Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 16 trên 16

Chủ đề: 13 Người đã thay đổi thế giới

  1. #1
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default 13 Người đã thay đổi thế giới

    Thật là mất thời gian với một trang văn dài phải không ACE nhưng trong bài văn đó nó chứa một điều mới mẻ về một sự kiện-thông tin-chân lý...
    Mình xin giới thiệu các ACE về 13 người đã thay đổi thế giới không ai xa lạ mà chính là các môn đệ đã theo bước chân Chúa trên các nẻo đường (nếu có thời gian ACE mời ACE mỗi ngày ghé đọc tìm hiểu về các vị thánh của Chúa chọn)

    Mười ba người do Giê-su Na-da-rét chọn.
    Họ để lại thế giới khác hẳn trước khi họ đến.
    Họ làm thế nào ?
    Họ không vốn liếng,
    không tổ chức qui mô,
    không uy tín,
    không có nhà thờ để phụng vụ,
    không lập ủy ban...
    Họ bị bắt bớ, cấm rao giảng và cuối cùng bị giết.
    Họ làm thế nào ?
    Ta sẽ trả lời bằng cách nhìn họ sống, bằng cách tự hỏi:
    Họ là ai ? Vì sao Chúa Giê-su chọn họ ?
    Những câu hỏi này giúp ta biết về các Tông Đồ và phần đóng góp của họ trong một công trình vô tiền khoáng hậu.
    Mười ba người đã thay đổi thế giới:
    Một người vì lỗi lầm và mười hai người nhờ dấn thân.
    Họ là Tông Đồ của Chúa Giê-su Ki-tô.
    Họ là những người như chúng ta.
    Ta có thể gặp họ nơi góc đường,
    nơi chợ búa,
    trên cầu thang công cộng...
    Chân họ chạm mặt đất
    nhưng lòng họ lại tỏa ra một Đức Tin sống động
    vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô.
    Như Chúa Ki-tô đã kêu gọi mười ba người, Chúa cũng mời gọi mỗi một chúng ta để thay đổi thế giới

    bằng cách rao giảng Tin Mừng,

    bằng cách trình bày Thiên Chúa,

    bằng cách giới thiệu Nước Trời.

    thay đổi nội dung bởi: omem2207, 23-04-2011 lúc 10:56 PM

  2. Có 3 người cám ơn omem2207 vì bài này:


  3. #2
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    AN-RÊ,VỊ TÔNG ĐỒ GIÀU TÌNH BẠN
    ( Ga 1, 41 – 42 )

