phép lạ đó.
    2. Để tránh những tiếng rỉ tai đồn thổi có hại khi họ thấy những cử chỉ bên ngoài họ có thể cắt nghĩa là phù phép bùa chú. Nên tránh xa họ. Thật ra những cử chỉ bên ngoài Chúa dùng để chỉ những thúc đẩy bên trong cần phải đủ. Đối với người câm và ngọng này, còn cách nào hơn là chạm vào tai anh ta và Chúa dùng chút nước bọt chạm vào lưỡi anh ta nữa.
    Tại sao Chúa lại dùng nước bọt để chữa bệnh, là thứ mà những thầy Babbin tối kỵ như có ghi trong lề luật rằng là khi chữa bệnh cấm đọc lời nào trầm trầm và nước miếng cấm dùng. Những người ngoại giáo coi đó là thứ quỉ thuật. Riêng trong y học, nước bọt là một thứ nước vị toan do hạch nước miếng tiết ra cho đồ ăn dễ tiêu hóa và dễ xuôi. Nước bọt có thể làm bớt sưng mụn nhọt. Nước miếng trẻ con cắn nhau còn có thể làm độc, cho nên việc dùng nước bọt không phải là một vị thuốc xét theo y học.
    Thế nhưng Chúa Giêsu đã dùng nó để xóa bỏ quan niệm coi khinh nước miếng; về phía dân Do Thái coi là lỗi luật. Nước bọt không xấu đến nỗi bị cấm đoán như thế. Nếu như xưa kia Chúa đã dùng nước biến ra rượu thì việc Chúa dùng nước miếng để làm phép lạ có gì là khó, và không có gì là mất vệ sinh với Thiên Chúa Đấng dựng nên mọi sự đều tốt lành. Nếu như Thiên Chúa có thể đổi sự dữ thành sự lành thì Ngài có thể dùng một hành động như thế để tăng cường lòng tin còn thiếu sót. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được đường lối của Thiên Chúa đâu.
    Việc Chúa chữa bệnh hôm nay là một phép lạ chữa được câm điếc. Nhưng đó cũng là một dấu chỉ Thiên Chúa uy quyền toàn năng. Chúa Giêsu đã để lại trong Giáo Hội Ngài một số cử chỉ còn được dùng trong Bí tích Rửa tội.
    - Phép rửa tội mở tai người dự tòng để được nghe và hiểu lời Thiên Chúa.
    - Phép Rửa tội cởi lưỡi người dự tòng, để từ đó tuyên xưng đức tin rao truyền Phúc Âm.
    Chúng ta đã được qua rửa tội là để nghe và thực hành Lời Chúa, làm chứng cho Lời Chúa trong cuộc đời mình.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thương ngự đến linh hồn chúng con. Xin Chúa cũng mang ơn thánh nâng đỡ và chữa lành hồn xác chúng con. Xin quyền năng Chúa mở tai chúng con để có thể nghe được tiếng Chúa. Xin mở miệng chúng con để có thể ca khen danh Chúa. Xin mở mắt chúng con để có thể thấy những mảnh đời bất hạnh mà cảm thông nâng đỡ. Xin hãy mở tay chúng con để có thể đón nhận nhau trong yêu thương chân thành.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con khả năng biết yêu thương đồng loại. Xin đừng để chúng con giả điếc làm ngơ trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Xin đừng để chúng con mù quáng trước nỗi đau của anh em. Xin giúp chúng con biết làm vơi đi những khổ đau cho anh em. Cuộc đời quanh chúng con còn biết bao nỗi thống khổ tột cùng, xin cho có nhiều người mang trái tim của Chúa để xoa dịu những thương đau.
    Lạy Chúa, Chúa là vị lương y từ mẫu. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết lắng nghe và an ủi nhau, biết chạnh lòng thương và chia sẻ những đau thương vất vả trên đường đời. Xin giúp chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen

    http://tgpsaigon.net


    __________________________________


    11 Tháng Hai
    Ðức Mẹ Lộ Ðức

    Vào ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11 tháng Hai 1858, một trinh nữ đã hiện ra với Bernadette Soubirous, mở đầu cho một chuỗi thị khải. Trong lần hiện ra ngày 24 tháng Ba, trinh nữ này tự xưng là: "Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội."


    Bernadette là một thiếu nữ yếu ớt, con của hai ông bà người nghèo và không có tham vọng. Việc sống đạo của họ cũng không có gì đáng nói. Bernadette chỉ biết đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và kinh Tin Kính. Cô còn biết đọc kinh cầu Linh Ảnh(*): "Ôi Ðức Maria được thụ thai mà không mắc tội."
    Trong những lần phỏng vấn, Bernadette cho biết những gì cô được nhìn thấy. Cô cho biết "cái gì đó mầu trắng trong hình dạng một thiếu nữ." Cô dùng chữ "Aquero," tiếng địa phương có nghĩa "cái này." Ðó là "một thiếu nữ xinh đẹp với chuỗi tràng hạt trên tay." Áo choàng trắng của ngài có viền xanh. Ngài đội khăn trắng. Trên mỗi bàn chân đều có hoa hồng màu vàng. Bernadette cũng ngạc nhiên ở sự kiện là trinh nữ này không gọi cô với danh xưng bình dân "tu", nhưng với ngôn từ rất lịch thiệp "vous". Người trinh nữ khiêm tốn ấy hiện ra với một cô gái bình dân và đã đối xử với cô như một người có phẩm giá.


    Qua một cô gái bình dân, Ðức Maria đã làm hồi sinh và tiếp tục làm sống dậy đức tin của hàng triệu người. Dân chúng bắt đầu đổ về Lộ Ðức từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như toàn thế giới. Vào năm 1862, giới thẩm quyền Giáo Hội công nhận tính cách xác thực của những lần hiện ra và cho phép sùng kính Ðức Mẹ Lộ Ðức. Năm 1907, lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức được cử mừng khắp hoàn vũ.

    Lời Bàn


    Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhưng nhất là đức tin. Giới thẩm quyền của Giáo Hội công nhận 64 phép lạ chữa lành, mặc dù trên thực tế có lẽ nhiều hơn thế. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.
    Nhiều người cho rằng các phép lạ lớn lao hơn thì rất bàng bạc. Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim "Song of Bernadette": "Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ."
    Trích từ NguoiTinHuu.com


    ________________________________________




    Ðức Mẹ Lộ Ðức


    Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.
    Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
    Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
    Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
    Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
    Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
    Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
    Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  28. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  29. #15
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    12/02

    Lòng quảng đại của Chúa


    Thứ Bảy Tuần thứ 5 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,1-10

    1Trong những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: 2"Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! 3Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến." 4Các môn đệ thưa Người: "Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?" 5Người hỏi các ông: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc." 6Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. 7Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn cả cá ra. 8Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ! 9Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người giải tán họ. 10Lập tức, Đức Giêsu xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đanmanutha.


    Suy niệm:
    1. Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào những ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
    Một khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật của chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ.
    Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như “cầm lấy bánh,” “dâng lời tạ ơn,” “bẻ ra, trao cho các môn đệ.” Như vậy, phải hiểu Bí tích Thánh Thể là một hành vi quảng đại của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ
    Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ đuợc no thỏa để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ. Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
    Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi ngày đã trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta.
    Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
    2. Chúng ta có cảm thấy sự quan trọng của Bí tích Thánh Thể không? Chúa Giêsu đã phán: “Quả thật, ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu con người, các ngươi không có sự sống trong mình các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết” (Ga 6,53-54). Đấy là Lời của chính Thiên Chúa không thể sai lầm được. Biết bao nhiêu thánh nhân như các Thánh Tử Đạo đã cầm cành vạn tuế về trời được là nhờ sức mạnh của Phép Thánh Thể.
    Bí tích Thánh thể là kết đọng nguồn tình yêu của Thiên Chúa tới cùng (Ga 13,1). Ngài đã trút cạn kho tàng phong phú của trái tim chỉ biết yêu thương vào Bí tích Thánh thể. Dù là Đấng toàn năng cũng không làm gì hơn như thế nữa đâu. Có thể nói lý do trước hết của Phép Thánh Thể là chỉ vì yêu thương, một thứ tình yêu cao cả vươn tới tận thế. Lý do nữa là Chúa không muốn để con cái Ngài mồ côi (Ga 14,18). Lý do khác là để bổ dưỡng những ai cần tới Ngài (Mt 11,28). Và để bảo đảm cho giờ phút hấp hối cuối cùng đời người. Và cuối cùng là được hưởng nhan thánh Chúa “Ai ăn thịt ta và uống máu Ta, sẽ ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6,57).
    Đến với phép Thánh Thể là đến múc nguồn tình yêu và sự sống.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn tấm bánh là hình ảnh của chính Thân Thể Chúa. Vì tấm bánh cần thiết cho mọi người. Tấm bánh không kén chọn người ăn. Tấm bánh làm vui lòng mọi người. Từ trẻ thơ cho đến cụ già đều trân trọng, nâng niu tấm bánh được ai đó trao tặng. Xin giúp chúng con cũng biết bẻ tấm bánh cuộc đời chúng con để mang lại sức sống, niềm vui cho tha nhân.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, cuộc đời con người chỉ thực sự có ý nghĩa khi trở thành hữu ích cho tha nhân. Cuộc đời vô nghĩa là vô dụng đối với anh em. Vì thế, Chúa vẫn mời gọi chúng con hãy có trách nhiệm với tha nhân. “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Chúa muốn chúng con hãy lãnh lấy trách nhiệm phục vụ sự sống của tha nhân. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa để sẵn lòng trao ban chính mình làm của ăn nuôi dưỡng tha nhân. Xin giúp chúng con đừng bao giờ nại vào nghi nan để lẩn trốn trách nhiệm, để sống dửng dưng trước nỗi thống khổ của tha nhân.
    Lạy Chúa, Chúa luôn đi bước trước trong tình yêu. Xin cho chúng con luôn mau mắn giúp đỡ những ai kêu cầu chúng con. Xin giúp chúng con biết dùng tài năng Chúa ban để mang lại lợi ích cho anh em. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền


    ______________________________________


    Những Kho Tàng Quý Giá

    Giá trị của những đồ cổ thường gia tăng với thời gian.
    Dạo tháng 5 năm 1990, một chiếc xe Rolls Royce do Anh Quốc chế tạo năm 1907 đã được bán đấu giá là 2,860,000 đô la tại bang Florida bên Hoa Kỳ. Ðây là giá bán một chiếc xe cổ cao nhất từ trước tới nay. Chiếc xe này đã từng được gia đình cự phú Rochefeller sử dụng.
    Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là giá bán một bức tranh của danh họa người Hòa Lan là Vincent Van Gogh. Bức tranh họa lại chân dung của một người bạn thân cuqả danh họa là bác sĩ Gachet, được thực hiện năm 1890, tức là cách đây đúng hơn 100 năm. Trong một cuộc đấu giá tại phòng triển lãm ở New York bên Hoa Kỳ, bức tranh đã được bán đấu giá là 82,500,000 đô la. Ðây là giá bán cao nhất từ trước tới nay đối với một tác phẩm nghệ thuật.
    Cũng dạo đó, tại Tây Ðức, người ta đã đem bán đấu giá cả những tác phẩm của nhà độc tài Hitler. Một bức tranh sơn nước của ông đã được bán với giá là 6,134 đô la. Ngay cả một ấn bản của tác phẩm Mein Kampf, trong đó Hitler đã vạch ra chương trình hành động gian ác của ông và các cộng sự viên của ông cũng được đem bán đấu giá. Người mua có lẽ không nghĩ đến giá trị nghệ thuật cho bằng muốn giữ làm kỷ niệm di tích có liên quan đến tội ác và một trong những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nhân loại.
    Tất cả những người môn hạ đích thực của Ðức Kitô cũng là những nhà nghệ sĩ mà các tác phẩm đều vượt thời gian. Tác phẩm mà các ngài để lại chính là cả cuộc sống được họa lại theo khuôn mẫu của Ðức Kitô. Những tác phẩm ấy không bao giờ được đem bán đấu giá, bởi vì chúng vô giá. Không có tiền bạc nào có thể mua được công đức và các hy sinh của các Thánh. Người ta chỉ có thể chiêm ngắm bằng đôi mắt của đức tin. Có những cuộc sống xả thân quên mìnhmà mọi người đều biết đến, có những cuộc sống âm thầm trong gian lao thử thách mà chie mình Thiên Chúa mới chân nhận giá trị. Hiển hách hay âm thầm, cuộc đời của những vị thánh là những tác phẩm mà giá trị vẫn muôn tồn tại qua muôn thế hệ.
    Mỗi một người Kitô chúng ta, trong cố gắng mô phỏng Ðức Kitô, cũng là những nghệ sĩ cách này hay cách khác đều để lại những tác phẩm cho hậu thế. Chúng ta không để lại tài sản, chúng ta không để lại những tác phẩm nghệ thuật, mà chính là cả cuộc sống của chúng ta. Trong âm thầm theo Chúa, phục vụ tha nhân, chịu đựng vì đức tin, làm chứng tá cho Tin Mừng: chúng ta luôn được mời gọi để lại cho hậu thế kho tàng vô giá nhất: đó là Niềm Tin. Âm thầm hay rực sáng, Niềm Tin đó phải là kho tàng quý giá nhất mà mọi người chúng ta đều được mời gọi để sống, để bồi đắp, để vun trồng và truyền lại cho các thế hệ mai sau.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  30. Được cám ơn bởi:


  31. #16
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    14/02

    Dấu lạ của tình thương


    Thứ Hai Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,11-13


    11Những người Pharisêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. 12Người thở dài não nuột và nói: "Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả." 13Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền qua bờ bên kia.


