|
KINH LẠY CHA
Lm. Trịnh Ðức Hòa, C.Ss.R.
Trọn năm qua, bạn đọc đã theo dõi loạt bài về chủ đề Thiên Chúa Cha. Trong bài viết cuối cùng cho chủ đề này, xin cống hiến cùng bạn đọc bài suy niệm về Kinh Lạy Cha như một tóm kết thích hợp cho những tâm tình thảo hiếu của người con dưới thế kính dâng Cha trên trời. Không ít bút mực và tâm huyết đã dành cho bao suy tư chiêm nghiệm về Kinh Lạy Cha, một kinh gói trọn sứ điệp Tin Mừng, được ấp ủ từ tâm hồn và nở rạng trên đôi môi của chính Chúa Cứu Thế. Kinh Lạy Cha, vì thế, là kinh linh thiêng nhất và cổ kính nhất của Kitô giáo. Dù qua hai ngàn năm thăng trầm khiến Kitô giáo phân chia thành nhiều nghi lễ phụng vụ và truyền thống tín lý khác nhau, Kinh Lạy Cha vẫn là kinh duy nhất được bảo tồn giữa mọi anh chị em Kitô hữu Ðông và Tây như chứng tích bền bỉ của niềm tin duy nhất vào Chúa Kitô. Hướng đến Năm Thánh 2000 tức là hướng về nguồn cội ơn cứu độ, mọi tín hữu được kêu mời trở về khởi điểm của niềm tin hiệp nhất và cùng hợp dâng Kinh Lạy Cha như lời kinh đại kết, hầu thành tựu ước nguyện tha thiết nhất của Chúa Kitô "Xin cho chúng nên một trong chúng ta" (Gio 17:22).
Giới thiệu tổng quát
Bản văn phụng vụ Kinh Lạy Cha thường dùng được mô phỏng theo nguyên bản từ Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Mt 6:9-13), rút từ Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7). Như đã biết, Bài Giảng Trên Núi là chương trình hành đạo của người Kitô hữu được cảm hứng từ Tám Mối Phúc Thật (Mt 5:3-11). Theo đó, người tin cần có những quyết định và thái độ thích hợp cho mỗi hoàn cảnh khác nhau. Ứng dụng vào cầu nguyện vốn là một trong những thực hành căn bản của đời sống đức tin, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh cầu nguyện là một đối thoại thảo hiếu của con cái với Thiên Chúa là Cha. Cuộc đối thoại này thành sự, không thuần túy bằng ngôn từ lời lẽ, cho bằng sống thực tâm tình phụ tử thiết thân giữa Cha trên trời và đàn con dưới thế. Khởi đi từ tình tự Cha-con sâu đậm này mà Kinh Lạy Cha thành lời và đưa người niệm kinh vào tận cung lòng Cha. Chân chất đơn sơ là thế, nhưng sâu sa dịu vợi khôn cùng!
Ðương khi, Thánh sử Luca mở lối giới thiệu khác về Kinh Lạy Cha (Lc 11:2-4), khi đặt kinh vào khung cảnh các môn đệ xin Ðức Giêsu dạy cầu nguyện như chính Ngài từng làm, kèm theo lời dạy về sự cần thiết và sức hiệu nghiệm của cầu nguyện trong đời sống người môn đệ Chúa Kitô. Như vậy, khi dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, Ðức Giêsu đã chia sẻ với bạn hữu những gì là thiết thân và sâu sa nhất của thế giới tâm hồn Ngài về tình tự mật thiết với Thiên Chúa được Ngài luôn âu yếm gọi là Abba/Lạy Cha. Ðây không vỏn vẹn chuyện dạy kinh, nhưng chính là trao ban ơn nghĩa tử nơi Ngài cho các môn đệ. Cũng không phải là chuyện đọc cho suông, cho xong, nhưng là việc thực sự sống ơn gọi làm con của Cha trên trời.