    Ông đang lắng nghe Gio-an Tẩy Giả. Ông là một trong những người đã đến để nghe vị tiên tri man dã này. Ông nghe rõ Gio-an đang nói, tay chỉ về phía Giê-su: "Đây Chiên Thiên Chúa..." ( Ga 1, 29 – 36 ).
    Tò mò và kích thích, ông theo Giê-su. Đức Giê-su thấy ông theo bèn hỏi ông muốn gì. An-rê và bạn ông thưa rằng họ muốn tiếp chuyện với Người. Chắc hẳn không chỉ là một buổi nói chuyện bình thường vì họ còn nhớ rõ thời giờ: "Lúc đó khoảng giờ thứ mười" ( Ga 1, 39 )... Một giờ đầy ý nghĩa đối với An-rê, giờ của quyết định, giờ của cơ hội, giờ thay đổi cả cuộc đời ông.
    Ông ra về với một niềm xác tín: "Giê-su là Chiên Thiên Chúa", Giê-su là Đấng Mê-si-a, Đấng được Thiên Chúa sai đến mà bao thế hệ hằng mong đợi.
    Bấy giờ An-rê chỉ còn nghĩ đến một người: đó là em trai mình, Si-môn Phê-rô. Ông bắt buộc phải nghĩ đến Phê-rô. Ông đã sống dưới bóng của chính người em ruột mình từ tấm bé: luôn luôn là Phê-rô thế này, Phê-rô thế nọ. Lúc nào cũng Phê-rô. Phê-rô là trung tâm điểm. Phê-rô là vì sao sáng. Phê-rô là kẻ đứng đầu. An-rê biết rằng Phê-rô có những khả năng mà mình không có. Dù sao thì cậu em Phê-rô cũng phải gặp Chúa Giê-su: "Trước hết, ông đến gặp em mình" ( Ga 1, 41 ).
    An-rê là môn đệ đầu tiên theo Chúa Giê-su nhưng lại không hề được ghi đầu trong bất cứ danh sách Tông Đồ nào. Luôn luôn là Phê-rô đứng đầu, rồi mới đến An-rê. Trong Tin Mừng Mác-cô và Tông Đồ Công Vụ, tên ông ghi đến hạng thứ tư.
    Có lẽ suốt đời mọi việc đều xảy ra như thế.
    Ở trường, Phê-rô là người trả lời nhanh nhất.
    Ngoài sân chơi, Phê-rô là quản trò.
    Khi giao thiệp, bạn bè vây quanh Phê-rô.
    Trong công việc chài lưới, Phê-rô giải quyết mọi việc.
    Phê-rô ra lệnh và An-rê trong bóng mờ lủi thủi thi hành.
    Khi gặp An-rê, người ta thường hỏi:
    "Anh tên là gì ? À, nhớ ra rồi, anh là anh của Phê-rô".
    Đóng vai phụ đâu phải là dễ, nhất là phải đóng suốt đời,
    ngày này qua ngày khác,
    tuần này qua tuần nọ,
    tháng này đến tháng kia,
    trong mọi việc,
    trong mọi lúc,
    trong mọi nơi.
    Sống nấp bóng một người em chói lòa đâu phải dễ !
    Và bây giờ, An-rê đã khám phá ra Đức Giê-su Ki-tô trước:
    được một lần ông sẽ đứng đầu,
    được một lần ông có dịp nổi.
    Nếu ông biết rằng ông đứng đầu trong một trường hợp ngoại lệ,
    nếu ông biết rằng thế giới sẽ chống lại ông,
    thì chắc hẳn ông đã không đưa Phê-rô đến gặp Chúa.
    Nhưng An-rê không phải loại bi quan yếm thế, ông đã học cách tạo nên những âm thanh tuyệt diệu trên những phím đàn hạng hai.
    Đầu tiên ông An-rê đến gặp em mình và nói rằng: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a..." rồi ông đưa Si-môn Phê-rô đến gặp Đức Giê-su. ( Ga 1, 41 – 42 ).
    Ông không do dự, không nghi ngờ,
    Ông khẳng định.
    Nếu ông nghi ngờ, thì hẳn Phê-rô đã không bị thuyết phục.
    Nhưng An-rê nói như đinh đóng cột:
    "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a."
    Phê-rô nghe anh mình nói, ông lắng nghe với tất cả con người nóng bỏng và hướng ngoại của mình.
    Chúng ta dễ hiểu vì sao An-rê phải là một con người đóng vai phụ. Đời sống của An-rê đã khiến ông em phải nể phục:
    An-rê êm dịu, trầm tĩnh và khiêm nhường.
    Phê-rô không cười vào mặt, không mỉa mai An-rê.
    Phê-rô đã chấp thuận để An-rê dẫn đến gặp Đức Giê-su.
    Có thể An-rê không có tài thuyết phục của Phê-rô,
    nhưng ông đã đem Phê-rô đến gặp Chúa.
    Có thể không bao giờ chúng ta có một Phê-rô
    nếu tiên vàn không có một An-rê.
    Chúng ta gặp lại An-rê trong Kinh Thánh vài tháng sau.
    Một đám đông đã nghe Chúa giảng suốt ngày. Trời đã xế và Người phải trở về. Đối với một số người, đường đi xa xăm lắm. Những người đàn bà đã thấm mệt, những đứa trẻ đã lả người. Họ không còn lương thực.
    Tông Đồ của Chúa Giê-su nghĩ ngợi hoang mang. Rồi An-rê bước tới, ( Ở đây, Phúc Âm lại ghi rõ "An-rê, anh của Si-môn Phê-rô" ( Ga 6, 8 ) để nhận diện ông: suốt đời, ông chỉ là một bóng mờ ! ) An-rê nói: "Đây có một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá..." ( Ga 6, 9 ).
    "Đây có một em bé..." Có lần các môn đệ thấy các em bé quấy rầy Chúa Giê-su nên đuổi các em đi. Trong số các môn đệ ấy, chắc chắn không có anh đâu, anh An-rê nhỉ ? Anh luôn chú ý đến các trẻ em.
    Chỉ mình anh mới nhìn ra một cậu bé lẫn lộn giữa năm ngàn người lớn và đưa em ra. Anh đã đưa bàn tay vạm vỡ cho em nắm gọn với ấm áp chân tình.
    Anh kể cho em nghe những kỹ thuật đưa mồi, bắt cá, kéo lên thuyền, và anh cũng không quên nói về những lần "lưới người" mà anh đóng góp. Và lúc này, em bé đã lấy bữa ăn trưa nghèo nàn đạm bạc để muốn cùng anh chia sẻ.
    Vậy là chúng ta đã hai lần gặp được An-rê, một An-rê chân thành, tươi mát, ấm áp, hiền hòa, khiêm tốn. Và rồi lần thứ ba, chúng ta sẽ gặp lại An-rê nhằm vào ngày lễ cuối cùng của cuộc đời Đấng Cứu Thế.
    Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem vinh dự tràn đầy. Vài người gốc Hy-lạp đến Giê-ru-sa-lem ( Ga 12, 20 ). Họ đến dự lễ Vượt Qua. Họ nghe nói về Giê-su Na-da-rét. Họ muốn gặp Người. Phi-líp không biết phải làm gì, không biết Chúa Giê-su có bỏ thì giờ để tiếp dân ngoại không. Chẳng phải sứ vụ của Người là hoàn toàn cho dân Do-thái đó sao ?
    Hay là đến hỏi Phê-rô và Gio-an xem sao ? Không được ! Phi-líp đoán rằng thế nào họ cũng trả lời như sau: "Bảo những người Hy Lạp đó về đi. Chúa Giê-su đến cho dân Do-thái, Người không có giờ đâu". Rồi một ý nghĩ lóe lên trong đầu: Ừ nhỉ, sao mình không hỏi An-rê ? An-rê là một người biết điều, ông ta biết sẽ phải làm gì. An-rê lại là một người bạn tốt, ông sẽ giúp ý kiến hợp tình hợp lý.