    Suy niệm:
    Thánh Máccô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
    Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
    Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do Thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Đền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do Thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của satan: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa ngươi.” Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái. Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
    Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Đấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
    Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Satline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn nhân hậu của một Gioan XXIII: hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Đức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
    Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúc, xin cho chúng con khám phá những dấu lạ Ngài vẫn thực hiện hằng ngày trong cuộc sống để chúng con vững tin vào Ngài.
    Lạy Chúa, nhớ lại biết bao kỳ công Chúa đã thực hiện nơi chúng con, chúng con xin dâng lên Chúa lời cảm tạ Chúa muôn đời. Amen

    http://tgpsaigon.net


    ______________________________________


    14 Tháng Hai
    Thánh Valentine
    (c. 269)


    Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ bỏ đức tin, ngài được tử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.
    Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.
    Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno. Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu. Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, "mọi chim đực đi tìm chim mái." Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.
    Trích từ NguoiTinHuu.com


    _______________________________________




    Bài Ca Vạn Vật


    Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ giữa một nhà tí thức bi quan với Thánh Phanxico thành Assisi. Như thường lệ, mỗi lần gặp bất cứ ai, vị sứ giả của Hòa Bình thường cất lên bài ca vạn vật: "Chúc tụng Ðấng Tối cao, Thiên Chúa toàn năng vì anh mặt trời, vì chị mặt đất, vì anh lửa, anh gió, vì chị chết". Nhà trí thức bi quan lắng nghe hết bài ca vạn vật của vị sứ giả Hòa Bình. Nước mắt lăn dài trên gò má của ông. Nhưng đây không phải là những giọt nước mắt của cảm động, mà là của căm tức thì đúng hơn. Không còn kềm hãm được cơn giận của mình nữa, nhà trí thức bi quan trút bỏ trên Thánh Phanxico tất cả những sôi sục của ông mà ông cũng cho là của không biết bao nhiêu kẻ vô tội khác trên trần gian. Ông nói với Thánh nhân như sau: "Hỡi người anh em kỳ diệu với cái nhìn đầy ánh sáng. Người anh em ca tụng mặt trời. Người anh em có bao giờ thấy người ta chết vì bị mặt trời thiêu đốt chưa? Người anh em có bao giờ thấy cả một sa mạc nắng cháy khô cằn chưa? Người anh em có thấy người ta chết vì hạn hán không?
    Người anh em ca tụng nước. Người anh em có bao giờ chững kiến cảnh lụt lội, màn trời chiếu đất chưa? Người anh em ca tụng Mẹ Ðất. Hẳn người anh em đã biết run sợ khi chứng kiến cảnh động đất: nhà cửa đổ nát, người người bị chôn vùi. Người anh em ca tụng lửa. Người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh núi lửa thiêu rụi níu rừng cây cỏ và con người không?
    Người anh em ca tụng anh gió. Người anh em có lẽ chưa bao giờ ra giữa khơi để chứng kiến cảnh chới với của những người đi biển khi gặp cuồng phong? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì gió bão? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì thiên tai?
    Nghe tất cả những lời tả oán ấy của người trí thức bi quan, vị sứ giả của Hòa Bình chỉ biết mỉm cười. Ngài gật đầu trả lời: Phải, hỡi người anh em, ta nghe và biết tất cả những gì người anh em mới kể ra. Ta biết rằng tất cả những điều thiện hảo đều có thể trở thành xấu do sự sử dụng không đúng của con người. Ðó là chân lý mà ai trong chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được trong cuộc sống mỗi ngày.
    Nhưng điều Ta muốn nói: đó là ngay từ những điều xấu, Thiên Chúa có thể biến thành khởi nguồn của những điều tốt đẹp hơn. Trong bài ca của Ta, Ta đã nhắc đến Sự Chết và Tội Lỗi là hai điều xấu xa nhất. Cái chết có thể trở thành nguồn ơn cứu thoát. Tội lỗi cũng có thể trở thành khởi điểm của hồng ân. Thánh Phaolô há đã chẳng nói: "Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào hơn". Thiên Chúa không bao giờ thất vọng và đầu hàng trong việc thi ân cả. Tất cả những gì Ta muốn nói lên trong bài ca vạn vật của Ta: đó là mời gọi anh em hãy cố gằng nhìn thấy sự thiện trong mọi sự.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  32. Được cám ơn bởi:


  33. #17
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    15/02

    Men xấu gương mù


    Thứ Ba Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,14-21

    14Các môn đệ quên đem bánh theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15Người răn bảo các ông: "Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê!" 16Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có bánh. 17Biết thế, Người nói với các ông: "Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! 18Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao: 19khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?" Các ông đáp: "Thưa được mười hai." 20"Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?" Các ông nói: "Thưa được bảy." 21Người bảo các ông: "Anh em chưa hiểu ư?"


    Suy niệm:
    Chữ men trong Kinh Thánh có nhiều ý nghĩa:
    - Trước hết men có nghĩa là làm tăng trưởng. Men là một sức mạnh vô hình làm cho bột dậy men như trong dụ ngôn người đàn bà bỏ men và đấu bột làm bánh (Mt 13,33)
    - Men có nghĩa là đổi mới như lời thánh Phaolô “Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới. Anh em là bánh không men.”
    - Men có một ý nghĩa xấu là làm hư hỏng. Chính men tự nó là do một chất tự hủy. Khi thành men, men lại hủy hoại chính tinh bột để có thể làm bánh. Cho nên men có nghĩa là một sức mạnh xấu là tiêu hủy đa số, như kiểu một con sâu làm rầu nồi canh. Cũng trong ý nghĩa này, mà tuần lễ vượt qua đã cấm dùng men. Maisen đã cấm dùng men trong những vật dùng trong việc phụng tự. Tiên tri Giacaria có nói đến bánh không men là thực phẩm nuôi dân trong ngày mùa xuân. Trong ngày lễ vượt qua của người Do Thái, cũng phải dùng bánh không men. Dĩ nhiên ý nghĩa chính của nó là phải lên đường vội vã đến nỗi người ta không còn dịp chờ có ý nghĩa là bỏ đi sự suy đồi, bỏ đi kiếp nô lệ Ai Cập dù có thịt thà củ hành củ tỏi.
    Cũng trong ý nghĩa này mà Chúa căn dặn các môn đệ “hãy coi chừng men Biệt phái và men Hêrôđê” (c.15). Men của người Biệt phái và Hêrôđê đây hiểu là sự giả hình là câu nệ vào ý nghĩa đen của luật cũ Maisen, là chôn chặt vào hình thức bên ngoài như phải rửa tay trước khi ăn tiệc, không đi bộ quá một cây số ngày Sabát. Một khi chúng ta sống theo men của người Biệt phái, là chúng ta trọng luật mình hơn luật anh em, trọng luật người hơn luật Chúa, thích tập tục hơn tinh thần, thích nói đến lầm lỗi của người khác hơn của mình, nói đến các nhân đức khác hơn thực hành và cái lưỡi dài hơn cái tay là thế.
    Chúng ta hay phàn nàn tại sao dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng, thế mà lại sinh ra cho Chúa những quả chua chát, sinh ra thứ men hỏng là những phái Hêrôđê, Biệt phái... Họ đã lạm dụng tự do để phản bội Đấng ban cho mình uy quyền đó. Tại sao Thiên Chúa lại cứ im lặng trước sự phản bội. Chúng ta có dám chắc rằng Thiên Chúa im lặng trước sự phản bội, tội lỗi của cả nhân loại không? Chúng ta nghĩ sao về sự im lặng của một cánh rừng già trước khi bão tố? Nghĩ gì đến sự im lặng của một võ sĩ trước khi lên khán đài? Lịch sử minh chứng khi nào Thiên Chúa im lặng là dấu Ngài sẽ dành một hình phạt nặng nề hơn.
    Có lẽ chúng ta phải xét mình ngay hôm nay, đời chúng ta sống vắn vỏi quá, thế mà tại sao chúng ta cứ gây tội ác hoài, cứ gây gổ bất an cho người này người khác hoài. Tại sao chúng ta cứ gây gương mù gương xấu mãi, cứ chồng chất thêm gánh nặng cho anh em, đáng lẽ mình phải sống đem phúc lộc cho mọi người. Là con người, chúng ta rất khéo đóng kịch, kể cả việc phạm sự thánh để đóng kịch cũng dễ nữa. Chúng ta dễ ẩn mình dưới nhiều lớp vỏ đạo đức, việc làm để xô đẩy bao linh hồn lìa xa Thiên Chúa. Chúa nói khi chúng ta sống giả hình như thế là gương mù mà Kinh Thánh nói “Thà buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển sâu còn hơn” (Mt 18,6). Nếu chúng ta sống giả hình, sống giấu giếm, gương mù là thứ men hỏng, men xấu. Men xấu càng làm cho bột chóng bị hư hơn là để nguyên bột. Thiên Chúa đang cần chúng ta là men tốt giữa gia đình, xóm ngõ. Thánh Phaolô bảo “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao giữa bầu trời đêm khuya u tối...” (Pl 2,14-15)


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa xin cho chúng con đừng gây gương mù gương xấu cho anh em, đừng chồng chất thêm gánh nặng cho anh em, xin cho chúng con biết sống đem phúc lộc cho mọi người. Amen
    http://tgpsaigon.net

    ___________________________________


    Hạt Thóc Dâng Tặng Ðức Vua



    Có lẽ chúng ta đã có dịp đọc bài thơ sau đây của đại thi hào Tagore: "Có một người hành khất ngồi bên vệ đường. Hôm đó, Ðức Vua sẽ ngự giá đi qua ngôi làng. Người hành khất cố gắng lê lết đến trước cổng làng, lòng nhủ thầm: "Ðây là dịp may duy nhất đời tôi". Từ đằng xa, khi vừa thấy xa giá xuất hiện, anh đã cố gắng đưa tay lên vẫy chào. Có ngờ đâu, trước sự sửng sốt của mọi người, khi xa giá vừa đến trước cổng làng, Ðức Vua đã cho dừng xe lại và chính ông là người đưa tay ra để xin hành khất bố thí.
    Người hành khất bèn đưa tay vào trong chiếc bị cũ kỹ nhơ bẩn của mình để kéo ra một hạt thóc. Anh trịnh trọng đặt hạt thóc vào trong tay Ðức Vua. Ðức Vua tiếp nhận món quà từ tay người hành khất và biến đi giữa cát bụi mịt mù.
    Chiều đến, khi về tới nhà, người hành khất mới mở chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa muôn hạt thóc, anh nhận ra một hạt vàng óng ánh. Lúc bấy giờ, người hành khất mới khốc nức nở hối tiếc: "Phải chi ta đã cho Ðức Vua tất cả những gì ta có..."
    Thiên Chúa đối xử với chúng ta cũng giống như vị Vua đối xử với người hành khất. Ngài muốn trao ban cho chúng ta tất cả kho báu trên Thiên Ðàng. Qua người con một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta chính Sự Sống của Ngài. Qua Sự Sống chúng ta đã lãnh nhận, qua sự hiện diện của những người anh em chúng ta, qua ngay cả những thất bại và tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa vẫn luôn nhắc đến với từng người chúng ta như một người hành khất. Chúng ta tưởng chúng ta đang chìa tay van xin trước. Kỳ thực, chính Ngài mới là kẻ không ngừng đưa tay ra để xin chúng ta mở rộng đôi tay và quả tim của chúng ta. Tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài, nghĩa là như những con người có tự do, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tôn trọng chúng ta. Ngài muốn trao ban tất cả cho chúng ta vì yêu thương. Nhưng cũng chính vì yêu thương, cho nên Ngài không làm cách nào khác hơn là van lơn, kêu mời chúng ta. Ngài chờ đợi nơi chúng ta một cái gật đầu, một hạt thóc nhỏ rút từ trong chiếc bị khốn cùng của chúng ta. Một nghĩa cử nhỏ mọn làm cho người anh em, một chút tin yêu hy vọng giữa bao nhiêu thử thách khó khăn của cuộc sống, một chút khiêm tốn và sám hối sau những lần vấp nga: đó là những hạt thóc bé nhỏ mà chúng ta có thể trao tặng cho Chúa để từ đó lãnh nhận trở lại tất cả kho tàng Yêu Thương của Ngài.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  34. Được cám ơn bởi:


  35. #18
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    16/02

    Mù tối tâm linh


    Thứ Tư Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,22-26

    22Đức Giêsu và các môn đệ đến Bếtxaiđa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin Đức Giêsu sờ vào anh ta. 23Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: "Anh có thấy gì không?" 24Anh ngước mắt lên và thưa: "Tôi thấy người ta, trông họ như cây cối, họ đi đi lại lại." 25Rồi Người lại đặt tay trên mắt anh, anh trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26Người cho anh về nhà và dặn: "Anh đừng có vào làng."