Về cấu trúc, ngoài lời thưa đầu "Lạy Cha chúng con ở trên trời", toàn Kinh Lạy Cha căn bản là loại kinh xin ơn, gồm bảy lời nguyện chia thành hai phần. Phần I gồm ba lời nguyện hướng về "Cha": (1) "nguyện Danh Cha cả sáng"; (2) "Nước Cha trị đến"; và (3) "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (lưu ý: bản kinh trong Tin Mừng Luca không có lời nguyện thứ ba). Phần II gồm ba lời nguyện hướng về "chúng con", được cụ thể qua bốn nhu cầu căn bản của đời sống và tương ứng với ba thời điểm: (1) hiện tại: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày"; (2) quá khứ: "và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"; và (3-4) tương lai: "xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
Kế tiếp là phần suy gẫm từng lời nguyện.
Lạy Cha chúng con ở trên trời
Lời mở đầu Abba/Lạy Cha cho thấy ngay nét đặc thù nơi lời kinh của Ðức Giêsu: Ngài nhìn nhận và thân gọi Thiên Chúa là Cha. Ðây là đặc điểm khởi sắc trong quan hệ giữa Ðức Giêsu và Thiên Chúa. Lời nguyện của Ngài không phụ thuộc vào một nơi thờ phượng như đền thờ Giêrusalem hay hội đường, song gắn liền với một thể nhân là Cha của Ngài. Cả bốn Tin Mừng đều thấm nhuần tình phụ tử thật đằm thắm của Cha dành cho Con: "Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (Mt 3:17); "Ngài là Con Ta, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe Ngài" (Lc 9:35), và của Con hướng về Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha . . . . Mọi sự đều được Cha Ta trao phó cho Ta, và không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con khấng mạc khải ra cho" (Mt 11:25,27); "Abba, lạy Cha, Cha có thể làm mọi sự, xin cất chén này đi khỏi con . . . (Mc 14:36; Lc 22:42); "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha . . ." (Gio 17:1).
Những chứng từ tiêu biểu trên minh chứng một sự kiện mạc khải hoàn toàn mới mẻ trong Kinh Thánh: chưa thấy ai dám gọi Thiên Chúa là Cha trong lời nguyện, duy chỉ có Ðức Giêsu. Ðã từng có những ngôn sứ nói về Ðức Chúa như người Cha của Dân được chọn, nhưng đích thực cảm nhận tình nghĩa phụ tử thân thiết và gọi Người là Cha mình thì chỉ có Ðức Giêsu là người đầu tiên! Vì lẽ đó, Ðức Giêsu đã bị người Do-thái kết án là phạm thượng vì đã dám nhận mình là Con Thiên Chúa (xem Gio 10:36). Kỳ thực, Ðức Giêsu chỉ nói lên một sự thật hằng có về bản tính Thiên Chúa của Ngài với Chúa Cha: "Ta và Cha là một" (Gio 10:30). Thế nên, lời kêu Abba nơi môi miệng Ðức Giêsu tuyệt nhiên không là một lối nói nhân hóa hay ẩn dụ, nhưng đích thực là thế! Không giảm thiểu cũng chẳng cường điệu! Dẫu bị hiểu lầm hay công kích, không can chi! Kẻ gian mới sợ sự thật. Còn với người ngay, sự thật đem lại tự do: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi" (Gio 8:32).
Tuyệt vời ở đây là ơn nghĩa tử Chúa Con thông chia cho các môn đệ của người. Ðức Giêsu đã không độc quyền trong thiên chức làm Con của Thiên Chúa Cha. Trái lại, khi trao ban cho người tín hữu lời Abba/Lạy Cha là giây phút Ðức Giêsu kéo toàn thể nhân loại lên địa vị làm con Thiên Chúa Cha với mình. Tông đồ Phaolô đã cảm nhận sâu sắc đặc ân kỳ diệu này: "Không phải thần khí của hàng nô lệ là điều anh em đã chịu lấy để phải sợ hãi. Nhưng anh em đã chịu lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử: nhờ đó ta kêu lên: Abba, lạy Cha" (Rom 8:15). Từ đây, chân dung Thiên Chúa được Ðức Giêsu cảm nghiệm và tỏ bày không còn là một Thiên Chúa xa lạ hay cao uy với phận người lầm than, nhưng là một người Cha thật gần gũi và thiết thân với đàn con dương thế.