    Và Phi-líp đã nói với An-rê. Thế là An-rê, không một giây do dự, cùng Phi-líp, đã dẫn những người gốc Hy-lạp đến gặp Chúa Giê-su, và chắc hẳn đó là điều làm Chúa hài lòng.
    "Và người ta sẽ từ Phương Đông, Phương Tây, từ Phương Bắc, Phương Nam mà đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" ( Lc 13, 29 ). "Còn Thầy, một khi Thầy được giương lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy" ( Ga 12, 32 ).
    Ngoài ba lần ấy, chúng ta không còn gặp lại An-rê nữa.
    Ngoài danh sách các Tông Đồ, không nơi nào khác có tên ông. Ông chỉ xuất hiện có ba lần và lần nào cũng chỉ có một việc là đem một ai đó đến gặp Chúa.
    Đầu tiên, ông tự đem chính mình và em mình.
    Kế đến là một cậu bé.
    Và sau cùng là những người khách Hy-lạp.
    An-rê, người bạn chân tình.
    An-rê, người giới thiệu kẻ khác cho Chúa Giê-su.
    Thiếu ông là thiếu mất sự thành công.
    Những An-rê mang những Phê-rô cho Giáo Hội.
    Những An-rê không phải là những người được chú ý,
    được quảng cáo,
    được rọi đèn,
    được hoan hô...
    Họ không phải là những vai chính,
    họ chỉ là những vai phụ.
    Họ là những người bị quên lãng:
    "Tôi nhớ ra anh rồi !... Anh là anh ruột của Phê-rô."
    Họ suốt đời đóng vai phụ.
    Họ là những con người tầm thường,
    nhưng thiếu họ thì không có gì hoàn tất.
    Họ là những người khả năng hạn hẹp,
    những người mà Chúa chỉ ban cho 1 nén.
    Không được 5,
    không được 10,
    nhưng nén bạc duy nhất đó được họ sử dụng cho Chúa,
    chứ không nằng nặc giữ lấy cho mình.
    Chúng ta nhớ đến những Phê-rô,
    còn những An-rê chúng ta quên đâu mất !
    Những An-rê không viết được những Thánh Thư nảy lửa,
    không giảng được những bài giảng hùng hồn,
    không đem về cho Chúa một lần 3.000 linh hồn khi xuất hiện,
    không làm một phép lạ cỏn con nào...
    nhưng họ đem được cho Chúa một Phê-rô,
    để Phê-rô viết Thánh Thư,
    rao giảng Lời Chúa,
    rửa tội hàng ngàn,
    làm phép lạ trong lòng nhân thế.
    Chúng ta nhớ đến những Phê-rô,
    còn những An-rê chúng ta quên đâu mất !
    Thánh Âu-tinh đã trở lại và là người đặt nền tảng thần học cho Giáo Hội. Nhưng ít ai nhớ tới bà mẹ Mô-ni-ca suốt 20 năm trời cầu nguyện, hãm mình để xin ơn trở lại cho con mình.
    Mô-ni-ca thì nhiều người quên, nhưng Âu-tinh chắc ai cũng nhớ.
    Vị linh mục tại Pa-ri ( Paris, thủ đô nước Pháp ) đã hướng dẫn Shác-lơ đờ Phu-cô ( Charles de Foucauld ) và đem ngài trở về với Chúa. Cha ấy tên gì ? Tôi quên mất rồi !
    Chúng ta nhớ đến những Phê-rô,
    còn những An-rê chúng ta quên đâu mất !
    Không những Chúa Giê-su đã chọn An-rê, Người lại chọn An-rê là môn đệ đầu tiên. Vì sao ? Vì những người 1 nén cần thiết cho Nước Trời.
    Không thể làm được gì nếu không có một nhóm thân thiện, những đoàn người khiêm nhường, sẵn sàng giới thiệu Chúa Giê-su.
    Trong lịch sử Giáo Hội, có những giai đoạn cần đến những Phê-rô, Phao-lô, I-nha-xi-ô, Phan-xi-cô Xa-vi-ê... Nhưng con đường trường kỳ vẫn là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một.
    Trong chương trình của Thiên Chúa không thể thiếu vắng An-rê, Chúa cần đến An-rê với tài năng chỉ có "một nén".
    Không phải ai cũng có thể là Phê-rô, nhưng bất cứ ai cũng có thể là An-rê. Đó là lý do vì sao Chúa chọn An-rê. Đó là đường lối mà 13 Tông Đồ đã thay đổi thế giới.
    Những tín hữu đầu tiên đã tản mác ra, không lên tòa giảng nói năng hùng hồn, nhưng chỉ kể lại đơn sơ mộc mạc chứng tích Chúa Giê-su qua đời sống chứng nhân tận hiến và chân tình. Và vô tình hay hữu ý, họ đã noi gương An-rê, đi từ người này đến người khác, giới thiệu những linh hồn cho Chúa Ki-tô, và chính họ đã đảo lộn thế giới ( Cv 17, 6 ).
    Chúa Ki-tô cần con người,
    Chúa Ki-tô cần những An-rê.
    Không phải Chúa cần đến những người thông suốt thần học,
    Không phải những kẻ có bằng cấp cao,
    Không phải những người uyên bác trong mọi vấn đề...
    Nhưng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành
    những người tài năng có "một nén"
    những người với một trái tim, một tâm hồn,
    những người với một đam mê, một mục đích...
    những người sống, làm chứng,
    ra đi để kể câu truyện:
    "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a..."
    Chúa Ki-tô kêu gọi mọi giáo hữu đi khắp nơi để loan báo Tin Mừng rằng Thiên Chúa đã đến thế gian trong Đức Giê-su,
    rằng Người đã đau khổ, đã chết,
    rằng Người đã sống lại từ cõi chết,
    và đã sống lại cho đến muôn đời.
    rằng đây là biến cố lớn nhất lịch sử,
    là bằng chứng rõ ràng nhất của tình yêu.
    "Kẻ nào chiếm được các linh hồn, kẻ ấy khôn ngoan".
    Đó là con đường duy nhất để thay đổi thế giới,
    con đường của những An-rê giàu tình bạn,
    những người chỉ nhận được có "một nén" tài năng.
    An-rê, anh đang ở đâu ?
    Có những người đang chờ gặp Chúa Giê-su của anh...
    Chúng ta không biết gì về An-rê trong lịch sử Giáo Hội tiên khởi. An-rê biến mất trong bóng tối.
    Theo những tài liệu góp nhặt thì ông qua Hy-lạp và rao giảng ở vùng A-khai-a. Ông tử vì đạo tại đây và chết trên thập giá hình chữ X. Vài thế kỷ sau, hài cốt của ông đã được đem qua xứ Tô Cách Lan ( Scotland ). Chiếc tàu chở hài cốt bị đắm gần bờ biển. Nơi đây ngày nay gọi là Bờ Biển Thánh An-rê ( St. Andrew's Bay ). An-rê trở thành bổn mạng của quốc gia Tô Cách Lan.