    Suy niệm:
    1. Bệnh mù rất thông thường trong các nước Đông phương. Kinh Thánh nói tới bệnh mù 80 lần. Riêng Tân Ước nói tới 52 lần. Riêng Phúc Âm Nhất Lãm kể ra 5 trường hợp phép lạ cho người mù lòa (Mt 9,20; Mc 8,22; Mt 12,22; Ga 19,16; Mt 20,29), mà hôm nay chúng ta bàn tới một trong 5 phép lạ đó: phép lạ hôm nay là của riêng Thánh Sử Máccô ghi lại. Phép lạ này xảy ra ngay sau khi hoá bánh lần thứ 2 và trước lời tuyên xưng của thánh Phêrô, vào giữa năm thứ 2 đời sống công khai của Chúa Giêsu. Nơi xảy ra phép lạ là thành phố nhỏ Betsaida, thuộc miền đất Giulia thuộc Galilê mà gần nơi đây là nơi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ 1. Chúng ta thấy một số sự kiện trong phép lạ hôm nay: Chúa đã tuần tự làm nhiều cử chỉ, chứ không chữa ngay như nhiều phép lạ khác.
    Chúa dẫn đưa người mù ra khỏi thành. Việc anh ta đi theo Chúa đủ minh chứng anh ta tin tưởng vào quyền uy và lòng tốt của Chúa. Thánh Gioan Kim khẩu viết “Chúa Giêsu đã đoái thương tự nhận mình là người dẫn đường đi cho người mù trong chốc lát, có lẽ để tránh rầm rộ,” tránh sự nổi hứng của dân chúng, trong khi Chúa đang cần sống im lặng để giáo huấn các tông đồ. Và đó cũng là lý do Chúa bảo anh ta sau khi được khỏi hãy đi thẳng về chứ đừng vào thành Betsaida nữa (Lc.26).
    Trong phép lạ, Chúa Giêsu đã dùng nước bọt xoa lên mắt người mù, nước bọt theo quan niệm người xưa, có thể là vị thuốc để trị về mắt và những phần khác của cơ thể (Mc 7,33-8,23). Sử gia Tacite nổi tiếng bậc nhất tử cổ chí kim, sống vào khoảng nửa sau thế kỷ thứ nhất có nói đến giá trị của nước miếng. Quan niệm của phái Rabbin cho rằng nước miếng của người ăn chay mới tốt. Trong y học, theo cuốn Đông y bảo giám hoàn đau, thì nước miếng trị được những mụn nhọt và làm sáng mắt hơn, trừ tà khí, nhưng phải lấy vào canh năm và chính mình làm lấy. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, nước bọt hòa bùn bị cấm vào ngày Sabbat (Ga 9,14).
    Vậy việc Chúa Giêsu dùng nước bọt và chạm vào mắt không phải là thứ dị đoan, nhưng mang ý nghĩa tượng trưng mà qua đó Chúa muốn kích động lòng tin còn thiếu nơi anh mù.
    Khi Chúa đặt tay vào mắt anh ta, người mù được thấy dần dần. Chúa hỏi người mù: “Con có thấy gì không?” (c.23). Người này ngước mắt trả lời: “Dạ, thấy người ta đi lại như cây cối?” (c.24). Có tác giả như Lagrange, Huby cho rằng như vậy thì hắn không thể có quan niệm về cây cối và con người được. Nhưng cha Prat lại cho đó là người mù lúc mới sinh vì con người ta nhìn ra được đồ vật cách rất lờ mờ, chỉ có thể phân biệt vật đứng im và vật di chuyển nên anh này so sánh như thế mà thôi. Dù thế nào cũng là một phép lạ đặc biệt của Thiên Chúa.
    Sau lần đặt tay thứ 2, người mù được dần dần thoát khỏi: nhìn thẳng, mắt sáng và sau cùng nhìn rõ mọi sự.
    Chúng ta được hai bài học:
    - Tại sao Thiên Chúa không chữa cho khỏi tức khắc? Thưa, Chúa chuẩn bị lòng tin cậy. Phép lạ này cũng như phép lạ từ lúc mới sinh được thực hiện tuần tự dần dần. Cho thấy chân lý Phúc Âm sẽ thấm dần và cuối cùng đi tới đức tin. Cũng vậy, nơi trần gian này, chúng ta hiểu chân lý của Chúa mới như là nhìn vào gương, nhưng trên trời chúng ta sẽ đối diện với Chúa và lúc bấy giờ sẽ thấy rõ.
    - Con người chúng ta nơi trần gian bước đi về trời giữa ánh sáng và bóng tối. Con người luôn sẵn trong mình một khả năng bị mù. Chúng ta có thể bị mù vì dục vọng, bởi tham sân si, bởi tiền của, danh vọng, tự cao. Chúng ta có thể bị thu hẹp cái nhìn như kiểu ếch ngồi đáy giếng. Chúng ta thu hẹp sự thật cũng là một loại bệnh mù trên phạm vi siêu nhiên. Có khi chúng ta chỉ thành công trên một phương diện mà cứ tưởng trên mọi phương diện khác. Hơn được một người, cứ tưởng là hơn mọi người, cũng là bệnh quáng hay cận thị, viễn thị siêu nhiên. Trường hợp ấy, chúng ta cần nhìn về Chúa để thấy được mình và sự thật.
    2. Đặt câu truyện vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Máccô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
    Qua phép rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng con có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa. Amen.

    http://tgpsaigon.net

    ___________________________________


    Ngọn Nến Cháy Sáng

    Nữ sĩ người Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến thành công tại Thánh Ðịa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anhlà thành phố Fireheze bên Italia.
    Quyết định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một con người hiền hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
    Trên đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc gươm đang mang trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ này, người kỵ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì đã trút được bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn còn giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nhạo và tìm đủ cách để dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết còn hơn là để cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến cháy sáng về đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dúng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
    Trước anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Ðược hỏi: Ðâu là bía quyết giúp anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn xàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy".
    Cuộc đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sáng trong ngọn nến của Ðức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến bước.
    Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt lên từ mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Ðó cũng phải là ước mơ của mỗi người chúng ta. Ánháng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn nến của chúng ta để được cháy lên?

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  36. Được cám ơn bởi:


  37. #19
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    17/02

    Ngài là Đức Kitô


    Thứ Năm Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,27-33

    27Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" 28Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." 29Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." 30Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. 31Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. 33Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."


    Suy niệm:
    Đoạn Tin Mừng hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tin tại địa hạt Cêsarê thuộc quyền Philip.
    Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbi Do Thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài: người thì bảo là Gioan Tẩy Giả đã sống lại, kẻ thì cho là Êlia hay một Tiên Tri nào đó. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng về con người và sứ mệnh của Ngài: cứ sau mỗi phép lạ, Ngài thường bảo kẻ được thi ân giữ kín tông tích của Ngài.
    Nhưng đã đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy, Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô,” nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp vơi giấc mơ của các ông, thì Đức Kitô mà các ông mong đợi là Đấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Đức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập Giá của Ngài. Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập giá; vì thế khi Phêrô vừa can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là Satan.
    Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi Ngài từ cõi chết sống lại. Đấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài, Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình; tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Chúa Kitô.
    Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta.” Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong những hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ải mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thập giá mình. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một thập giá nặng hơn đôi vai của chúng ta.
    Có rất nhiều cách để chúng ta từ khước thập giá: chúng ta từ khước thập giá bằng cách không tiếp nhận cuộc sống như một ân ban, chúng ta khước từ thập giá khi chúng ta chỉ nhìn một cách bi quan về các biến cố và con người, khi chúng ta bán đứng lương tâm vì một chút lợi lộc vật chất, khi chúng ta đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ, trong bốn bức tường nhà thờ, mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng giây phút của cuộc sống.
    Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: “Tôi chỉ biết có một Chúa Kitô và là Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập Giá.”


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho niềm tin của chúng con luôn được soi sáng bằng mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, để chúng con biết chấp nhận thập giá trong từng giây phút cuộc đời. Amen

    http://tgpsaigon.net

    __________________________________


    Bảy Vị Sáng Lập Dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ
    (thế kỷ 13)



    Có thể nào bạn tưởng tượng được có bảy người nổi tiếng của thành phố Saigon hoặc Hoa Thịnh Ðốn cùng tụ nhau lại, từ giã gia đình sự nghiệp và sống cô độc trong một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa không? Ðiều đó đã xảy ra trong thế kỷ XIII, ở thành phố Florence phồn thịnh và văn vật. Lúc ấy, thành phố này tan nát vì tranh chấp chính trị cũng như vì lạc giáo Cathari (trong những điều lầm lạc, họ cho rằng ma quỷ là chúa đối nghịch và Ðức Giêsu chỉ là một thiên thần). Ðời sống luân lý thời ấy thật thấp và tôn giáo dường như không có ý nghĩa gì.
    Năm 1240, bảy người quý phái của Florence cùng quyết định ra khỏi thành phố đến một nơi cô quạnh để cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa. Sự khó khăn đầu tiên của họ là việc cấp dưỡng cho thân nhân, vì hai người vẫn còn lập gia đình và hai người nữa goá vợ.
    Mục đích của họ là sống ăn năn đền tội và cầu nguyện, nhưng không bao lâu họ bị quấy rầy bởi những người hiếu kỳ đến từ Florence. Sau đó họ di chuyển đến một nơi vắng vẻ khác là sườn núi Senario.
    Năm 1244, dưới sự linh hướng của Cha Phêrô ở Verona, O.P. (sau này được phong thánh), nhóm này theo thói quen đạo đức tương tự như của các cha Ða Minh, sống dưới quy luật của Thánh Augustine và lấy tên là Tôi Tớ Ðức Maria. Tu hội này có hình thức tổ chức giống như các tu sĩ khất thực hơn là các đan viện thời xưa.
    Năm 1852, các thành viên của tu hội từ Áo đến Hoa Kỳ và định cư ở Nữu Ước, sau đó ở Philadelphia. Hai tỉnh dòng Hoa Kỳ được phát triển từ một tổ chức nhỏ bé của Cha Austin Morini được thành lập ở Wisconsin năm 1870.
    Các thành viên của tu hội phối hợp giữa đời sống đan viện và sự hoạt động tích cực. Trong đan viện, họ sống đời cầu nguyện, làm việc và giữ thinh lặng nhưng trong công tác tông đồ họ tham dự các công việc của giáo xứ, dạy học, rao giảng và các sứ vụ khác.


    Lời Bàn

    Thời gian mà bảy vị sáng lập dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ sinh sống cũng rất giống như hoàn cảnh mà chúng ta đang sống hiện nay. Ðó là "thời gian tốt nhất và xấu nhất." Có lẽ nhiều người cảm thấy như bị lôi cuốn đến một cuộc sống phi văn hóa, ngay cả phi tôn giáo. Trong một phương cách mới hơn và khẩn thiết hơn, tất cả chúng ta đều phải đối diện với những thử thách của một cuộc đời mà tâm điểm là Ðức Kitô.


    Lời Trích

    "Mọi tu hội hãy loan truyền tin mừng của Ðức Kitô trên toàn thế giới bằng đức tin chính trực, bằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, bằng sự thành tâm với Thánh Giá và qua niềm hy vọng vào sự vinh hiển tương lai... Do đó, với lời cầu bầu mạnh mẽ của Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, mà 'cuộc đời ngài là quy luật cho mọi đời sống,' các cộng đồng tôn giáo sẽ cảm nghiệm sự gia tăng về số lượng, và sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp mà từ đó dẫn đến sự cứu độ" (Sắc Lệnh về Ðời Sống Tu Trì, 25).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

    _______________________________________


    Người Buồn Cảnh Cũng Có Vui Ðâu Bao Giờ

    ỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ. Một thanh niên nọ đã xin đến Ấn Ðộ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy...
    Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.
    Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó.
    Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân anh.
    Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
    Câu chúc đầu tiên của Ðức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là: :bình an cho các con". Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  38. #20
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    18/02

    Điều kiện theo Chúa


    Thứ Sáu Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 8,34-9,1

    34Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? 37Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? 38Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người." 1Đức Giêsu còn nói với họ: "Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực."