Nếu lời kêu "Lạy Cha" thiết lập quan hệ hàng dọc giữa con người với Thiên Chúa, thì đồng thời sở hữu từ "chúng tôi" xác định quan hệ hành ngang giữa con người với nhau. Vì tất cả chúng sinh chỉ có một Cha trên trời, cho nên mọi người đã trở thành anh chị em trong một đại gia đình của Thiên Chúa. Những khác biệt về màu da, văn hóa, ngôn ngữ, kể cả tín ngưỡng cũng không thể phủ nhận được chân lý bất biến này: tất cả đều là con một Cha tạo thành, với hệ quả tất nhiên thành anh em một nhà. Phải chăng vì có một Cha là giường mối hiệp nhất, nên câu nói dân gian "tứ hải giai huynh đệ" càng thêm chí lý?
Căn tính của Cha là Thiên Chúa được tiếp tục minh họa bằng hình ảnh "ở trên trời". Ðây không đơn thuần xác định nơi chốn ngự trị cách biệt của Thiên Chúa, nhưng theo lối hoán dụ, lấy bộ phận để chỉ toàn thể, đây lấy "trời" để ám chỉ toàn thực tại về Thiên Chúa: Cha vừa là Thiên Chúa thật, vừa luôn siêu việt ngàn trùng. Nét tiếp cận cụ thể của hình ảnh người Cha hài hòa vào cõi siêu việt vô biên của Thiên Chúa. Cả hai kết hợp để bày tỏ trọn vẹn Thiên Chúa là ai với nhân loại: Thiên Chúa là Cha theo nghĩa đúng nhất của tên gọi. Từ đây, tình phụ tử giữa nhân sinh là một họa ảnh của tình Cha trên trời.
Nguyện Danh Cha cả sáng
"Nguyện Danh Cha cả sáng" là lời nguyện đầu tiên của phần I trong bộ ba hướng đến tôn vinh Cha-hai lời nguyện còn lại: "Nước Cha trị đến" và "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Cả ba lời nguyện tỏ rõ mối quan tâm của Cha về phần rỗi nhân loại. Ba thực tại lớn nơi Thiên Chúa: "Danh Cha", "Nước Cha", và "Ý Cha" là ba điểm nổi bật toát yếu chương trình cứu độ Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. Trao ba lời nguyện này, chẳng khác nào Ðức Giêsu muốn kêu mời người tin, hãy cưu mang lấy chính nỗi niềm thúc bách và ước nguyện lớn lao nhất của Thiên Chúa. Dâng ba lời này đòi hỏi tiên thiên mang chính tấm lòng thiết tha của Cha trên trời cho đàn con dưới thế, chứ đọc xuông thì dễ đấy nhưng đáng tiếc là vô tâm vô hồn thôi! Hãy sống theo ước mơ vĩ đại của Thiên Chúa! Ðừng để những mơ tưởng tầm thường, giấc mộng cỏn con che khuất mắt và thu hẹp lòng mình. Là con Chúa khác con người ở chỗ: mang lấy tấm lòng Cha trên trời như chính lòng mình. Ðức Giêsu từng thúc giục: "Hãy tìm Nước Trời trước đã, và sự công chính của Người, và các điêàu kia sẽ được ban thêm cho các con" (Mt 7:33). Liệu ta dám tin vào tình yêu quan phòng của Cha?