  4. Được cám ơn bởi:


  5. #3
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    PHI-LÍP,VỊ TÔNG ĐỒ THỰC TIỄN
    ( Ga 14, 19 )

    Ta nhìn anh đi chợ, người anh cao ráo, trẻ trung, tươm tất. Tay anh cầm làn thức ăn. Nhìn anh, ta thấy có gì đó không ổn. Tay kia cầm mảnh giấy viết những món hàng phải mua. Mua xong một món, anh đánh một dấu thập, từ trên xuống dưới. Anh đã sắp xếp các món hàng phải mua theo các gian hàng. Anh tính trước con đường phải đi vì anh không muốn phải trở lại một gian hàng hai lần...
    Lộ trình của anh rõ ràng. Anh bước khoai thai về nhà. Thoáng nhìn đồng hồ, anh đã mua sắm đúng thời gian dự định. Mắt anh bỗng nháy mạnh một cái, một con nhện vừa sa xuống trước mặt. Anh không coi là quan trọng. Một con nhện gió thổi có thể bay bất cứ nơi đâu. Một chục con nhện sa trong ngày mùng năm cũng không làm anh nghĩ ngợi, anh không có một xu hướng dị đoan nào...
    Anh vào nhà. Nhà anh sạch sẽ gọn gàng, đâu ra đấy, giờ nào việc nấy.Tối đến, anh đọc vài trang sách rồi đi ngủ. Anh không bao giờ thức khuya. Sức khỏe là vàng. Ngày mai còn công việc ngày mai.
    Nói chuyện với anh đi, nếu bạn muốn. Anh luôn sẵn sàng tiếp chuyện. Hỏi anh một vài câu để tìm hiểu anh xem.
    Hỏi đi, hỏi anh về vấn đề tôn giáo đi.
    "Tôn giáo ư ? Anh muốn biết quan niệm của tôi về tôn giáo à, tôi nói cho anh nghe. Như mọi người hay như đa số, tôi cũng có một tôn giáo. Tôi cho đó là một điều hay. Những em bé phải được học hỏi về đạo, điều đó giúp các em sống đàng hoàng hơn.
    Tin có Chúa ? Vâng, tôi nghĩ rằng tôi tin có Chúa. Khó có một trật tự vũ trụ như thế này nếu không có một Đấng Toàn Năng, một Đấng Tạo Hóa. Cha mẹ tôi rất là mộ đạo, đi Nhà Thờ rất thường. Nhưng tôi không thể sống Đức Tin của họ được. Tôi không thể tin vì cha mẹ tôi tin. Tôi tìm lấy con đường tôi đi. Tôi phải tìm lấy cho chính mình.
    Nói thật với anh, tôi là một người rất thực tiễn. Chân lý phải được thực nghiệm, niềm tin phải được thể hiện bằng hành động. Nói cách khác, người thực tiễn không thể tin điều gì không thể chứng minh được. Tôi tin rằng 2 với 2 là 4, anh có thể chứng minh điều đó. Tôi tin những gì tôi có thể thấy, có thể nghe, cảm nhận, sờ mó, thực nghiệm.
    Đức Tin à ? Này, anh không thể đặt ngón tay mà sờ Đức Tin. Đức Tin là gì ? Một số người có, một số người không. Nếu anh không có Đức Tin thì anh làm gì nào ? Tôi nói cho anh nghe, nếu tôi có thể thấy cho mình, biết cho mình, và nếu có ai thuyết phục được tôi, lúc ấy tôi mới tin.
    Đường đi đến tôn giáo, đối với tôi phải là một con đường thực tế. Chứng minh rõ ràng cho tôi đi nào ! Tôi không thể nào đi theo một cái gì mà tôi không biết, một cái gì mà tôi không cảm nghiệm. Nhưng nếu tôi gặp Chúa, thực sự gặp Người, tôi cho anh biết đấy, tôi sẽ là một môn đệ chân thành."
    Đấy là giọng nói của Phi-líp nếu như ông sống vào thế kỷ 20 này. Nhưng đấy cũng là cách nói của ông trong thế kỷ đầu tiên.
    Phi-líp là một người tỉ mỉ cẩn thận, bước từng bước một, vững chãi, lý luận rất mực là thực tế.
    Làm sao ta biết được như thế ?
    Điều đó nhận rõ trong Phúc Âm qua bốn lần ông được đề cập tới. Lần đầu, ta gặp Phi-líp ở Ga-li-lê.
    "Chúa Giê-su đi Ga-li-lê. Người đến gặp Phi-líp, Đức Giê-su nói với ông: Hãy theo Thầy". Phi-líp là người ở Bết-xai-đa, nơi An-rê và Phê-rô sinh sống” ( Ga 1, 43 – 44 ).
    Một vài Tông Đồ tìm gặp Chúa Giê-su nhưng Phi-líp thì không.
    Ông là một người quá thực tế.
    Ông không bị lôi kéo vào những dư luận mà ông cho là vu vơ.
    Ông không thấy gì chứng minh cho những tiếng đồn về Giê-su.
    Đấng Mê-si-a ?
    Đó là những điều đồn đãi không đâu. Hơi sức nào mà để ý !
    "Đức Giê-su đến gặp Phi-líp". Chỉ có cách đó !
    Đức Giê-su đã đi bước trước.
    Họ trao đổi câu chuyện.
    Phi-líp đặt một vài câu hỏi tầm thường và ông được nghe những câu trả lời khác thường. Kiến thức của ông về Cựu Ước giúp ông hiểu rõ vài vấn đề.
    Thế là ông bị thuyết phục !
    Ông sẵn sàng khởi hành trên con đường mới.
    Ông muốn đi theo Giê-su,
    Ít ra, ông muốn thử xem,
    ông muốn cảm nghiệm,
    muốn bắt đầu !
    Ông đặt một vài câu hỏi chính đáng
    Và ông nhận được những câu trả lời thỏa đáng...
    Giờ đây, chàng Phi-líp phấn khởi,
    Phấn khởi đến độ phải tỏ bày cho một người bạn:
    "Chúng tôi đã gặp Người, Đấng mà Mô-sê trong lề luật và các ngôn sứ đã chép, Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét..."
    Một câu nói tỉ mỉ rõ ràng như một kết luận khoa học:
    "Chúng tôi đã gặp Người..."
    Người là Giê-su. Những tiên tri đã nói về Người.
    Người đến từ Na-da-rét, cha Người là Giu-se...
    Trong khi An-rê nói ngắn gọn:
    "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a..."
    thì Phi-líp rõ ràng và chính xác.
    Khi một người bạn của ông phản ứng:
    “Từ Na-da-rét thì có thể nẩy ra điều gì tốt được ?”
    Ông không tranh luận bàn cãi, ông chỉ trả lời một cách thực tế:
    "Thì hãy đến mà xem..." ( Ga 1, 46 ).
    Không ai có thể mê hoặc ông. “Chứng minh cho tôi thấy rồi tôi sẽ là một môn đệ chân thành."
    Ông đã đến, và xem cho chính mình, và đó cũng là đường lối ông đưa người khác đến với Đức Giê-su.
    Con đường ông đi là con đường thực nghiệm, con đường khoa học:
    "Hãy đến mà xem..."
    Đấy là tất cả những gì Chúa đòi hỏi nơi những kẻ đi tìm chân lý.
    Bây giờ, Phi-líp đã theo Chúa Giê-su.
    Ông được Chúa chọn làm Tông Đồ.
    Ông đã khởi đầu nhưng ông còn bao nhiêu điều phải học.
    Ông tiến triển chậm chạp, dè dặt.
    Ông không bao giờ đặt chân một bước
    nếu chưa biết chắc chắn về mảnh đất trước mình.
    Chúa Giê-su để ý thấy điều đó.
    Chúa đã chọn ông làm một trong 12 Tông Đồ
    Và Người cũng để ý đến dịp dạy dỗ ông,
    theo dõi sự tiến triển của ông.
    Cơ hội đến, khi có đám đông nghe Chúa Giê-su giảng.
    Bấy giờ đã xế chiều, người người đều mệt và đói lả.
    Chúa Giê-su quay về phía Phi-líp để hỏi ông một câu:
    "Ta mua đâu được bánh cho họ ăn ?
    Người hỏi như thế là để thử ông” ( Ga 6, 5 )
    Tại sao lại hỏi Phi-líp ?