    Suy niệm:
    Sau khi Chúa Giêsu tiên báo về cái chết và sự Phục sinh của Ngài, thì Chúa mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài. Chúa nói muốn theo Chúa thì phải có điều kiện. Điều kiện đó là “Từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa” (c.34-35).
    Theo thánh Giêrôm, có 4 loại thập giá:
    - Tử đạo.
    - Tất cả những đau khổ phiền muộn do Thiên Chúa quan phòng gửi đến như bệnh tật, hay lo âu, sợ hãi chán nản, thất vọng, thất bại.
    - Tất cả những cám dỗ do ma quỉ bày ra và được Chúa cho phép xảy đến hầu tinh luyện hoặc tăng nhân đức.
    - Những hy sinh từ bỏ mà mỗi người muốn lập công phấn đấu với dục vọng của con người.
    Bốn thứ thập giá ấy mãi mãi vẫn là một thập giá cho mỗi người tự vác lấy đi vào và đi ra khỏi đời mình và đi bằng một lối hẹp của Phúc Âm. Bất cứ người con nào tin Chúa đều phải vác thập giá của mình. Một khi tin Chúa là phải gặp ngay những khó khăn thử thách Thiên Chúa gửi đến. Bắt đầu tin là bắt đầu phấn đấu, không phải là với xác thịt máu huyết mà thôi mà còn phải phấn đấu với thế giới ma quỉ nữa.
    Phải ý thức được mình đang ở trong hoàn cảnh nào, lãnh địa nào, để biết được thập giá của mình nặng nhẹ ra sao. Riêng thánh Phaolô quả quyết phải trải qua nhiều nỗi đắng cay gian khổ mới được vào nước trời.
    Điều này dễ hiểu và chúng ta đã thấy ngay nơi cuộc sống; Ở đời, một người được nhận vào làm việc trong một hợp tác xã, một quốc doanh, tổ hợp, họ phải thi cử và phải có khả năng xứng đáng. Nhưng không ai dễ đem phần đến cho. Huống chi là nước trời càng đòi hỏi gắt gao khả năng của vĩnh cửu. Vì thế tin theo Chúa, trước hết là chấp nhận mọi gian khổ, là tự xếp hàng phấn đấu trong lãnh vực siêu nhiên với ma quỉ. Là một chiến sĩ đi chống giặc, không ai lại không gặp gian nan thử thách. Vậy thì là con cái Chúa làm sao tránh được. Chúng ta biết trước rằng những đau khổ đời này không đáng gì so sánh với vinh quang tỏ hiện cho chúng ta ở đời sau. Chịu đựng được gian nan trong can đảm là vì biết rằng sau những đau khổ sẽ có phần thưởng chờ đợi mình trong cõi vĩnh cửu. Thật ra nếu không vì một đối tượng, một mục đích nào đó, thì chúng ta không có lý do gì để mà chịu đựng được cả.
    Cho nên nhẫn nại can đảm trong gian truân chính là điều kiện ta sẽ nhận được phần thưởng nơi Chúa. Ngay ở đời này đã có những phần thưởng chẳng hạn phần thưởng kẹo bánh cho trẻ con, phần thưởng Noel.
    Nếu chúng ta được chính Thiên Chúa thưởng, chúng ta có hãnh diện không? ý muốn của Chúa là thưởng công chúng ta sau cuộc đời trần gian này. Ý Chúa là muốn chúng ta chấp nhận gian khổ hy sinh. Vậy ý Chúa phải luôn luôn đặt ở hàng ưu tiên. Nếu ở đời này mà có người hết lòng theo đuổi một lý tưởng không mấy cao thượng, thí dụ một cầu thủ, một lực sĩ mà họ biết chấp nhận mọi gian khổ, thì con cái Chúa phải sống làm sao?
    Cho nên, nếu một khi biết được ý Chúa, biết được chương trình của Ngài rồi thì “Sông sâu cũng lội trăm đèo cũng qua.” Thiên Chúa là tình thương, Ngài muốn chúng ta cùng cộng tác với Ngài chút đỉnh như giọt nước hoà tan trong ly rượu, như nơi thứ 5 đàng thánh giá, như 5 chiếc bánh và hai con cá.
    Chúng ta có thể cộng tác với Chúa bằng đau khổ. Đừng bao giờ quên hoà hợp với Ngài để cứu độ.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu.” Và Chúa đã thực thi điều đó cho chúng con. Chúa còn tự hiến cả Máu Thịt Mình để trở nên của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa. Chúng con xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng con dám sống một cuộc đời theo gương Chúa, luôn biết sống hy sinh và phục vụ mọi người.
    Lạy Chúa, thế gian luôn chạy theo danh lợi thú trần gian. Nhiều người vì những đam mê trần gian mà đánh mất nhân tính của mình, đánh mất tình liên đới với anh em. Nhiều người vì danh vọng mà bán rẻ lương tâm để rồi làm hại cuộc đời nhau. Họ đâu biết rằng “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì.” Họ đã đánh mất hạnh phúc đời này và cả đời sau khi họ sống thiếu công bình bác ái, và yêu thương tha nhân.
    Xin Chúa luôn gìn giữ chúng con trong ơn nghĩa Chúa. Xin giúp chúng con vượt thắng những cám dỗ tỗi lỗi. Xin giúp giúp chúng con luôn biết chọn lựa Chúa hơn là những thú vui mau qua đời này. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền


    _____________________________________


    Hai Biển Hồ

    Palestina có tới hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Ðây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Xung quanh hồ này là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi. Nhà cửa cũng mọc lên rất nhiều xung quanh biển hồ này... Chúa Giêsu đã gặp gỡ với những người môn đệ đầu tiên của Ngài tại đây và Ngài cũng nhiều lần đi thuyền xuyên qua biển hồ này.
    Biển hồ thứ hai tại Palestina là Biển Chết. Ðúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi mà người cũng có thể trở thành bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên khiến không ai muốn sống gần đó.
    Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ khác, nhờ đó nước của nó luôn luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muôn thú cũng như con người.
    Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho nó do đó nước của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
    Thánh Phaolô đãghi lại lời vàng ngọc của Chúa Giesu như sau: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh". Thật ra, càng trao ban, người ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn.
    Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Ðôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng...
    Càng trao ban, càng được nhận lãnh: đó là một định luật sống của con người trong mọi lĩnh vức. Tất cả con người chúng ta, tất cả sự sống của chúng ta, tất cả tài năng của chúng ta, tất cả những gì chúng ta có: tất cả đều do Chúa ban tặng. Thiên Chúa ban tặng tất cả cho chúng ta để chúng ta trao ban cho người khác và như vậy, chúng ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực... Cũng như biển hồ Galilêa tiếp nhận nước từ dòng sông Jordan để rồi ban tặng cho những sông lạch xung quanh và nhờ đó, trở thành trong xanh tươi tốt, cũng thế, sự sống chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa chỉ trở thành tươi tốt nếu nó được chia sẻ và trao ban cho người khác. Càng giữ lấy riêng cho mình, sự sống trong chúng ta sẽ héo tàn và chết dần chết mòn.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  39. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  40. #21
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    19/02

    Cuộc Biến Hình Vinh Quang


    Thứ Bảy Tuần thứ 6 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 9,2-13

    2Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. 4Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. 5Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia." 6Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." 8Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. 9Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì. 11Các ông hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các kinh sư lại nói ông Êlia phải đến trước?" 12Người đáp: "Đúng thế, ông Êlia đến trước để chỉnh đốn mọi sự. Vậy sao có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê? 13Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến, và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông."


    Suy niệm:
    Sau khi các môn đệ nhận ra Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế thì Chúa lại tiên báo cho họ cuộc tử nạn đau thương của Ngài. Điều này làm cho các môn đệ hoang mang lo sợ. Để an ủi họ và để chứng minh Ngài là Đấng Cứu Thế phải đến thật, thì Chúa đã biến hình trước sự hiện diện của 3 nhân chứng là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cảnh tượng biến hình gây nhắc nhớ tới những lần Thiên Chúa hiện ra với Maisen ở Sinai và với Elia ở Oreb. Giờ đây, Thiên Chúa không còn “che giấu mình” qua làn mây cột lửa nữa, mà mặt đối mặt cùng với hai cựu tiên tri Maisen và Elia (c.4).
    Biến hình là gì? Biến hình là sự thay đổi dáng vẻ hình thức bên ngoài nghĩa là mặc một hình dáng khác với thường lệ. Chẳng hạn như sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra giữa các môn đệ Emaus dưới hình thức một khách bộ hành. Ở đây, cuộc biến hình của Chúa được Kinh Thánh mô tả: “Áo Ngài trở nên rạng ngời trắng xóa không thợ giặt nào ở trần gian làm trắng tinh được như thế” (c.3). Điều này cho thấy như có một thứ ánh sáng từ trời toát ra. Điều này cũng minh chứng một quang cảnh uy nghi trang trọng của Trời cao đầy sự vinh quang cung kính. Cùng một vẻ vinh quang như ngày Chúa xuống phán xét cùng với các thiên thần (Mt 16,27). Vinh quang ấy đã một lần xảy ra ở Belem ngày Chúa Giáng sinh bao phủ các mục đồng (Lc 2,9-10). Stêphanô tử đạo đã thấy được thứ vinh quang Thiên Chúa trước khi chết (Cv 7,55). Phaolô trên đường Damasô cũng thấy vinh quang đó của Thiên Chúa (9,3). Xưa kia Maisen cũng được ánh sáng vinh quang này trên khuôn mặt của ông làm dân Do Thái kính phục sợ hãi.
    Việc biến hình là một ước mơ của người Do Thái cho rằng vào thời cuối cùng bộ mặt kẻ lành sẽ được biến đổi trở nên tinh khôi như các thiên thần. Sách Đaniel viết: “Kẻ hiền sẽ chói chang như ánh quang vòm trời và những ai dậy dỗ sự công chính cho người ta lúc ấy, được lung linh ánh sáng như tinh đẩu muôn đời muôn kiếp” (12,13).
    Nếu chúng ta muốn gặp thấy Chúa biến hình, chúng ta cũng phải can đảm từ bỏ mọi bận rộn thường nhật như các tông đồ để đi gặp riêng Chúa. Chúa Giêsu thường ngày vẫn là Chúa Giêsu biến hình, vấn đề là chúng ta có nhận ra Ngài không, nhận ra Thiên Chúa qua bổn phận của mỗi chúng ta không?
    Chúng ta cũng sẽ được biến hình như Chúa, nếu chúng ta cùng leo núi như Ngài, cùng chịu dựng những vất vả cực nhọc và sự chết với Ngài.
    Việc Chúa biến hình trong ánh sáng vinh quang hạnh phúc, cho chúng ta thấy rằng đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng là hạnh phúc, hạnh phúc vĩnh cửu của Nước trời. Cho nên đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua, là nấc thang đưa ta về trời. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về cái chết đau khổ, Chúa liền tiên báo trước cuộc phục sinh vinh quang mà cụ thể hóa trước bằng việc biến hình. Sự kiện biến hình đã là sức mạnh hăng say thúc đẩy nhiệm vụ nặng nề của các tông đồ. Chúng ta hãy nhắm đó làm tương lai vững chắc gần gũi cho cuộc đời dương thế.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, giờ đây chúng con đang cùng nhau xum họp trước tôn nhan Chúa, chúng con xin được chiêm ngắm thờ lạy Chúa. Ước gì chúng con cũng cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ngây ngất như ba môn đệ xưa khi chiêm ngắm vinh quang Chúa, để rồi chúng con cũng thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, chúng con thật hạnh phúc được ở bên Chúa, và tâm hồn chúng con tràn ngập bình an và hoan lạc. Xin cho linh hồn chúng con cũng trở lên lều tạm cho Chúa ngự trị. Dầu có bất xứng nhưng chúng con tin rằng tình yêu sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con cũng biết không dừng lại ở chiêm ngưỡng vinh quang Chúa mà còn biết xuống núi để làm vinh quang Chúa. Xin cho chúng con biết dẹp bỏ tính hưởng thụ, ngại gian khó. Xin cho chúng con sẵn sàng dấn thân không biết mệt mỏi trong chính bổn phận của mình, cũng như trong việc kiến tạo hạnh phúc cho tha nhân. Xin giúp chúng con luôn quảng đại dấn thân mà không so đo tính toán. Xin giúp chúng con biết dấn thân vì tha nhân mà không sợ tiêu hao bản thân để đem lại niềm tươi vui và hạnh phúc cho anh em của mình. Xin Chúa hãy thêm sức và kiện toàn những ước nguyện của chúng con ngõ hầu chúng con cũng được hưởng vinh quang bất diện với Chúa trên quê trời. Amen