Từ đó, sẽ dễ hiểu hơn tại sao con cái phải "nguyện Danh Cha cả sáng"? Trong ngôn từ Kinh Thánh, "Danh" không đơn thuần được xử dụng để đặt tên sự vật, nhưng bao gồm ba chức năng khác nhau: (1) định danh (identification); (2) quyền lực (power); và (3) thẩm quyền (authority). Cả ba thực thể này nhắm trình bày toàn diện căn tính, khả năng và phẩm vị của người mang tên đó. Áp dụng vào trường hợp "Danh Cha", ta thấy tên Thiên Chúa hội đủ ba yếu tố trên ở mức tuyệt đối. Danh Thiên Chúa là chính Thiên Chúa vậy. Riêng từ "cả sáng" dịch từ chữ Hy-lạp "tác thánh" hay "hiển thánh". Ðây không là việc cầu cho Danh Cha thêm linh, thêm thánh, vì tự Danh Cha đã linh thiêng tuyệt đối rồi; phải hơn, ta nguyện cho Thiên Chúa chân thật ngày càng được nhân loại nhận biết và yêu mến, quyền lực Người ngày càng được thi thố, và thẩm quyền Người ngày càng được nhìn nhận và quy phục. Nói cách khác, nguyện cho "Danh Cha cả sáng" là khẩn cầu cho sự thánh thiện thật sống động và đầy quyền năng của Thiên Chúa đến như nguyên lý sự sống sung mãn và duy nhất chân thật, hầu bao trùm và thấm nhuần mọi sinh linh. Ngôn sứ Êzêkiel từng đã công bố ý định này của Thiên Chúa: "Ta sẽ biểu dương Danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, Danh mà các ngươi xúc phạm giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa" (Êzêk 36:23).
Nước Cha trị đến
Lời nguyện thứ hai nêu bật chủ đề trọng tâm trong giáo huấn của Ðức Giêsu, như chính Ngài từng rao giảng: "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên" (Mt 4:17). Thật vậy, Nước Thiên Chúa là nội dung chính yếu của lời rao giảng và là biến cố bao quát của toàn bộ sứ vụ Ðức Giêsu. Chúa đến để khai mạc Nước Thiên Chúa, tức công bố Vương Quyền Thiên Chúa trên tạo thành của Người. Nhưng khi nói đến Nước Thiên Chúa hay Nước Trời, Ðức Giêsu không đồng hóa nó với một thể chế chính trị trần gian hay một cơ cấu quốc gia có lãnh thổ, hiến pháp, chính phủ, và công dân, như thường thấy trong định chế quốc gia. Ðiều Chúa nhắm đến khi công bố Nước Thiên Chúa chính là Vương Quyền của Người cần được nhìn nhận và đầu phục trong từng con người và mỗi cơ chế xã hội.
Ðể nhấn mạnh đến mầu nhiệm vương quyền Thiên Chúa đã khởi sự, Ðức Giêsu dùng một chuỗi những dụ ngôn về Nước Trời, như bảy dụ ngôn điển hình trong chương 13 Tin Mừng Matthêu: Người Gieo Giống, Cỏ Lùng, Hạt Cải, Men Bột, Kho Tàng, Ngọc Quý và Lưới Cá. Ðó là chưa kể đến nhiều dụ ngôn khác nữa. Tương tự, trong các phép lạ chữa lành và trừ quỷ, Ðức Giêsu muốn dân chúng cảm nhận từ đó sức mạnh của Vương Quyền Thiên Chúa đã đến rồi và thực sự đem lại hiệu quả cứu sống cho kẻ lầm than. Ngay biến cố chóp đỉnh của đời Chúa là cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh cũng đầy ý nghĩa đó: Vương Quyền Thiên Chúa vĩnh viễn được thiết lập và Ðức Giêsu Kitô nay là Vua Tình Yêu Hằng Sống.
Nếu Vương Quyền Thiên Chúa đã được thiết lập và Chúa thực là Vua, thì hệ quả là mọi người được mời gọi làm thần dân của Ngài, tức tin nhận và đầu phục Ngài là Cứu Chúa đời mình. Ðó là cốt lõi lời nguyện "Nước Cha trị đến". Thách đố nằm ở chỗ, liệu người niệm kinh đã thực tâm muốn đón nhận Ðức Giêsu làm chủ duy nhất đời mình chưa? Mà nếu đã muốn, thì cuộc sống ta đã phù hợp với những giá trị của Vương Quyền Thiên Chúa đến đâu, như lời Tông Ðồ Phaolô đã phân biệt: "Nước Thiên Chúa không phải là việc ăn, việc uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17). Vậy lời cầu chân thành cho "Nước Cha trị đến" sẽ không là cầu xuông, rồi "khoán" cho Chúa thực hiện; trái lại, dám nguyện thì cũng phải dám làm! Chúa đang chờ bạn cùng hành động với Ngài để biến đổi nhân tâm và thế giới này trở thành Vương Quốc của tình thương, công lý và sự thật nơi Vua Giêsu ngự trị và được nhìn nhận, yêu mến.