    Vì Phi-líp thực tế, khoa học, bản tính của một kế hoạch gia, luôn tìm giải pháp hợp lý theo lý luận của loài người. Nhưng hiện tại Phi-líp đã theo Người, theo Đấng mà ông đã thú nhận rằng Mô-sê và các ngôn sứ đã chép.
    Ông có tin tưởng vào Đấng ấy không ?
    Ông có phó thác vào Đấng ấy không ?
    Ông sẽ trả lời làm sao ?
    Chúa Giê-su hỏi ông để thẩm định ông,
    để thử ông,
    để nhận định sự phát triển của ông.
    Ông vẫn dè dặt, đắn đo hay phó mình cho Đấng Mê-si-a ?
    Ông sẽ hành động theo Đức Tin hay theo lý luận ?
    Cách Chúa thử cũng lạ, thử vào một lúc bất ngờ !
    Chính lúc bất ngờ nhất,
    con người sâu thẳm nơi ta mới thể hiện,
    mới bộc phát trước mặt mọi người,
    mới có thể làm chứng cho đức tin
    và khi thể hiện xong, ta mới biết rằng quá trễ !
    Phi-líp đã bỏ mất cơ hội,
    Ông đưa cặp mắt khoa học để nhẩm đếm số người...
    Xem nào, 5... 10... 15... “200 đồng...
    cũng không đủ để mỗi người được một chút đỉnh” ( Ga 6, 7 )
    Dưới cái nhìn thực tế, mọi việc không thể giải quyết. Tìm đâu ra 200 đồng bây giờ ? Vô phương ! Nhưng Phi-líp quên Đấng mà ông thấy đã chữa bao nhiêu người khỏi mọi thứ bệnh... thì sá gì một cơn đói. Ông quên Đức Giê-su Ki-tô.
    Ôi, vị Tông Đồ thực tiễn còn có bao nhiêu điều phải học...
    Một lần khác, “Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp” ( Ga 12, 20 ). Bấy giờ, dân chúng “thoạt nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò...” ( Ga 12, 12 – 13 ). Một số người Hy-lạp sống ở gần Bết-xai-đa, gần quê Phi-líp, họ đến Giê-ru-sa-lem, gặp ông và nói:
    "Chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." ( Ga 12, 21 ). Phi-líp lại e dè. Ông phải nhìn trước khi ông bước. Đây là một vấn đề khó khăn. Những người ngoại muốn gặp Đức Giê-su !
    Phải làm gì đây cho hợp lý ?
    Đắn đo dè dặt, Phi-líp bàn lại với An-rê để An-rê quyết định cho ông, và "rồi An-rê và Phi-líp đi thưa với Chúa Giê-su" ( Ga 12, 22 ).
    Tuy nhiên, bản tính của Phi-líp thể hiện rõ ràng nhất vài ngày sau đó, trong buổi tiệc ly.
    Ông đã theo Chúa suốt ba năm ròng.
    Ông đã là một vị Tông Đồ.
    Ông bảo Na-tha-na-en: "Hãy đến mà xem"
    Ông đã đến mà xem cho chính mình,
    thế mà ông xem nhưng không thấy !
    Ông đã nghe nhưng không hiểu
    ông đã chấp nhận nhưng thực sự ...
    ông đã hiểu được bao nhiêu ?
    Con đường ông đi quả thật là gai góc khó khăn.
    Đến bây giờ, ông đã thực sự tin Chúa chưa ?
    có thể quả quyết chưa ?
    Đức Giê-su đã giải thích tường tận,
    thế mà chưa có gì có vẻ rõ ràng.
    Mọi việc còn mang vẻ bí mật.
    Phi-líp còn để trí óc mình chìm đắm trong sương mù.
    Ông phải cắt lời Thầy mình:
    "Thưa Thầy, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha,
    như thế là chúng con mãn nguyện rồi." ( Ga 14, 8 )
    Phải chỉ cho thấy mới đủ, mới mãn nguyện !
    Ba năm trời...
    Chúa đã chỉ bao nhiêu lần mà nào ông có thấy.
    Dù sao thì...cũng phải cám ơn Phi-líp vì câu hỏi của ông.
    Câu hỏi ấy tỏ cho chúng ta thấy rằng:
    Dù ông theo Chúa đã ba năm ròng,
    Dù ngày ngày ông ở bên cạnh Chúa Giê-su,
    ông vẫn còn tra hỏi,
    vẫn còn thao thức,
    vẫn còn kiếm tìm.
    Có thể tỏ ra rằng ông vẫn còn chưa biết rõ,
    Nhưng cũng tỏ rõ nỗi khao khát tìm hiểu của ông.
    Cám ơn Phi-líp, chúng tôi nhớ ơn anh vô cùng.
    Nhờ anh thực tiễn mà anh gợi lên câu trả lời độc đáo nhất trong mọi thứ văn chương. Anh đã làm cho Chúa Giê-su nói: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà, Phi-líp, anh chưa biết Thầy ư ? Ai xem thấy Thầy là xem thấy Chúa Cha" ( Ga 14, 9 ).
    Anh có nhận thấy một thoáng phiền trách trong giọng nói của Thầy chăng ?
    Thầy đã ở với anh bao nhiêu lâu rồi,
    mà anh thì vẫn ù ù cạc cạc !
    Đến giờ này là sắp trễ rồi. Thế mà anh vẫn chưa hiểu gì mấy !
    Anh phát triển chậm quá.
    Anh cẩn thận quá.
    Anh thực tiễn quá.
    Đấy, Phi-líp, thực tiễn quá. Đấy là trở ngại của anh !
    "Phi-líp, anh không thấy Thầy hành động sao ?
    Anh không nhớ hai lần Thầy nuôi mấy ngàn người sao ?
    Anh không nhớ rằng Thầy luôn luôn nói với Đức Tin ?
    Anh không thấy Thầy hằng lập đi lập lại sao ?
    “Thầy ở trong Cha Thầy, và Cha Thầy ở trong Thầy." ( Ga 14, 10 )
    Anh đã nói với bạn anh: Hãy đến mà xem.
    Thầy cũng lại nói với anh: Phi-líp, hãy đến mà xem,
    “Và ai thấy Thầy cũng là thấy Cha Thầy”.
    Anh hãy xem những việc Thầy đã làm, đang làm và sẽ làm.
    Và nếu anh không tin Lời Thầy thì ít ra,
    “...anh hãy tin vào những việc Thầy làm” ( Ga 14, 11 )
    Câu nói cuối cùng của Thầy Chí Thánh vang dội trong lòng ông qua những ngày đen tối.
    Ông suy đi nghĩ lại và chín mùi vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
    Phải đến ngày đó thì Phi-líp mới thực sự tới đích.
    Nếu tôi có thể thấy rõ ràng, tôi sẽ tin.
    Nếu gặp được Chúa, tôi sẽ là một môn đệ chân thành.
    Và Phi-líp đã thực hiện Lời Chúa dạy:
    "Kẻ tin vào Thầy thì sẽ làm được những việc Thầy làm" ( Ga 14, 12 )
    Mà Chúa Sống như ánh sáng giữa thế gian, thì Thánh Pô-li-các-pơ ( Polycarpe ), Giám Mục Ê-phê-xô cũng viết về Phi-líp trong thế kỷ thứ 2 như sau: "Ông là một trong 12 Tông Đồ đã sống như ánh sáng chói lòa nhất ở Á Châu ( Tiểu Á ) và được chôn cất ở Hi-ê-ra-pô-lítx ( Hierapolis )".
    Phi-líp chết như thế nào ? Ông chết tự nhiên hay tử vì đạo ? Không ai rõ. Nhưng cần biết gì về cái chết của ông ? Điểm cuối cùng căn bản là ông đã tới đích, ông đã sống như một ánh sáng.
    Trong thời đại khoa học và thuần lý này, có biết bao nhiêu Phi-líp khác cũng đang tìm bằng chứng vì muốn có cơ sở vững chắc.
    Họ tìm kiếm sự thật.
    Nhưng, đối với mọi người, dù họ lãng mạn hay thực tế, dù họ duy tâm hay thực nghiệm, thì Chúa Giê-su Ki-tô cũng đã đem đến một câu trả lời thực tiễn.
    Đấy là việc Người chọn và dẫn dắt Phi-líp.
    Phi-líp tìm thấy nơi Chúa Giê-su tất cả những gì ông tìm kiếm,
    tất cả những gì làm ông thao thức.
    Niềm tin phải được kiểm chứng bằng thực nghiệm:
    "Ai đã thấy Thầy là đã xem thấy Cha Thầy".
    Thế là đối với tất cả những ai thao thức, tất cả những ai tìm kiếm chân thành, vị Tông Đồ thực tiễn nhất đã gửi đến một lời mời gọi cũng thực tiễn nhất:
    Vâng, bạn hãy đến
    Và xem cho chính bạn...