    Lm.Giuse Tạ duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    _________________________________


    Thiên Chúa Quan Phòng

    Người Do Thái thường nói đến sự Quan Phòng của Thiên Chúa bằng mẩu chuyện như sau: Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý. Ðể cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Và đêm đến họ đốt đuốc để soi đường.
    Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có câu nói: "Thiên Chúa là Ðấng tốt lành trong tất cả mọi sự". Người bạn đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin như sau: "Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào".
    Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh có tốt không?". Người bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: "Ðây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này". Ðêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.
    Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?". Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: "Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Chúa là Ðấng tốt lành".
    Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cay đắng nào, thì người tín hữu ngoan đạo đã chúc tụng như sau: "Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Ðấng tốt lành".
    Họa vô đơn chí. Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: "Xem chừng như Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay". Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thing lặng.
    Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình, người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau: "Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là Ðấng thiện hảo".
    Tin ở Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai họa rủi ro xảy đến trong cuộc sống đều do Chúa gửi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một hồng ân cao cả hơn.
    Trong ánh sáng Phục Sinh của Ðức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào biến cố trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Ðức Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.
    Giữa muôn nghìn thử thách và đớn đau của cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  41. Được cám ơn bởi:


  42. #22
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    21/02

    Bài học đức tin


    Thứ Hai Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 9,14-29

    14Khi Đức Giêsu và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. 15Thấy Đức Giêsu, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. 16Người hỏi các môn đệ: "Anh em tranh luận gì với họ thế?" 17Một người trong đám đông trả lời: "Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu bị quỷ câm ám. 18Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi." 19Người đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi." 20Người ta đem nó lại cho Người. Vừa thấy Người, quỷ liền lay nó thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. 21Người hỏi cha nó: "Cháu bị như thế từ bao lâu rồi?" Ông ấy đáp: "Thưa từ thuở bé. 22Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi." 23Đức Giêsu nói với ông ta: "Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin." 24Lập tức, cha đứa bé kêu lên: "Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!" 25Khi thấy đám đông tuôn đến, Đức Giêsu quát mắng tên quỷ: "Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!" 26Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người nói: "Nó chết rồi!" 27Nhưng Đức Giêsu cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy, và nó đứng lên. 28Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?" 29Người đáp: "Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi."


    Suy niệm:
    Chúng ta biết phép lạ hôm nay xảy ra sau khi Chúa biến hình trên núi Thabor. Đang lúc đi xuống chân núi thì thấy dân chúng xúm quanh lại đông đúc bên cạnh là nhóm Luật sĩ đang tranh luận với tông đồ. Phúc Âm cho thấy dân chúng gặp Chúa thì họ ngạc nhiên (c.15). Tại sao lại ngạc nhiên. Có người nói dân chúng ngạc nhiên vì Chúa vừa ở trên núi xuống. Chúa còn giữ trên khuôn mặt những lằn sáng chói ngời giống như là Maisen xưa kia ở Sinai đi xuống. Nhưng thật ra ở đây, bản văn không nói gì về vấn đề này. Ngoài ra sau khi xuống núi biến hình, Chúa còn căn dặn các môn đệ đừng “nói cho ai hay các điều họ đã thấy ở trên núi cho đến khi Chúa sống lại” (Mc 9,9). Nếu Chúa muốn dấu kín, thì việc gì mà Chúa giữ nét mặt uy nghi sáng ngời của núi Thabor làm gì nữa.
    Vậy thì dân chúng “ngạc nhiên” là ở chỗ Chúa Giêsu đến đúng lúc các môn đệ gặp ngõ bí vì họ không chữa được bệnh quỉ ám như mọi khi, và đang bị các Luật sĩ nhạo cười nữa. Còn phía bệnh nhân thì đang trong tình trạng nguy ngập thập tử nhất sinh và thử thách các tông đồ. Như lời người cha tự cung khai là đứa con trai ông bị ám tàng và bị kinh phong (c.17), xùi bọt mép, gân cốt rã rời (c.20). Rõ ràng đây làm bệnh trạng, một loại rối loạn thần kinh bị ma quỉ làm trầm trọng thêm lên gấp bội, bệnh nhân trở thành kinh dị, không còn làm chủ được trí khôn ý chí tình cảm nữa vì nhường chỗ cho ma quỉ rồi, ma quỉ chủ trị rồi. Đấy chúng ta thấy một tình trạng quỉ ám nhập là ghê sợ như thế đó. Không thể tự mình làm chuyện gì nữa, chúng tôi đừng nói đến việc ăn năn sám hối. Các môn đệ đã ra tài chữa chạy nhưng đã thất bại nặng nề (c.18) và đang bị các luật sĩ nhạo cười.
    Thấy cảnh huống đó, Chúa Giêsu nói: “Hỡi thế hệ cứng lòng tin và tà vạy” (c.19). Lời này nhắm tới trước là môn đệ không đủ ăn chay cầu nguyện và còn tự tin vào tài hèn sức mọn của mình (c.29). Rồi tới dân chúng, chỉ háo hức muốn xem cho no mắt những cái kỳ dị mà không muốn tìm hiểu chiều sâu của ơn cứu độ qua phép lạ đó. Rồi luật sĩ, họ chỉ đến để bắt bẻ chỉ trích chứ không để tìm hiểu sự thật, hay thống hối gì đâu. Còn đối với người cha, thì như ông chỉ lo có một vấn đề sinh tử phần xác của đứa con ông.
    Dù sao thì Chúa cũng quên hết nhọc mệt trước khi người cha có đứa con đau khổ này. Ông thưa rõ với Chúa là con ông bị ám tàng rồi (c.17.18) đã chạy thầy chạy thuốc và đến cả với các môn đệ cũng không xong (c.18). Nay ông đem lòng tin đến cầu xin Chúa là cuối cùng. Và ông xin Chúa thương xót con ông tội nghiệp (c.22). Có lẽ một đàng ông bị lung lạc vì những người Biệt phái, Luật sĩ nhạo cười, và một đàng các môn đệ không chữa nổi cho nên ông đến thưa với Chúa “nếu có thể.” Hẳn là ông đã giảm bớt một chút lòng tin. Và Chúa đã lấy lại lòng tin cho ông bằng câu nói “Sao lại nói nếu có thể... Mọi sự đều có thể cho kẻ tin” (c.23). Không phải là Chúa không toàn năng. Nhưng là tại đức tin không đủ đó thôi. Đức tin là yếu tố quyết định để Chúa ban phép lạ.
    Lúc ấy, người cha đã hiểu và ông tuyên xưng ngay ”Tôi tin” (c.24) và xin cứu giúp đức tin non yếu. Và Chúa đã thưởng công đức tin bằng một phép lạ nhãn tiền. Và Chúa đã phán có một lời (c.25), quỉ câm điếc liền xuất ra tức khắc, làm đứa bé như chết đi. Chúa cầm tay em đứng dậy (c.27), trao cho người cha trước nỗi ngạc nhiên của mọi người.
    - Đức tin quan trọng đến Chúa cũng phải mủi lòng vì đức tin.
    - An chay cầu nguyện để tránh thoát được cám dỗ ma quỉ.
    - Đức tin của người cha cứu con, còn quí ông là những người cha thì sao?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Dân Do Thái năm xưa họ đã không nhận ra dấu chỉ tình yêu quan phòng của Chúa qua bánh Manna từ trời. Họ vẫn thèm miếng thịt bên Ai Cập. Họ vẫn oán trách Môsê đã không thoả mãn nhu cầu vật chất cho họ. Họ còn yếu lòng tin nên chưa đủ tín thác vào Chúa.
    Nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người đã thèm khát những danh danh lợi thú trần gian nên đã xa lìa Chúa. Họ đã bị ma quỷ ràng buộc linh hồn bằng biết bao tham vọng trần gian. Ma quỷ đã gieo vào họ tư tưởng chỉ cần tiền, cần quyền và tình. Nhiều người đã bán linh hồn cho ma quỷ chỉ vì những của cải mau qua trần gian. Nhiều người đã bán rẻ lương tâm của mình chỉ vì những hư danh trần gian. Nhiều người đã đánh mất phẩm giá của mình chỉ vì những thú vui thể xác thấp hèn. Vâng, nhân loạị hôm nay đang giết mình nên vẫn cấu xé tranh giành nhau miếng ăn mau qua ở đời. Có biết bao cái chết thương tâm khi mà họ quá đề cao danh lợi thú đến nỗi coi khinh mạng sống tha nhân. Đôi khi chính chúng con cũng từng chạy đua để giành lấy danh vọng mà loại trừ anh em, mà đánh mất nhân phẩm của mình.
    Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con. Xin thêm ơn trợ giúp để chúng con can đảm vượt thắng những đam mê thấp hèn, để chúng con làm chủ cuộc đời mình, để chúng con sống đúng với phẩm giá làm người của mình hơn. Xin giúp chúng con đừng bao giờ vì một chút danh lợi thú trần gian mà đánh mất thiên đàng mai sau. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ______________________________


    Người Cùi Hủi

    Raoul Follreeau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện đáng thương tâm như sau:
    Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi... Tuy không là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc lại càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi như một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Vũ trụ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân giường. Ngậm đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy vọng: đó là chốn thoát được chính nhà giam của anh... Ngày nọ, anh đã chốn ra khỏi khuôn mùng và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã nhận bắt được anh. Lần nay, người đàn ông khốn khổ dường như không còn một hy vọng nào nữa. Anh chỉ còn muốn tìm sự giải thoát qua cái chết...
    Lần thứ hai, anh chốn khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mà vẫn không tìm được sự tin tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận trước mặt mọi người. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi...
    Những ai đã và đang sống dưới một chế độ độc tài trong đó mọi thứ tự do cơ bản nhất của con người bị chối bỏ, đều cảm nhận được sự độc hại của thái độ thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa người với người... Một xã hội mà quan hệ giữa người với người cjỉ xây dựng trên dối trá, lừa đảo, hận thù, ganh ghét.... Một xã hội như thế không thể không đi đến chỗ diệt vong...
    Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa, Nước của Chân Lý, của Công Bình, của Bác Ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau...
    Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta chế độ kiểu mẫu: Ngài không nhìn người bằng một nhãn hiệu, bằng một lăng kính có sẵn. Tất cả mọi người, dù tội lỗi thấp hèn đến đâu cũng đều được Ngài nhìn dưới ánh mắt của cảm thông, của yêu thương, của tha thứ... Tất cả mọi người đều được nhìn dưới ánh mắt yêu thương của Ngài như một giá trị độc nhất vô nhị trong tình yêu của Thiên Chúa.
    Ðể được một cái nhìn như thế, chúng ta luôn được mời gọi để gạt bỏ mọi thứ thành kiến ra khỏi tâm hồn chúng ta. Trong tất cả mọi sự và trong mọi người, chúng ta hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa Giêsu. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới mong tái tạo được sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau trong xã hội chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  43. Được cám ơn bởi:


  44. #23
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    22/02

    Làm tôi tớ mọi người


    Thứ Ba Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 9,30-37


    30Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết, 31vì Người đang dạy các môn đệ rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại." 32Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. 33Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?" 34Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. 35Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." 36Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: 37"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy."