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Lời nguyện thứ ba vừa mang tính chất quảng diễn lời nguyện thứ hai trên, vừa tỏ lộ ý muốn tối hậu của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại. Người không muốn gì khác ngoài loài người được cứu rỗi. Trong Tin Mừng Gioan, Ðức Giêsu đã cô đọng ý định này của Thiên Chúa khi khẳng định: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Gio 3:16). Tông Ðồ Phaolô nói rõ: "Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1 Tim 2:4). Cần biết đây không phải là ý muốn độc đoán kiểu lãnh đạo độc tài từng thấy đây đó, nhưng là ước muốn tốt đẹp nhất của người Cha dành cho con mình. Thành tựu được ước muốn của Cha đó sẽ là sung mãn hạnh phúc của con vậy.
Chính Ðức Giêsu, người Con Một của Cha, đã đi trước, sống trọn tâm tình vâng phục tuyệt đối theo thánh ý Cha. Giống như Mẹ mình, trọn đời Ðức Giêsu là lời "Xin Vâng" sâu thẳm, dẫu ngàn thương đau! Trong cuộc gặp gỡ người phụ nữ Samari, Ðức Giêsu đã tỏ cho các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Ðấng đã sai Ta và chu toàn công việc của người" (Gio 4:34). Lần khác với người Do-thái, Ngài lập lại: "Vì Ta đã từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Ðấng đã sai Ta" (Gio 6:38). Và ngay trong giây phút hãi hùng đối diện thần chết trong Vườn Dầu, Ðức Giêsu thổn thức trong huyết lệ: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con! Song đừng theo ý con, mà là ý Cha được thành sự" (Lc 22:42). Chúa đã thực hành điều Ngài dạy: "Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Phil 2:8). Ðức Giêsu đã nên khuôn mẫu cho tâm tình hiếu thảo chân thật nhất của người con, là luôn trọn niềm tâm phục thánh ý Cha trong hết mọi sự, bởi đoan tín rằng đó là điều khiến Cha trên trời vui lòng và đồng thời đem lại phần phúc viên mãn cho con dưới đất. Như thế, Ngài đã làm trọn lời Thánh Vịnh: "Hy lễ, và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa chẳng đoái. Bấy giờ con nói: Này con đến để thực thi ý Chúa" (Tv 40:7-9; Dt 10:5-7). Chỉ khi thuận thiên ý, thì đất với trời hòa chữ đồng!
Thế nên, khi thưa lời nguyện thứ ba này, người niệm kinh biết mình đang tiếp nối gương vâng phục đến cùng của Thầy chí thánh vào ngay đời mình. Tuyệt nhiên đây không là một thái độ suy phục thụ động "chẳng đặng đừng", song là niềm tâm phục đầy tín thác trước bao nghịch cảnh truân chuyên, như chứng tích một tình yêu son sắt, không đòi lý giải, không trông vấn đáp. Gương tổ phụ Isaác thầm lặng lên núi tế hiến con một mà không hỏi "Tại sao?" vẫn còn đó như vẫy gọi người môn đệ Kitô tiếp nối.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
Với lời xin cho đủ lương thực hằng ngày, người niệm kinh bước vào phần II của Kinh Lạy Cha, phần hướng đến bốn nhu cầu thiết thực của đời sống môn đệ Ðức Kitô: lương thực hằng ngày, ơn tha tội, ơn trung kiên trước cám dỗ, và ơn cứu thoát khỏi sự dữ. Nếu trong phần I, ba lời nguyện quy hướng về "Cha" ("Danh Cha", "Nước Cha", và "Ý Cha"), thì cả bốn lời nguyện của phần II hướng về "chúng con" ("lương thực chúng con", "tha nợ chúng con", "chớ để chúng con", và "cứu chúng con"). Sự hoán chuyển từ ngôi thứ hai số ít "Cha" đến ngôi thứ ba số nhiều qua lối tự xưng "chúng con" làm rõ tính chất tập thể- cộng đoàn của tình đại gia đình những người con cùng một Cha. Người niệm Kinh Lạy Cha, vì thế, luôn đứng trong tư thế đại diện cho toàn thể anh chị em nhân loại của mình để kêu cầu cùng Cha trên trời. Vậy, niệm Kinh Lạy Cha mà chỉ biết đến "Cha" thôi, mà quên mất anh chị em mình thì như cây có thân nhưng trụi cành tước lá! Ðó là đọc chữ mà quên kinh! Thanh kêu mà thần mất!