  6. #4
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    NA-THA-NA-EN, VỊ TÔNG ĐỒ MƠ MỘNG
    ( Ga 1, 47 )

    Na-tha-na-en là người nghệ sĩ nhất trong số 12 Tông Đồ. Ông là một người thần bí, duy tâm, một người sống trên mây, một ông thánh. Ông là loại người ra đường với quần áo xốc xếch, tóc không chải, giày không buộc dây, áo quên cài nút.
    Nói chuyện với ông, chúng ta có cảm giác là ông đang “đi vắng". Ông không chú ý đến người đối thoại. Ông nhìn vào xa xăm, ông như trên cung trăng rơi xuống.
    Đó là hình ảnh của vị Tông Đồ mơ mộng. Ông sống trong giấc mơ, không lúc nào có vẻ tỉnh táo cả. Ông thiết lập tháp ngà trên mây trên gió. Tóm lại, ông sống như một kẻ si tình.
    Ông si mê với một viễn tưởng,
    si mê với Con Người,
    si mê với Nước Trời.
    Trong Phúc Âm Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca, tên Na-tha-na-en không xuất hiện, nhưng được gọi là Ba-tô-lô-mê-ô. Ông là Na-tha-na-en – Ba-tô-lô-mê-ô, hay là Na-tha-na-en, con của ông Tôn-mai.
    Vì sao một người như Na-tha-na-en lại được chọn làm tông đồ ?
    Ông có ích gì cho Nước Trời ?
    Ông là một người thiếu thực tế và hướng nội.
    Phải chăng Nước Trời cần đến những người hướng ngoại,
    những người hoạt động,
    những người hăng say ?
    Còn Na-tha-na-en hầu như không làm gì cho ra hồn.
    Trao cho ông việc gì thì ta có thể đoán ra phần nào rằng công việc đó sẽ không được hoàn tất.
    Có thể ông không nghe ta căn dặn, có thể ông lẫn lộn đầu đuôi...
    Nhận công tác xong,
    Ông không bắt tay ngay vào việc.
    Ông không bao giờ gấp rút.
    Ông chậm chạp thờ ơ.
    Ông bảo rằng: ông muốn làm, ông sẽ làm.
    Ông biết trước là phải làm, nhưng bao giờ mới làm ?
    Dù sao, chúng ta cũng cảm thấy Na-tha-na-en có một nét độc đáo trong lối sống của ông.
    Ông có vẻ thích thú đời sống của mình.
    Một người thực tiễn luôn luôn gấp rút;
    một nhà doanh thương không thể ngồi yên;
    một người tân tiến bám chặt vào thời dụng biểu;
    nhưng ông thì không có thời dụng biểu,
    ông cũng không lệ thuộc thời dụng biểu.
    Đối với ông, câu "giờ nào việc nấy" thật là xa lạ.
    Ông không thắc mắc đến thì giờ và công việc.
    Ta có thể hiểu vì sao Chúa chọn Phê-rô.
    Phê-rô là một người hăng say nhiệt tình,
    một người lăn xả hoạt động...
    Ta có thể hiểu vì sao Chúa chọn Phi-líp.
    Phi-líp sử dụng đầu óc chín chắn, biết nghiên cứu môi trường,
    thiết lập kế hoạch, phân công và tổ chức.
    Ông ấy là người thực tế.
    Ngay cả An-rê, An-rê không có tài năng bao nhiêu, nhưng An-rê cần thiết cho Nước Trời,vì tài năng duy nhất của ông là đưa từng người về với Chúa. Nhưng... vì sao Chúa lại chọn Na-tha-na-en, một người mơ mộng ?
    Ông là một người mảnh khảnh, luộm thuộm,
    có vẻ thiếu dinh dưỡng, có vẻ xa vời,
    có vẻ nghệ sĩ mà lại không có khả năng nghệ thuật nào.
    Na-tha-na-en không thể làm việc như Phê-rô;
    Không thể suy tư thực tiễn như Phi-líp.
    Ông cùng họ sánh vai, nhưng đầu để trên mây,
    mơ những giấc mơ
    và thấy những giấc mộng...
    Chúng ta thử nhìn vào Kinh Thánh để tìm hiểu vì sao Chúa Giê-su lại chọn ông. Khi ông đến gặp Chúa Giê-su, Người đã thấu suốt lòng ông. "Đức Giê-su thấy Na-tha-na-en đến với Người thì Người nói về ông: này đây một người Ít-ra-en đích thực, trong mình không có gian dối" ( Ga 1,47 )
    Thật là một lời khen nồng ấm:
    Một người không gian dối
    Một người không tính toán,
    Một người không mưu mô,
    Một người không giả hình.
    Ông không nghĩ xấu cho ai,
    Ông không bao giờ vạch lá tìm sâu,
    Ông không bao giờ chẻ sợi tóc làm tư,
    Ông không tìm kẽ hở trong lời đối thoại
    Ông chấp nhận mọi người một cách thoải mái.
    Ông sống với ý nghĩ thanh cao, nên không có giờ để xảo trá.
    Ông vượt hẳn những ti tiện nhân gian,
    Ông vượt qua bên kia bờ của lừa gạt giả hình.
    Thế nhưng, trước lời khen của Chúa, chúng ta thử đi sâu vào lòng Na-tha-na-en.
    Phi-líp, bạn ông cũng vừa mới gặp Đức Giê-su.
    Vì sao hai người lại làm bạn với nhau ? Khó mà hiểu nổi.
    Phi-líp thật là lè tè dưới đất,
    còn Na-tha-na-en thì suốt đời mơ mộng.
    Phi-líp thì hành động đúng nơi đúng lúc,
    còn Na-tha-na-en thì thờ ơ chậm chạp.
    Dù sao thì sau đây là một sự kiện: Phi-líp gặp Đức Giê-su rồi đến bảo Na-tha-na-en:
    - Chúng tôi đã gặp Người, Đấng Mê-si-a, Đấng mà Mô-sê và các ngôn sứ đã ghi chép. Người là Giê-su, quê ở Na-da-rét.
    - Ồ, anh gặp rồi hả Phi-líp ? Ai nói với tôi câu đó thì tôi còn chấp nhận chứ người đó lại là anh sao ? Anh là người thực tế và chỉ nói khi có bằng cớ. Thế mà anh lại đi tin rằng lời Mô-sê và các ngôn sứ đã ứng nghiệm qua nhân vật mà anh gặp...
    Tên ông ấy là gì ? À, Giê-su... Anh bảo rằng Giê-su ở Na-da-rét... Na-da-rét ư ? Đấng Mê-si-a có thể đến từ kinh đô Giê-ru-sa-lem, hay từ Bê-lem như Kinh Thánh nói. Hay ít ra cũng từ một thành phố lớn như Ca-phác-na-um. Sao lại đến từ Na-da-rét ? Đúng là một cái hang cùng vô nghĩa trên quả đất.
    Vả lại, anh cũng biết người dân ở đó nhỏ nhen, cố chấp, ngu si... Vậy mà anh đứng đây mà bảo với tôi rằng người ấy là Đấng Mê-si-a, Đấng giải phóng. Anh nhớ chứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến, lại không chọn một thành phố quan trọng nào từ Đan đến Bét-se-va, mà lại xuất thân từ Na-da-rét... “Từ Na-da-rét thì có thể nẩy ra điều gì tốt được ?” ( Ga 1,46 )
    Na-tha-na-en dù không xảo quyệt, dù không gian dối,
    nhưng lại là người đầy ắp thành kiến...
    Con người thường là thế,
    Có một đức tính nhưng lại thiếu bao nhiêu đức tính khác.
    Có thể ta không giả hình,
    Nhưng ta vẫn mang sự khinh khi kẻ khác trong lòng.
    Ta có thể tốt như Na-tha-na-en,
    Nhưng lại có thể vẫn chứa đầy chất độc của thành kiến.
    Na-tha-na-en không gian dối,
    Nhưng ông không phải là người hoàn thiện.
    Nhận xét đầy vẻ cố chấp của ông vẫn còn trong Kinh Thánh.
    Làm sao sự việc như thế lại có thể xảy ra ?
    Con người mơ mộng này, con người trầm mặc này,
    Người Ki-tô hữu này, chi thể của Giáo Hội này,
    Chẳng phải người ta vẫn coi ông là một người cởi mở,