    Suy niệm:
    Ở cuối các văn kiện Tòa thánh, các Đức Giáo Hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: “Tôi tớ của các tôi tớ.” Đây là tinh thần mà Chúa Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải có, như được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người.”
    Cám dỗ về quyền hành và cám dỗ lạm quyền là sự kiện thường xuyên và mãnh liệt đối với con người mọi thời. Chính những cám dỗ ấy cũng đã xảy ra cho nhóm Mười Hai Tông đồ. Thật vậy, vào chính lúc Thầy của các ông loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, các ông đã có thái độ ích kỷ, vụ lợi; các ông tưởng thời lập quốc của Đấng Mêsia và ngày vinh quang của các ông đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Chính các ông cũng cảm thấy sự tranh cãi như thế là đáng trách, bởi vì khi được Chúa Giêsu hỏi, các ông đã làm thinh.
    Và rồi sự việc đã diễn biến không như các ông tưởng nghĩ. Bởi vì đối với Chúa Giêsu, trong Nước Trời tồn tại ở trần gian này, cho dù vẫn có tôn ti trật tự, nhưng đó là một trật tự lạ lùng: Người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác, người nhỏ nhất phải là đối tượng để được hầu hạ. Rốt cuộc, chúng ta có hầu hạ ai chính là vì chúng ta muốn hầu hạ Chúa Giêsu trong họ, và chúng ta có được ai hầu hạ, thì cũng chỉ vì họ đang hầu hạ Chúa Giêsu nơi chúng ta. Như vậy, điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ trong Nước Trời, và làm lớn hay làm nhỏ, tất cả đều phục vụ Thiên Chúa mà thôi.
    Bài Tin Mừng hôm nay vẫn thường được dùng làm kim chỉ nam cho việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội. Nếu mọi người kẻ cầm quyền cũng như người dưới quyền đều hiểu và thực thi giáo huấn này, chắc chắn Giáo Hội sẽ trở nên thu hút hơn đối với nhân loại, nhất là đối với con người hôm nay đã quá mệt mỏi với nhưng hình thức mị dân, lạm quyền, dua nịnh của giới lãnh đạo; người ta sẽ nhận ra nơi đó khuôn mặt của Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn, một Chúa Kitô lãnh đạo bằng cách bị nộp, bị giết chết vì người khác.
    Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Nhưng để bài học ấy tác động mạnh mẽ và hữu hiệu, chúng ta cần nghĩ tới hình ảnh Chúa, lãnh đạo dân Chúa, nhưng đã trở thành tôi tớ cho mọi người.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ. Chúa còn hiến mạng sống mình để nhân loại được sống và sống dồi dào. Chúa còn trở nên của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin Chúa cũng cho chúng con biết mặc lấy tâm tình của Chúa để chúng con sống có ích cho tha nhân.
    Nhưng Chúa ơi, thế giới của chúng con đang sống đầy bon chen và ích kỷ. Có rất nhiều người cần quyền. Có rất nhiều người tham quyền. Và cũng có rất nhiều người lam dụng chức quyền để vun quén cho bản thân. Họ đã vì lợi ích bản thân để làm khổ người khác, để làm nghèo đất nước. Xin Chúa giúp họ biết sửa đổi như xưa Chúa đã biến đổi Giakêu. Xin Chúa ban cho xã hội chúng con đang sống có nhiều người biết sống vì người khác, biết đặt lợi ích cộng đoàn lên trên lợi ích cá nhân.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con cũng biết sẵn sàng phục vụ mọi người, biết lấy phục vụ làm niềm vui và lẽ sống của cuộc đời như Chúa đã từng sống điều đó cho chúng con. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    _________________________________



    Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ

    Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
    Sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna, "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: "... Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Gioan 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Gioan 20:21b).
    Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần" (TVCÐ 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
    Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Luca 22:32) Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần -- trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
    Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết, "... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm..." (Galat 2:11b, 14a).
    Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn" (Gioan 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.


    Lời Trích

    Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô:"Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết..." (1 Phêrô 1:3a).
    Trích từ NguoiTinHuu.com

    _______________________________________


    Lầm Lỗi Là Chuyện Thường


    Hôm nay kỷ niệm ngày sinh của George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Con người đã có công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng nhận lỗi của mình...
    Ngày kia, cậu bé George được trao cho một con dao để ra vườn làm cỏ. Trong vườn có một cây anh đào nhỏ mà cha mẹ cậu rất quý. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ dại thế nào là cây trái, George đã chặt đứt cây anh đào vô cùng qúy giá của cha mẹ mình.
    Cha của George đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống mặt đất. Ông đã thoáng nghi George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu: "Con có biết ai là người đốn hạ cây anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó lập lại một lần nữa...". George suy nghĩ một lúc và trả lời: "Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha cứ phạt con đi".
    Và George ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời: "Ðiều con vừa làm là một điều sai trái.Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con cao hơn là trăm nghìn những cây đẹp như thế...".
    Không ai trong chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ, mà lại không sống với hy vọng tốt đẹp hơn trong tương lai. Nhưng phải thành thật mà nói thì cuộc đời không phải lúc nào cũng là con đường trải hoa, vì nhiều lần chúng ta gặp hoàn cảnh vô cùng tệ hại. Ðố với nhiều người, dường như hy vọng về những điều tốt đẹp chỉ thành tựu trong mơ mộng mà thôi và thực tế rất phũ phàng.
    Tuổi trẻ đi qua rất nhanh. Ngày tháng trôi qua, chúng ta chẳng mấy chốc già đi. Tóc trên đầu chúng ta mỗi lúc một điểm thêm nhiều muối tiêu. Sau khoảng 45, mỗi lần nhìn vào trong gương, chúng ta giật mình thấy mình già mau quá. nhìn lại tập ảnh của gia đình, lắm khi chúng ta không có can đảm ngắm lâu hơn. Chẳng những gương mặt, mái tóc bên ngoài, mà tuổi già còn gặp nhiều hạn chế hơn tuổi trẻ. Những môn thể thao trước kia ưa thích, nay không còn đủ sức để chơi nữa. Cặp mắt sắc sảo đã phải đeo thêm kính mới đọc được sách. Khi bước vào lớp tuổi 60 trở lên, bước đi của chúng trỏe nên chậm chạp hơn. Trí nhớ mỗi lúc một ra kém cỏi...
    Tuổi trẻ là một chuỗi những vấp ngã, tuổi già là những tháng ngày để ân hận và hối tiếc khi chợt nhận ra giới hạn của mình. Cuộc đời là thế. Chúng ta có nên bi quan không?
    Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để sống hy vọng. Ðổ vỡ, thất bại không phải là những ngõ cụt trong cuốc sống, nhưng phải là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Cuộc đời không phải là một chuỗi ngày giữa chiếc nôi và ngôi mộ. Cuộc đời là một hành trình đi từ chỗ hữu hạn đến chỗ vô hạn, từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ đầy hy vọng. Và cuối cùng cánh cửa của sự chết mà chúng ta rồi đây sẽ bước qua chỉ là một khúc quanh của cuộc hành trình này mà thôi...
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  45. Được cám ơn bởi:


  46. #24
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    23/02

    Cộng tác chứ không ganh tị


    Thứ Tư Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 9,38-40

    38Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta." 39Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. 40Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.


    Suy niệm:
    Thời Chúa Giêsu như có nhiều quỉ ám mà Phúc Âm ghi lại tổng quát có bảy lần Chúa làm phép lạ trừ quỉ (Mc 1,21-28; Mt 12,22-23; Mt 9,32; 17, 14-20; Lc 13,10-17). Còn trong Cựu Ước ít nói tới trường hợp quỉ ám ngoại trừ hai lần nói về vua Saolê bị quỉ xấu nhập vào (1V 16,11-16; 19,9). Lý do là nơi dân Do Thái cũng như dân ngoại thời đó đã từng thờ ngẫu tượng, là thờ chính ma qủi rồi, với những tục lệ dị đoan như đồng bóng, bói toán, địa số. Ma quỉ xâm nhập cả các dân tộc như vậy nên ít nhập vào cá nhân.
    Nhưng khi đi lưu đày về thì bắt đầu có cá nhân bị nhập và nhất là vào thời Chúa Thánh Thần đến, ma quỉ như rút tàn lực hỏa ngục để phản công Đấng Cứu Thế vừa mới đi vào lịch sử, cho nên có nhiều lần quỉ ám và Chúa chữa nhiều người để minh chứng uy quyền của Ngài trên thế giới thiêng liêng thần dữ. Việc tuyên dương quyền Thiên Chúa cũng được ủy thác cho một số người thí dụ các tông đồ của Chúa. Cựu Ước có các Tiên tri và một số người đạo đức.
    Riêng nơi lương dân, sử gia Flavius cũng ghi lại có những người ngoại biết trừ thần dữ. Nghề này có một số công thức phải đọc. Người làm nghề này nói đúng ra là đã thông đồng hay đã bán linh hồn cho ma quỉ. Ngoài ra, cũng có những người Do Thái đạo đức đuổi quỉ được nhờ lời cầu khẩn gắt gao. Chẳng hạn, sách Công Vụ ghi lại: “Có ít người trừ tà lưu động, gốc Do Thái cũng đã thử kêu danh Chúa Kitô trên những người bị quỉ ám mà rằng: “Nhân danh Đức Kitô ông Phaolô rao giảng, Ta truyền cho các ngươi xuất ra,” những người này bị ma quỉ quật lại, vì họ lợi dụng tên Chúa với mục đích như kiếm lời.
    Thật ra, ở Ai Cập người ta còn tìm lại những bản thảo trừ tà ma, trừ quỉ mượn danh nghĩa của Đấng Giavê, là Chúa Abraham, Isaac, Jacop, các tổng lãnh Thiên thần. Đôi khi người ta cũng gặp những công thức trừ quỉ: “Tôi khẩn nài nhờ Đức Giavê là Chúa dân Do Thái...”
    Trước những trường hợp đó, có lẽ Gioan đã sốt ruột vì Gioan cũng muốn độc quyền cho Chúa hay các tông đồ mà thôi. Nhưng Chúa lại bảo: “Chớ ngăn cản họ...” (c.39). Chúa muốn nói rằng dù là ai mà nại vào danh Ngài tức là đã có một lòng tin vào uy quyền của Chúa rồi. Vậy khi trừ được ma quỉ càng làm tăng giá trị đức tin nơi người đó và nạn nhân. Và đó là một vinh danh Thiên Chúa.
    Ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ một bài học đừng ganh tỵ nhau trên con đường phục vụ Thiên Chúa. Mỗi người phải ý thức mình là một phần trong cơ thể. Tuy các chi thể khác nhau nhưng làm thành một nhân thể duy nhất. Mỗi một chi thể phải làm xong, và làm hoàn hảo công tác của mình. Cho nên, hãy ý thức rằng những chức vụ khác nhau trong Giáo Hội không phải là sự phân chia giai cấp mà là những công tác khác nhau của những cá nhân trong một tập thể Hội Thánh Chúa phục vụ cho vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
    Cho nên khi chúng ta thấy nơi anh em mình làm được những gì hơn chúng ta cho vinh danh Chúa, chúng ta phải biết dùng lời tạ ơn Chúa thay cho họ. Chứ đừng có thái độ con nít, thấy người ta hơn mình, có cái chi là tị nạnh, là đòi hỏi. Không, người con của Chúa phải sống vượt lên trên cái tầm thường đó. Thiên Chúa dựng nên mỗi người một vẻ, nhưng mười phân vẹn mười, để chúng ta sống bên nhau, nâng đỡ nhau, cộng tác với nhau. Chúa đã từng ví Giáo Hội của Ngài như một cánh đồng nghĩa là phải nhiều người một việc mới xong được. Chúa ví Giáo Hội Ngài là một thân thể, là một dân tộc gồm đủ thứ người... Chúng ta hãy xin cho nước Chúa trị đến cùng với mỗi người góp phần vào đó.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã quy tụ chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Qua bàn tiệc Thánh Thể chúng con còn được quây quần bên nhau quanh bàn tiệc thánh thấm đượm tình Chúa tình người. Thánh Thể là đỉnh cao của tình yêu Chúa và cũng là dấu chỉ sự hiệp nhất của mọi thành phần dân Chúa. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống hoà hợp với nhau và cùng nhau xây dựng Nước Chúa trong yêu thương chân thành.
    Lạy Chúa, người đời thường mang tính bè phái, ích kỷ, đố kỵ và ghen ghét lẫn nhau. Người đời thường tìm phe cánh cho mình để tẩy chay người khác, nhất là những người không cùng quan điểm, sở thích với mình. Thế nên vẫn còn đó những hờn giận, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian và kết án lẫn nhau. Thế giới vẫn còn đó những khổ đau vì thiếu hiệp nhất gây nên bất hoà, tranh chấp và mâu thuẫn với nhau. Xin Chúa tha thứ cho những ích kỷ và nhỏ nhen của chúng con, và xin giúp chúng con sửa đổi mỗi ngày tốt hơn.
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn hiệp nhất trong Giáo Hội, xin giúp chúng con thành tâm hiệp nhất với nhau trong khiêm tốn và chân thành. Xin giúp chúng con biết từ bỏ ý riêng để sống hoà hợp với mọi người trong tôn trọng, bác ái vị tha. Xin cho chúng con mỗi lần tuyên xưng Chúa là Cha thì cũng biết nhìn nhận nhau là anh em để yêu thương và sống trọn vẹn tình huynh đệ với nhau. Xin giúp chúng con đủ khiêm tốn để chúng con sống hoà hợp với mọi người. Amen.