Một điểm lạ khiến các nhà chú giải nhọc công tra cứu là, vì sao trong một câu mà có đến hai từ chỉ thời gian hiện tại: "hôm nay" và "hằng ngày". Ðể nhấn mạnh hay để nối dài? Ðể phân biệt hay nhắm đồng nghĩa? Chỉ hiện tại hay hướng tương lai? Không ai xác quyết đủ vì khó kiểm chứng. Nhưng dù giải thích thế nào, thì vẫn lộ đó, về phía người cha, hình tượng bánh cho mỗi ngày biểu thị tình thương và trách nhiệm của cha là người lao tác chính để cung ứng lương thực cho toàn gia. Về phía đàn con, hình ảnh xin bánh hằng ngày là chứng chỉ chân phương nhất của một niềm cậy trông phó thác thật hiện sinh. Chúng con chỉ xin những gì chúng con cần, không xin những gì chúng con muốn. Thậm chí không xin những gì chúng con tự nghĩ là cần, nhưng xin những gì Cha thấy là cần cho chúng con. Lòng Cha vẫn sáng hơn mắt con. Nhận mình là con, mà không dám tin Cha, thì đọc kinh chỉ để cầu may chứ không là cầu nguyện! Hỏng to!
Tương tự Dân xưa trong hành trình sa mạc sống nhờ manna hằng ngày, Dân mới trong công trình xây dựng Nước Trời cũng sống nhờ "bánh" Cha ban hằng ngày. Dù hiểu "bánh" đây là bánh vật chất hay ám chỉ Bánh Thánh Thể, cũng đều đúng thôi vì đàn con Cha đều cần cả hai cho ngày hôm nay. Cần thiết là liệu có dám phó thác vào Cha quan phòng? Lời Chúa còn vang: "Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây . . . ? Cha trên trời thừa biết anh em cần những thứ đó. . . . Ðừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6:31, 34).
Và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con
Lời nguyện thứ năm mang hệ lụy từ quá khứ có lẽ là lời nguyện thách đố nhất: tha người như Chúa tha mình. Có người từng tâm sự, khi đến lời nguyện thứ năm này họ không dám đọc, chỉ ụ ợ cho qua, vì tự xét chưa làm được! Cho tiền cho bạc còn dễ, chứ tha thứ cho kẻ thù và đối phương thì vạn nan. Chính vì tính chất cấp thiết đó mà ta thấy lời xin tha thứ xuất hiện ngay trong kinh thiêng liêng nhất này.
Trong Tin Mừng, bàng bạc xuất hiện đây đó lời Ðức Giêsu giáo huấn về tầm quan trọng của tha thứ. Cùác dụ ngôn về tha thứ không thiếu: nào là dụ ngôn thời danh Cha Nhân Hậu, dụ ngôn Con Chiên Lạc, Ðồng Tiền Mất (xem Lc 15), nào là dụ ngôn Tên Nợ Không Thương Xót (Mt 18:23-35). Lại thêm nhiều câu chuyện nêu bật lòng khoan dung tha thứ của Chúa như: Người Phụ Nữ Ngoại Tình Bị Bắt Quả Tang (Gio 8:1-11), Người Phụ Nữ Lấy Tóc Lau Chân Chúa (Lc 7:36-50). Nổi tiếng hơn cả vẫn là câu hỏi để đời của Phêrô: "Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Và Ðức Giêsu đáp: Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18:21-22). Ðã tha là tha hoài tha mãi! Cảm động hơn cả vẫn là lời xin ơn tha thứ của Ðức Giêsu trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23:34). Lạ lùng, đời nào có chuyện Ðấng chịu đóng đinh xin ơn tha thứ cho kẻ đóng đinh! Ðấng đã dạy tha thứ, nay nêu gương tha thứ cho chính kẻ giết mình. Tha thứ hóa giải hận thù thành tình thương.