    một người không có thành kiến đó sao ?
    Làm thế nào mà chính ông lại là người mang đầy thành kiến ?
    Con người sống trên mây tự cho mình cao trọng hơn kẻ khác.
    Ngoài những công việc làm ăn,
    ông đã đọc được một vài cuốn sách đạo,
    một đôi lần suy gẫm trong tuần,
    trong khi những người khác thì không ham thích giáo lý !
    Ông là một Ki-tô hữu, biết ít nhiều về Kinh Thánh,
    trong lúc những người kia là những người tội lỗi.
    Đây là lối suy tư của ông:
    Là một người trí thức,
    ông khinh thường những kẻ thất học,
    Là một người ở giai cấp khá giả,
    ông nhìn xuống giai cấp công nông.
    Là một người hoạt động ở đô thị,
    ông coi mình có giá hơn những kẻ sống ở xó xỉnh Na-da-rét.
    Đối với một người có thành kiến như vậy, phải làm gì ?
    Phi-líp nói với Na-tha-na-en: "Thì hãy đến mà xem" ( Ga 1, 46 )
    Không tranh luận,
    Hãy đến mà tự tìm lấy, đến mà đối diện với sự kiện,
    Nếu như anh muốn buộc tội cả thành phố
    vì anh đã gặp một người xấu trong đó.
    Anh hãy tìm gặp một ngươi khác cũng ở thành phố đó. Để xem anh có còn khư khư ôm cái định kiến của anh nữa không ?
    Hãy đến gặp Đức Ki-tô, Người sẽ xóa bỏ thành kiến của anh. Người sẽ làm cho anh mắc cỡ khi Người nói: "Đây quả là một người Ít-ra-en đích thực, trong mình không có gian dối." ( Ga 1, 47 )
    Na-tha-na-en...
    Làm sao Người có thể nói như thế đối với anh ?
    Làm sao Người đã có ý nghĩ thật đẹp về anh ?
    Phải chi Người biết được điều anh đã nói về Người ?
    Phải chi Người biết được cảm nghĩ của anh đối với dân Na-da-rét ?
    Nhưng này, anh Na-tha-na-en, Người biết chứ.
    Người biết về anh nhiều hơn là điều anh dám tưởng tượng !
    Người biết lòng dạ anh, Người biết thâm sâu anh.
    Anh không thể giấu giếm điều gì với Người.
    Người Na-da-rét này làm cho anh ngạc nhiên, anh nhỉ ?
    Anh hỏi: "Bởi đâu mà Người biết tôi ?" ( Ga 1, 48 )
    Anh chưa bao giờ thấy Người cả,
    Hay đã có lần nào gặp Người rồi ?
    Có thể anh đã gặp Người nhưng chưa thấy Người,
    trong một lúc lo ra không chú ý.
    Lời nói của Người làm anh sực tỉnh: ”Trước khi Phi-líp gọi anh,Tôi đã thấy anh dưới gốc cây vả." ( Ga 1, 48 )
    Người đã thấy anh mà anh không thấy Người.
    Anh ngồi đấy suy tư, nghĩ về Chúa, mắt nhìn xa xôi !
    Chúa Giê-su theo dõi anh
    trong khi không có cặp mắt trần tục nào nhìn thấy được.
    Mắt Chúa Giê-su nhìn vào sâu thẳm lòng anh.
    Và từ đó, Người đã nói câu nói làm anh ngỡ ngàng: "Thật là một người Ít-ra-en đích thực,Trong mình không có gian dối." ( Ga 1, 47 )
    Người đã thấu suốt tâm hồn anh.
    Phi-líp đã nói gì về Người ?
    Đó là Đấng đã được Mô-sê ghi chép,
    được các ngôn sứ nói đến như là một Đấng Mê-si-a.
    Người đã biết anh từ khi anh còn ngồi dưới gốc cây vả.
    Từ Na-da-rét đã nẩy ra cái gì tốt đây !
    Anh chột dạ, đáng lý anh không nên nói như đã nói.
    Anh ân hận vì thành kiến của mình: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Ít-ra-en." ( Ga 1, 49 )
    Na-tha-na-en đã tin thật chóng vánh.
    Một người nghệ sĩ thì không cần nhiều bằng cớ.
    Ông không giống như Tô-ma, người đa nghi.
    Ông không giống như Phi-líp,
    một người thực tế nhìn kỹ trước khi tiến
    Ông tiến tới trước khi nhìn.
    Chúa Giê-su cũng lấy làm lạ. Câu chuyện mới bắt đầu, và kẻ đối thoại đã bị chinh phục: chỉ mới một dấu hiệu cỏn con.
    Chúa Giê-su bảo: "Anh tin Tôi, bởi vì Tôi bảo rằng Tôi đã thấy anh dưới cây vả, anh sẽ còn thấy những điều trọng đại hơn nữa. Tôi bảo anh, anh sẽ thấy Thiên Cung mở rộng và Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người." ( Ga 1, 50 – 51 )
    Na-tha-na-en, anh là người hay mơ mộng,
    anh sẽ thấy những giấc mộng...
    Na-tha-na-en, anh là người tâm linh,
    anh sẽ nhìn thấy những ánh sáng trong những lần ngất trí,
    anh sẽ nhìn thấy Thiên đàng.
    Đầu anh trên mây, anh sẽ thấy Thiên thần, anh sẽ không bao giờ đạt tới một điểm cao hơn khi anh cảm nghiệm được Con Người trong vinh quang, và anh sẽ cảm nghiệm trong khi cầu nguyện và suy gẫm...
    Vâng, có thể Na-tha-na-en không phải là người thợ xây dựng Nước Trời, cũng không phải là nhà truyền giáo như Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an. Ông đã sống chân chạm đất mà trí óc lại ở trên trời...
    Nhưng, ông cũng vẫn có thể là một Tông Đồ.
    Và khi theo nhóm người được tuyển chọn,
    ông nhắc cho ta thấy rằng:
    Nhiệm vụ đầu tiên của con người chúng ta:
    là đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa,
    là sống đời sống không mưu mô, gian dối,
    là hướng về sự tinh tuyền của Chúa Giê-su Ki-tô,
    là trở nên một thánh nhân,
    là chiếm hữu cái độc nhất...
    Na-tha-na-en là người tiên phong trong số những tâm hồn nhạy cảm tìm gặp Thiên Chúa bằng chiêm niệm...
    Na-tha-na-en là một Phan-xi-cô thành Át-xi-di, là một Tô-ma a Kem-pi ( Thomas a Kempis ), tác giả cuốn Gương Chúa Giê-su...
    Na-tha-na-en là người tiên phong trong số những người được Thiên Chúa chiếm hữu như Tê-rê-sa Hài Đồng, như Shác-lơ đờ Phu-cô ( Charles de Foucauld )...
    Na-tha-na-en trả lời câu hỏi mà thế giới ngày nay muốn biết:
    - Hiện nay có còn những vị thánh sống không ?
    - Có thể sống trong thế giới vật chất này, trong thế gian tội lỗi này, với lòng trong sạch của một vị thánh không ?
    - Còn chăng những tâm hồn không gian dối ?
    - Còn chăng những tâm hồn có đức tin như trẻ thơ, để tin vào Thiên Chúa mà không lý luận chăng ?
    - Và có thể tiến lên trong Chúa bằng cách thực hiện Phúc Âm theo nghĩa đen, mà không giải thích theo ý mình cho thích hợp với tình trạng mà không dám từ bỏ không ?
    - Còn chăng những Ki-tô hữu đích thực ?
    Chúng ta có quyền mong mỏi tìm thấy họ giữa các Tông Đồ như Na-tha-na-en, vị thánh được Chúa hoàn toàn chiếm hữu.
    Chúng ta có quyền mong mỏi tìm thấy họ giữa thế giới ngày nay, chúng ta phải sống trong tinh thần đó, chúng ta phải cầu nguyện trong tinh thần đó, để mai kia khi gặp Chúa Giê-su trước tòa phán xét, Người sẽ nói với ta:
    "Này đây đích thực là một người Ki-tô hữu, trong lòng không có gì gian dối..."