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ________________________________


    Ánh Sáng Hồi Phục

    Mới đây tại trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một phó nhòm thuộc tiểu bang California. Ông đã chứng kiến cái cảnh thoi thóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần bảng của phòng hồi sức chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự nhiên, cho nên không những bệnh nhân khó hồi phục mà còn để lộ những triệu chứng của bệnh tâm thần.
    Với cánh cửa sổ nhân tạo nói trên, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 650 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Tất cả đều nhằm để giúp cho bệnh nhân cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên và nhờ đó cảm thấy bớt cô đơn.
    Trong tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên cũng như các vì lấp lánh trên khung cửa.
    Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống. Riêng với con người, ánh sáng không những cần cho sự sống của thân xác, mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối dễ làm cho con người cô đơn và sợ hãi...
    Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc sống chúng ta. Bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê... Càng giam mình trong bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh hoạn. Người càng sống ích kỷ, người càng nghiền ngẫm đắng cay, hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình...
    Chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người cũng như để chữa trị những băng hoại trong tâm hồn. Có ánh sáng của Lời Chúa để soi sáng dẫn từng đường đi nước bước của chúng ta. Có những ánh sáng của những nghĩa cử hằng ngày. Không có một nghĩa cử nào qua đi mà không thêm một chút ánh sáng để giúp chúng ta hồi phục vì những vết thương đau trong cuộc sống. Một hành động bác ái, một biểu lộ tin yêu dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng đến cho tăm tối cô đơn trong tâm hồn chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  47. Được cám ơn bởi:


  48. #25
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    24/02

    Sẵn sàng hy sinh


    Thứ Năm Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 9,41-50


    41"Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu. 42"Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. 43Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. 44[ ] 45Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. 46[ ] 47Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, 48nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt. 49Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. 50Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau."


    Suy niệm:

    1. Sẵn sàng hy sinh

    Vào thời trước, có một đoàn thám hiểm từ Âu Châu lên đường đi tìm vùng đất mới. Vị trưởng đoàn cho mọi người biết hễ ai chạm đến vùng đất mới trước tiên, người đó sẽ làm chủ vùng đất ấy. Một người trong nhóm quyết chiếm vùng đất mới bằng mọi giá. Ông tận lực chèo thuyền, nhưng một chiếc thuyền bạn đã bắt kịp và đang tiến lên phía trước gần sát bờ. Là một con người có ý chí sắt đá và gan dạ, ông đã can đảm lấy chiếc rìu chặt đứt bàn tay trái của ông, rồi ném lên bờ. Thế là bàn tay ông đã chạm đất trước tiên, do đó vùng đất này thuộc về ông.
    Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay con làm có cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục.” Điều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt, không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta phải hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân, chặt tay. Chẳng hạn, hy sinh của cải vật chất cho sự sống và hạnh phúc của đồng loại, cũng đau đớn như hy sinh một phần thân thể, nhưng sẽ chiếm hữu được Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai cho kẻ đói ăn, cho kẻ không nhà trú ngụ, người ấy sẽ được Nước Trời làm cơ nghiệp. Cũng vậy, chúng ta sẽ chiếm hữu Nước Trời nếu chúng ta dám hy sinh của cải, sức lực để hỗ trợ Giáo Hội và phục vụ cho công cuộc truyền giáo.
    Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài không chỉ hy sinh một phần nào thôi, mà là dâng hiến toàn thân Ngài. Mỗi ngày trong Thánh lễ, chúng ta cử hành việc hy hiến của Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta cũng biết trao ban chính mình để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho đồng loại.

    2. Khốn cho kẻ gây gương mù

    “Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trong những trẻ nhỏ đã tin Thầy, thà buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn” (c.42). Đây là một lời lên án gắt gao của chính Chúa là án phạt trầm luân hoả ngục. Trẻ con sinh ra ở đời, trong sạch như thiên thần. Nhân chi sơ, tính bản thiện là chúng. Nhưng vì ảnh hưởng xấu của môi trường mà chúng bắt chước dần dần những nết xấu.
    Thiên Chúa đã yêu thương các em nhỏ. Chúa bảo vệ các em nhỏ mà giới luật hôm nay là không được làm gương mù cho chúng. Chúa đã quả quyết hai điểm “Không được khinh trẻ nhỏ vì thiên thần của chúng hằng nhìn thấy mặt Cha chúng ở trên trời” (Mt 18,10). Và điểm thứ hai. Chúa xác nhận: “Kẻ nào tiếp nhận một trẻ nhỏ vì danh Ta, tức là tiếp đón chính ta” (Mc 9,37). Cho nên xúc phạm đến một em bé là xúc phạm tới chính Chúa Giêsu.
    Chúng ta biết đó, trẻ em dễ thương. Rất dễ tin và phó thác tất cả. Trẻ em không có gì để tự vệ, vì đối với chúng tất cả là tình thương. Ai lợi dụng những đặc tính ấy để đưa chúng vào đàng tội lỗi sa đọa, hoặc làm cho chúng xa lạc đức tin thì chính lời Chúa Kitô hôm nay lên án trước tiên. Chúa bảo: “Thà lấy cối đá cột vào cổ...”

    Người Do Thái có hai thứ hình phạt nặng nề nhất mà người La Mã đem tới là:
    - Buộc cối đá, ném xuống biển sâu.
    - Thập giá.
    Hình phạt cối đá đáng sợ lắm vì chết dưới biển mất xác luôn, làm mồi cho hà bá.
    Liệu chúng ta có dám liều đánh mất một tâm hồn trẻ thơ vô tội không? Thật ra, giết một người còn chưa nặng tội bằng giết một linh hồn đứa bé. Đó là thứ tội trọng hai lần nặng hơn, vì chúng ta đã không được vô thiên đàng mà còn đóng cửa nước trời của em bé đó nữa. Nếu ai cố tình trong vũng lầy này thì hỏa ngục dành cho họ.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy dạy và là mẫu gương cho chúng con noi theo. Chúa dạy chúng con sống yêu thương. Chúa còn làm gương cho chúng con khi Chúa chấp nhận chết vì yêu thương chúng con. Chúng con xin tri ân tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa để sống hết mình vì tha nhân. Xin cho chúng con đừng nói suông mà còn biết nêu gương sáng bằng đời sống yêu thương và phục vụ mọi người.
    Lạy Chúa, khi muối đã lạt thì cũng hết tác dụng và cũng trở nên vô dụng với con người. Cuộc đời chúng con cũng trở nên vô nghĩa khi sống thiếu tình yêu với gia đình và với tha nhân. Cuộc đời chúng con cũng trở nên vô dụng khi chúng con sống ích kỷ, nhỏ nhen tầm thường. Xin giúp chúng con vượt thắng những yếu đuối bản thân để chúng con luôn sống hoà thuận và yêu thương mọi người. Xin giúp chúng con đừng vì những đam mê thấp hèn, những tham lam ích kỷ, mà gây gương mù gương xấu qua hành vi lỗi công bình, bác ái với tha nhân. Xin giúp chúng con biết chiến thắng chính mình để luôn chu toàn bổn phận trong gia đình và giáo xứ chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin Mình và Máu Thánh Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con cũng biết trao ban cho đời những hy sinh công sức của chúng con, làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho gia đình và mọi người chung quanh. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    _______________________________


    Không Khí

    Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa". Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
    Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?". Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: "Thưa, con cần có không khí để thở".
    Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: "Con có cảm thấy ước ao gặp gỡ Thiên Chúa như vậy không? Nếu con khao khát như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề có ước muốn ấy, thì dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".
    Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã làm việc thiện. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã tránh được điều xấu. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã cầu nguyện. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã sống tử tế. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta can đảm. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta cố gắng rèn luyện ý chí. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta hy sinh phục vụ...
    Sự thánh thiện của chúng ta chính là Thiên Chúa. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta mới có thể làm việc thiện, mới có thể tránh được điều xấu, mới có thể cầu nguyện, mới có thể can đảm, vui tươi...
    Cũng như người đệ tử khao khát gặp Chúa, chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta được thông dự vào sự sống của Ngài, để nhờ đó chúng ta mới có thể mang lại hoa trái của sự thánh thiện.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  49. Được cám ơn bởi:


  50. #26
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    25/02

    Mối giây bất khả phân ly


    Thứ Sáu Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 10,1-12

    1Đức Giêsu bỏ nơi đó, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. 2Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng:”Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. 3Người đáp:” Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” 4Họ trả lời:”Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." 5Đức Giêsu nói với họ:”Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. 6Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; 7vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, 8và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. 9Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." 10Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."


    Suy niệm:
    Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta về những trang đầu tiên của lịch sử nhân loại, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong mối giây bất khả phân ly của đời sống đôi lứa. Có thể nói, đó là gia đình đầu tiên của lịch sử loài người. Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này để giải đáp vấn nạn của người Biệt phái: “Người ta có được phép rẫy vợ không?” và như vậy một cách nào đó, Ngài đã đề cập đến hôn nhân, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.
    Trước hết, hôn nhân là một sự tự do trao đổi yêu thương giữa người nam và người nữ, một sự cam kết chung suốt đời. Chiếc nhẫn mà họ trao cho nhau trong ngày cưới là dấu chứng tình yêu, và từ ngày đó mọi hành vi đi ngược với lời cam kết đều bị coi là ngoại tình, bởi vì hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập và con người không thể phân ly những gì Ngài đã kết hợp.
    Hôn nhân còn là một cộng đồng kết hợp hai tâm hồn và được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Hôn nhân là giây tình yêu liên kết giữa hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: “Chồng hãy yêu thương vợ, như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình.” Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và hỗ trợ lẫn nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và của xã hội.
    Nhưng một cuộc hôn nhân chỉ thành công khi người nam và người nữ thật tình yêu nhau, có sức hiến thân cho nhau, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách mà hoàn cảnh đè nặng trên con người, trong tâm tình chúc tụng tạ ơn. Thật vậy, việc cam kết trước bàn thờ là một lời khấn trọng thể, một lời hứa thánh thiêng đặt nền tảng trên tình yêu, tình yêu mà Thánh giá là biểu hiện rõ nét nhất, tình yêu mà Chúa Kitô hiến mình cho Giáo Hội đến cùng mức. Hôn nhân không phải luôn luôn là một khúc tình ca, một cuộc ve vãn suốt đời, nhưng là một cuộc sống chung nhiều khi khó khăn. Do đó chỉ có tình yêu đích thực khi đôi bạn có khả năng và muốn giữ lời gắn bó với nhau cho đến chết. Những hy sinh từ bỏ, sự trung tín qua những thử thách, những lần nhượng bộ, đều là bằng chứng của đức tin và sức mạnh nhận được từ Thánh Thần.
    Chính vì những giá trị cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc rẫy vợ nữa, trừ phi là số gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng Bí tích và mang một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi nhân loại.
    Chúng ta hãy cầu xin cho các gia đình được luôn gắn bó với nhau trong tình yêu thương hợp nhất, để làm chứng cho tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của Thiên Chúa.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là tình yêu. Tình yêu Chúa luôn bền vững sắt son. Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể như dấu chỉ cho tình yêu bất tận mà Chúa dành cho chúng con. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong tình yêu của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống trung tín với nhau như Chúa đã sống cho chúng con.
    Lạy Chúa, Chúa đã thăm dò và thử thách chúng con. Chúa biết rõ chúng con khi chúng con ngồi và khi đứng. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng xin gìn giữ chúng con luôn trung thành sống cho Chúa. Xin giúp chúng con vượt qua giới hạn bản thân để sống bao dung với mọi người. Xin giúp chúng con biết đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ như Chúa đã tha thứ cho chúng con.
    Lạy Chúa, xin cho các gia đình biết sống hoà hợp với nhau, biết vượt thắng những hiểu lầm, những ích kỷ để sống rộng lượng và tha thứ cho nhau. Xin gìn giữ các gia đình trong tình yêu của Chúa, để mỗi thành viên trong gia đình biết chu toàn bổn phận của mình, và cùng nhau xây dựng gia đình được an vui hạnh phúc. Amen
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ___________________________________


    Dân Thành Athènes

    Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành Athènes như thế nào?".
    Triết gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".
    Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".
    Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...
    Lần này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".
    Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
    Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...
    Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại... Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  51. Được cám ơn bởi:


  52. #27
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    26/02

    Thương yêu trẻ em


    Thứ Bảy Tuần thứ 7 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 10,13-16

    13Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. 14Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." 16Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.


    Suy niệm:
    1. Thương yêu trẻ em
    Đức Giáo Hoàng Piô khi nhận chức Giám mục Giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: “Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?” Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: “Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con.”
    Thật thế, nếu Cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người, nhất là nên người con của Chúa được.
    Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào.” Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: “Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn.”
    Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
    Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
    Xin Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa chúng đến với Chúa.