"Tha nợ". Sao Chúa không nói là "tha tội"? Vì "nợ" vẫn sâu, vẫn nặng hơn "tội" nhiều. Tội gây xúc phạm, tổn thương; nợ là ân sâu nghĩa nặng. Ðền bù tội, có thể khó, nhưng còn làm được; còn trả nợ trời, lấy gì trả cho cân. Nợ sự sống từ Cha, ta lấy gì mà trả. Nợï yêu thương lòng Mẹ, biết lấy chi mà đền. Thế ra, người con là "con nợ" suốt đời của Cha Mẹ! Ơn Chúa là nợ đời cho mỗi sinh linh. Phải trả. Có điều, Cha không muốn con trả cho riêng mình, nhưng là trả cho nhau, cho anh chị em của cùng một Cha. Nợ Cha nhưng trả cho anh em, còn gì vui hơn cho Cha khi thấy bầy con biết thương yêu, tha thứ. Tông đồ Phaolô canh cánh gánh nợ yêu thương này khi nói: "Anh em đừng mắc nợ gì nhau, ngoài món nợ tình thương" (Rom 13:8).
Không quên, Cha thương con nên hằng sẵn lòng tha cho con, ngay cả trước khi con mở lời tạ tội, như trường hợp người cha trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (Lc 15:11-32). Nhưng sự tha thứ này chỉ thành sự toàn vẹn, hữu hiệu chân thực, một khi đến lượt con mang lấy cùng tấm lòng khoan dung của Cha, đã dành trước cho mình, mà đãi ngộ tha thứ cho anh em mình. Ngược lại, không tha anh em là dấu khước từ Cha tha thứ. Chấp lỗi nhau là còn tự giam trong tội. Như thế, tha thứ trong ý nghĩa chân thực nhất không chỉ là chuyện riêng giữa Chúa và tôi, nhưng còn giữa tôi với anh chị em nữa. Muốn lên đường dọc phải về đường ngang: "Hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5:24). Thì ra, Chúa không chỉ ngự trên bàn thờ, Ngài còn ngự trong anh em. Chỉ thấy bàn thờ, mà không nhìn anh em, là chưa thấy Chúa thật. Muốn Chúa tha, hãy tha giống Chúa: "Nếu anh em tha lỗi cho người, thì Cha anh em trên trời sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha lỗi cho người, thì Cha cũng sẽ không tha thứ anh em" (Mt 6:14). Vậy, "Hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha" (Lc 6:37). Ðược tha, còn là người; tha được mới giống Chúa. Tha thứ là giải thoát.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Hai lời nguyệän cuối này liên hệ mật thiết với nhau vì cùng kể đến một kinh nghiệm đau xót của phận người: "chước cám dỗ" và "sự dữ". Ðức Giêsu ở đây không chủ ý giải thích mầu nhiệm sự dữ hay sự tội; Ngài muốn người niệm kinh hãy nhìn nhận chúng như một thực tại cần trực diện đối phó. Phủ nhận tội lỗi là thái độ bất cần ơn cứu độ. Người ta vô phương xóa bỏ tội ác bằng thiện chí thuần túy con người. Phải nhờ sức thiêng lực trời, mới đương cự nổi thần dữ thế gian, Satan cha đẻ của gian dối. Vì lẽ đó, con phải cầu Cha viện binh tiếp sức. Cậy sức mình sẽ đuối chết.