    2. Như một trẻ thơ

    Kinh Thánh gọi trẻ con là “Gia nghiệp của Thiên Chúa” (Tv 127,3) và Chúa Giêsu ca tụng các em bé như bài Phúc Âm hôm nay: các bà mẹ thì bế con mình tới để Chúa chúc lành cho con cái họ. Điều này cho thấy mẹ nào cũng lo cho con. Đối với các bà mẹ, mặt trời chỉ chiếu trên con mình là thế. Người Do Thái có tục lệ là đưa con tới các vị trưởng tế giáo đường, xin đặt tay lên đầu con cái để thông truyền kiến thức khôn ngoan và nhân đức. Ngay thời tổ phụ cũng đã có thói quen này (St 48,14-15) để ban bình an và thông truyền lòng tốt sự thiện hảo... Nay thì những bà mẹ thấy Chúa Kitô đức độ, nên họ đem con tới và xin như vậy. Phúc Âm theo thánh Máccô còn nói: “Chúa Giêsu yêu thương và ẵm bế chúng nữa kia” (9,6). Còn các môn đệ thì ngăn cản, vì thấy rằng chúng làm ngăn trở việc người lớn. Hơn nữa, các môn đệ cho rằng mất thì giờ đối với con nít, vì chúng đâu đã hiểu gì về ân huệ. Giá như chúng đến xin chữa bệnh hay xin cái gì thì còn có nghĩa lý. Chứ đến xin Chúa chúc lành thì để lúc khác. Cho nên các môn đệ muốn gạt đi và ngăn cản các bà mẹ. Chúa dùng ngay dịp này để đề cao tuổi trẻ. Chúa dạy: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, thì sẽ không được vào nước trời” (c.15).
    Trẻ nhỏ không gì? Theo nguyên chữ Do Thái, trẻ nhỏ là bởi chữ “đồ ăn”, trẻ nhỏ cần được cha mẹ nuôi nấng. Bất cứ thứ gì cha mẹ cho chúng, chúng không xem đó như một quyền lợi. Hay chúng không bao giờ nghĩ rằng cha mẹ mình có thể tự sức mình kiếm ra được. Trái lại, tất cả là lệ thuộc vào cha mẹ, vào người khác. Trẻ em tự bản năng đã ý thức được sự yếu đuối của mình. Sức mạnh của nó là sự yếu đuối của mình. Sức mạnh của nó là sự yếu đuối trước cha mẹ. Nơi cha mẹ nó dù có đau khổ nghèo túng, bất an đến đâu, nó vẫn yên trí ngủ thiếp đi.
    Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta biết, chúng ta là con cái trên trời. Chúng ta có hãnh diện không? Hay lại sợ hãi lo lắng. Là con cái Chúa, phải thật sự có tinh thần trẻ thơ là chúng ta nương tựa lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa. Trước mặt Ngài, chúng ta chỉ là hư vô cát bụi, là những đấy tớ vô ích (Lc 17,10). Chúng ta hãy lấy một ví dụ như sức khỏe chúng ta đang có đây. Chúng ta có làm chủ được sức khỏe của mình không? Có điều khiển như ý muốn mình không? Có những lần chúng ta muốn khỏe mà phải ốm đo giường đo chiếu. Có lúc chúng ta muốn ốm mà cứ khỏe nhăn răng ra. Còn nói gì đến sự sống và sự chết. Sự chết thì có ai muốn đâu mà cứ vẫn phải một lần kinh nghiệm. Còn nói đến sự sống và sự sống lại mai sau nữa.
    Chúng ta có gì gọi là tốt để Ngài phải yêu đâu. Tất cả là ơn thánh Chúa ban. Chúng ta phải biết đón nhận ơn lộc của Thiên Chúa, như thái độ của một em bé đón nhận ơn huệ từ cha mẹ chúng vậy. Đó là ý nghĩa của câu: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào” (c.15)


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con thật hạnh phúc vì được quây quần bên Chúa. Xin Chúa hãy chúc lành chúng con như xưa Chúa đã chúc lành cho các trẻ Do Thái. Xin ban cho tuổi thơ giáo xứ chúng con luôn hồn nhiên trong trắng, cho những năm tháng tuổi thơ luôn được cha mẹ và mọi người yêu thương. Xin đừng để tuổi thơ bị đánh mất vì thói đời giả dối, gian manh, hay vì những thói hư tật xấu làm hoen mờ hình ảnh đơn sơ nơi tuổi thơ.
    Cách đặc biệt hôm nay chúng con cầu nguyện cho các bạn trẻ đang bị đánh mất tuổi thơ bởi cha mẹ, bởi xã hội thiếu quan tâm chăm sóc dạy dỗ. Ở đời vẫn còn đó những tuổi thơ không được cha mẹ đón nhận và đã bị loại trừ ngay từ thai nhi hay đang vất vưởng sống lang thang hè phố. Người ta chẳng nói ngoa chút nào khi thấy 5 đứa trẻ ngoài đường thì hết 4 đứa đang bán vé số, đánh giầy, lượm ve chai,. . . may ra còn 1 đứa được đi bên cạnh cha mẹ. Biết bao trẻ em đang rơi vào tình trạng tự ti mặc cảm, hay đang lao vào con đường tội lỗi bởi thiếu vắng tình thương của cha mẹ. Biết bao trẻ em đang sống trong tuyệt vọng, đang đi vào kiếp người đầy bất hạnh bởi sự vô tâm của cha mẹ. Xin hãy gìn giữ những mảnh đời bất hạnh và ban cho các em có được niềm vui, sự trong trắng tuổi thơ. Xin cho xã hội có trách nhiệm với tuổi thơ để chia sẻ với các cha mẹ, để tuổi thơ Việt Nam mãi là con cháu lạc hồng biết sống cao đẹp, thanh thoát như con cháu rồng tiên.
    Lạy Chúa, Chúa luôn yêu mến tuổi thơ. Chúng con xin phó thác tuổi thơ giáo xứ chúng con cho lòng thương xót Chúa. Amen
    Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ______________________________


    Thiên Chúa Nói Không

    Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
    Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
    Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
    Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
    Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
    Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
    Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
    Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Ðấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Ðàng vì tôi đã tin.
    Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".
    Nhìn lên thập giá Ðức Kitô, chúng ta được mời gọi để tin nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ đã ban Người Con Một của Ngài cho thế gian. Tình Yêu của Thiên Chúa nhiệm màu thẳm sâu đến độ sự thất bại, cái chết ô nhục đã trở thành Một Dấu Chứng.
    Tình yêu ấy nhiệm màu thẳm sâu đến độ ngay cả khi Thiên Chúa xem ra nói không với chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được khỏe mạnh, và bệnh hoạn vẫn bám lấy chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được thành công và thất bại lại đến với chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu xé chúng ta... Qua những cái không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta...
    Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy mỗi khi chúng ta nhìn lên cái chết ô nhục của Người Con Một Thiên Chúa trên thập giá. Và cũng giống như Người Con Một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc tụng ngay giữa niềm đau tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi. Và giữa trăm nghìn đắng cay chua xót, xin cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin tha thứ như Ngài... Mãi mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như Ngài.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  53. Được cám ơn bởi:


  54. #28
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    28/02

    Khôn ngoan đích thực


    Thứ Hai Tuần thứ 8 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mc 10,17-27

    17Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"18Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." 20Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." 21Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." 22Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. 23Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" 24Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 26Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?" 27Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được."

    Suy niệm:
    Trong truyền thống Kinh Thánh, vua Salomon vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.
    Đây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
    Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Máccô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về Thập Giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
    Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được ơn cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.
    Chúa Giêsu không dạy chúng ta kinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian, có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi, khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
    Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng giầu có vô cùng, thế mà đã sống làm người trong thân phận người nghèo như chúng con. Chúa là Đấng cao sang quyền quý vô cùng, thế mà đã sống một cuộc đời bình dị nơi làng quê Nagiaret. Chúa đã sống nghèo để nâng cao phẩm giá người nghèo. Chúa đã mang lấy thân phận làm người để chúng con trở thành con Thiên Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin cho chúng con mỗi lần rước Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con cũng biết noi gương Chúa để sống hoà hợp với mọi người trong tình liên đới yêu thương.
    Lạy Chúa, người đời thường cho rằng: “Lắm tiền, lắm gạo là tiên trên trời.” Nhưng Lời Chúa lại nhắc nhở chúng con: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước thiên đàng.” Vâng lạy Chúa, đôi khi vì ham tiền mà chúng con đã trở thành những con người tham lam, ích kỷ và hẹp hòi. Vì ham tiền mà chúng con sống thiếu công bình, bác ái với tha nhân. Vì ham tiền mà chúng con boi nhọ thanh danh từ những đồng tiền bất chính. Chúng con đã đánh mất niềm vui của sự tự do khi chúng con đặt đồng tiền làm mục đích đời sống. Chúng con cũng đánh mất hạnh phúc Nước Trời khi chúng con quá quyến luyến với của cải trần gian.
    Xin Chúa tha thứ cho những lỗi lầm của chúng con. Xin giúp chúng con sống thanh thoát với những vật chất mau qua này. Xin ban cho chúng con lòng quảng đại để chúng con biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời, qua những việc lành phúc đức, những hành vi bác ái, chia sẻ với tha nhân. Xin tháo gỡ mọi sự tham lam bất chính nơi tâm hồn chúng con để chúng con thực sự chiếm đoạt được hạnh phúc Nước Trời ngay trong cuộc sống hôm nay. Amen.
    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    ___________________________


    Nụ Cười Của Bà Sarah

    Kinh thánh thuật lại rằng, khi bà Sarah, vợ của tổ phụ Abraham, một lão bà gần đất xa trời, được Chúa cho biết là sẽ cưu mang và sinh con, bà đã có một phản ứng thật là người và cũng thật là kỳ diệu: bà đã cười!
    Phải, bà cụ già Sarah có lẽ đã cười nắc nẻ khi đứng trước một hoàn cảnh xem ra trớ trêu như thế: một người đàn bà trên 70 tuổi mà còn được Thiên Chúa cho có con!... Thiên Chúa xem ra thích khôi hài!
    Và khi Thiên Chúa hỏi tại sao cười, Sarah lại chối rằng mình đã không hề cười. Có lẽ do sợ hãi mà Sarah đã nín cười. Sự sợ hãi có lẽ không còn cho con người được nhìn thấy khía cạnh đáng cười, đáng vui trong cuộc sống... Nhưng liền sau khi sinh con, bà Sarah đã tìm lại được óc khôi hài cho nên bà đã đặt cho đứa con một cái tên khá ngộ nghĩnh là Issac; Issac theo tiếng Do Thái có nghĩa là được sinh từ một người đã cười...
    Cười, cười một cách lạc quan: có lẽ đó là một trong những nét nổi bật của người có niềm tin. Người ta thường định nghĩa rằng: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn... Tất cả các vị thánh đều là những người có óc khôi hài. Các ngài là những con người đã từng biết cười với cuộc sống với tha nhân.
    Thánh Phanxicô thành Assisi, vị sứ giả của Hòa Bình, đã có lần tuyên bố: "Hãy trả lại sự buồn phiền cho ma quỷ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới có đủ lý do để buồn phiền".
    Cha sở họ Ars, là thánh Gioan Maria Vianey, mặc dù thường được người ta tạc tượng như một con người buồn bã, ảo não, nhưng kỳ thực không ai có tâm hồn vui tươi lạc quan như Ngài. Thánh nhân đã nói: "Linh hồn của những ai phục vụ Chúa đều được tràn ngập vui mừng, họ luôn luôn sống như nghỉ ngơi và luôn luôn sẵn sàng để ca hát..."
    Thánh Thomas Moore khi bị đưa lên máy chém, đã nói đùa với người lý hình rằng hãy để cho ngài được giúp một tay, cho việc hành quyết được dễ dàng. Ngài còn nói thêm rằng, sau khi đã chém đầu ngài, chớ đụng đến bộ râu vì bộ râu của ngài không hề phản bội một ai...
    Một vị tu sĩ nào đó vào thời Trung Cổ đã viết như sau: "Một nụ cười và óc khôi hài thu hút được nhiều người đến với tôn giáo hơn là những khuôn mặt dài vì ủ dột".
    Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng: khi ăn chay hãm mình hãy xức dầu thơm vào người.
    Còn thứ dầu thơm nào quý giá hơn để tô thắm cho gương mặt của chúng ta cho bằng niềm vui.
    Cuộc sống dù có trăm nghìn vất vả, đau thương vẫn là cuộc sống đã được Chúa trao ban như một kho tàng cao quý nhất.
    Tình đời có đen bạc, nhân nghĩa có phôi pha: những con người đang sống với chúng ta vẫn là những người con cái Chúa và là anh em của chúng ta.
    Hãy cười với cuộc sống, hãy cười với người anh em của chúng ta: đó là sứ điệp của Kitô Giáo mà trọng tâm chính là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Qua Mầu Nhiệm ấy, Thiên Chúa đã cười cợt, thách thức tội lỗi và sự chết. Sự Sống và Niềm Hy Vọng đã phát sinh từ cái chết của Ðức Kitô
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com