"Chước cám dỗ" theo lối hiểu Do-thái mang tính chất mơ hồ, cả tiêu cực lẫn tích cực. Nghĩa tiêu cực, đó là gài bẫy, lừa dụ vào đường bất chính, nhằm gây hậu quả hủy hoại quan hệ. Nghĩa tích cực, cần thiết như một thử thách, tôi luyện hầu giúp chín mùi và chứng tỏ nhân cách. Những ví dụ cho hai loại này không thiếu trong Kinh Thánh. Ðiển hình cho loại tiêu cực có trình thuật Ðức Giêsu bị quỷ cám dỗ trong hoang địa, được cả ba thánh sử nhất lãm ghi lại (Mt 4:1-11; Mc 1:12-13; Lc 4:1-13). Về loại tích cực, có câu chuyện ông Gióp bị Satan hành hạ trăm bề, nhưng vẫn một lòng tín trung, minh chứng lời Ðức Chúa Giavê nói về ông là đúng: "Trên đất chẳng có ai như nó: Một người liêm khiết và chính trực, kính sợ Thiên Chúa và xa điều gian ác" (Gióp 1:8). Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái cũng từng làm chứng về Ðức Giêsu: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách mọi bề như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi" (Dt 4:15). Nhưng dù trong bất kỳ trạng huống nào, điều hệ trọng là không quên cả hai điều: (1) sa ngã là nguy cơ có thể xảy ra cho bất cứ ai, bất cứ khi nào nơi đâu; và (2) tín thác vào quyền năng của Cha trên trời là bảo đảm cho lòng kiên vững và ơn giải thoát. Lạ thay, Chúa bảo ta cầu xin để không sa vào hố tội, chứ không xin tránh cơn cám dỗ. Vẫn phải đi, miễn sao cho không ngã! Cha mong thấy nơi con một tư thế dũng cảm và tín thác. Tính chất tương lai đầy hy vọng của hai lời kinh cuối toát lên từ đó.
Cuối cùng ra, đầu mối muôn tội không phải chỉ là một "sự dữ" trừu tượng nào đó, nhưng phải gọi đích danh nó là "kẻ dữ", là Satan, tên ngạo mạn, bất phục, phản loạn. Chính Ðức Giêsu đã thấy ngày tàn của nó: "Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng tự trời sa xuống" (Lc 9:61). Khải Huyền của Gioan cũng thị kiến: "Nó đã bị xô nhào xuống, con rồng lớn, con rắn xưa, gọi là quỷ, là Satan, kẻ mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó đã xô nhào xuống đất và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó" (Kh 12:9). Vì thế, niệm lời kinh này là ý thức mình đang tham gia vào cuộc chiến bên Thiên Chúa chống lại Satan. Qua biến cố chóp đỉnh Tử Nạn và Phục Sinh, Ðức Kitô đã chiến thắng dứt điểm quỷ dữ, tội lỗi và sự chết, mở đầu chuỗi vinh thắng, nhưng tiếp nối cuộc chiến thắng này là phần vinh quang Chúa dành cho mỗi môn đệ của Ngài. Hãy khẩn cầu để Thần Khí Ðức Kitô Phục Sinh lưu lại trong thâm tâm người niệm kinh, để Ngài tiếp tục cứu ta khỏi ác thần. Ðã vang lên khúc ca khải hoàn cánh chung:
"Thiên Chúa chúng ta thờ
giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ đây biểu dương uy lục với uy quyền,
và Ðức Kitô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì kẻ tố cáo anh em ta,
ngày đêm tố cáo họ trước tòa Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài.
Họ đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên
và nhờ lời họ làm chứng về Ðức Kitô:
họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết" .
(Kh 12:10-11)
Kết luận
Kinh Lạy Cha quả là một kinh toát yếu vừa xúc tích vừa cô đọng tuyệt vời. Kinh không chỉ kể ra mối quan tâm bao quát về ơn cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nhưng còn lưu ý đến cả những nhu cầu thiết thực và căn bản nhất của đời sống người môn đệ Chúa Kitô. Nhưng những nhu cầu này không thể tách biệt khỏi chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có thể cầu cho "chúng con" và những gì của "chúng con" trong ý thức mình là con cái "Cha" trên trời, là anh chị em với nhau. Kinh Lạy Cha, vì thế, là lời kinh của mọi thời. Kinh gói trọn ước nguyện lớn lao nhất của Thiên Chúa Cha dành cho đàn con. Ðồng thời, niệm Kinh Lạy Cha là đi vào, là sống với tâm tư sâu kín của Ðức Kitô để cảm nhận trọn vẹn sứ mạng làm con Cha trên trời. Kinh trở thành đường tu cho người môn đệ Chúa Kitô.
http://www.cuuthe.com/bao/s160laycha.html |
|