  7. #5
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    MÁT-THÊU, VỊ TÔNG ĐỒ ĐƯỢC CỨU VỚT
    ( Mt 9, 13 )

    Ông ngồi trong trạm của mình dựng bên đường. Trạm của ông nằm ở khu ngoại ô thành phố Ca-phác-na-um, một trong những trạm chạy từ Đa-mát đến Ít-ra-en. Ngoài những khoản thuế tùy thân của những người trong vùng, những khách hàng đi ngang qua cũng phải dừng lại đóng thuế hàng hóa trước khi tiếp tục chuyến đi...
    Giờ này đã sắp đến giờ đóng cửa. Ông sắp xếp lại giấy tờ, đếm tiền bạc, kiểm lại các biên lai, làm kết toán số tiền thu được. Ông nghĩ: "Chà không đến nỗi tệ, công việc càng ngày càng khá, cứ đà này chỉ vài năm nữa là..."
    Ông thường nghĩ ngợi về đồng tiền: "Có tiền mua tiên cũng được". Có tiền mọi người sẽ kính trọng ông, và ông quyết định phải kiếm cho được nhiều tiền. Đấy là vấn đề quan trọng. Ông không cần giàu sụ nhưng ông muốn làm ra tiền, có đủ tiền để sống thoải mái, đủ để xin về hưu sớm và hưởng thụ cuộc đời...
    Ông đủ khôn ngoan để thực hiện ý định của mình.
    Ông có một trí thông minh đặc biệt về mặt tính toán.
    Lúc bé, ông đã tỏ ra thông minh...
    Người ông gầy ốm,
    Ông không phải là một thể tháo gia
    Ông không có sức mạnh thể chất...
    Trán ông khá cao,
    dấu hiệu của "sự khôn ngoan và hiểu biết"
    Ông biết rằng ông thông minh,
    đủ thông minh để kiếm ra tiền.
    Vì thế, ông xin được làm người thu thuế. Sao lại không nhỉ ?
    Đấy là một công việc không nặng nhọc mà lại dễ kiếm tiền.
    Ông đã nghe rằng những người thu thuế là
    những người không tim,
    những kẻ đói tiền,
    những kẻ vô luân...
    Nhưng ông nghĩ: sự thật đâu đến nỗi,
    Dù sao họ cũng là người Do-thái, đa số là người Do-thái.
    Đâu phải vì họ làm việc cho chính quyền Rô-ma trong việc thu thuế mà họ trở thành hạng người vứt đi...
    Dĩ nhiên, dân chúng tố cáo rằng: những người Pu-bli-ca-nô, ( thu thuế ) đã đánh thuế quá nặng... Nhưng ai biết được chính quyền lấy bao nhiêu, còn họ giữ lại bao nhiêu ? Có thể có người lấy từ 20 tới 25%. Ông thì ông quyết giữ lại 15%. Điều hiển nhiên là ai ai cũng kiếm kế sinh nhai, dù cho người đó làm việc cho Rô-ma...
    Xét cho cùng,
    Ông là một con cháu đích thực của Áp-ra-ham,
    Ông hãnh diện về nguồn gốc Do-thái,
    Ông không bao giờ phủ nhận điều đó,
    dù ông làm việc cho Rô-ma...
    Ông đau lòng những lần lên Đền Thờ dự lễ. Từ ngày ông trở thành Pu-bli-ca-nô, họ vẫn cho phép ông đến dự lễ ở Đền Thờ... Nhưng họ đã lạnh nhạt với ông,
    Ông hiểu điều đó, ông cảm thấy điều đó,
    Và ông thôi không dự lễ nơi Đền Thờ Do-thái nữa...
    Vả lại, ông cũng bận rộn, bận vì công việc làm ăn.
    Sau này khi giải nghệ, ông sẽ trở lại Đền Thờ...
    Lúc bấy giờ, ông sẽ cầu nguyện và thờ phượng Chúa,
    Giờ đây, ông ngồi cộng sổ, quyết toán,
    Ông sắp sửa đóng cửa trạm thuế.
    Ông không thấy tinh thần thoải mái.
    Ông có cảm giác mọi người qua lại mắng nhiếc ông: “Quân ăn cướp, quân lưu manh..." Có người còn nói thẳng mặt ông hôm nọ: "Quân bóc lột !" Ông trả lời: "Tôi làm nhiệm vụ của tôi, nếu không phải tôi, thì cũng có người khác thu thuế..."
    Ông muốn cho tinh thần thoải mái, nhưng không được.
    Ông luôn luôn bứt rứt, không ai hiểu ông.
    Ông thao thức hằng đêm,
    Những tiếng nguyền rủa đồn về trong hành lang ký ức:
    “Quân đốn mạt,
    Quân ăn cướp,
    Quân bóc lột,
    Quân lưu manh..."
    Dân chúng xỉ vả ông, chòm xóm lẩn tránh ông,
    Những người đạo đức lạnh nhạt với ông,
    họ coi ông như một cô gái giang hồ,
    họ buộc tội ông là:
    “Đứa hợp tác với Rô-ma,
    Đứa phản bội dân tộc Ít-ra-en..."
    Ông không cho mình là kẻ phản bội dân tộc,
    Ông không bao giờ muốn phản bội dân tộc...
    Ông thấy mình không còn một người bạn thân nào,
    Nghĩa là bạn ông chỉ là những người Pu-bli-ca-nô như ông...
    Nhưng ngay những người Pu-bli-ca-nô cũng không là bạn thân đúng nghĩa, ông cảm thấy như vậy. Ngày nào ông còn tiền thì họ còn chấp nhận ông. Nếu chẳng may ông mất hết, ông nghĩ rằng không một ai trong số đó sẽ còn thân thiện với ông...
    Họ có vẻ ích kỷ, tất cả những gì họ làm đều vụ lợi...
    Còn ông, ông có kiến thức hơn họ,
    ông đã học tiếng Hy Lạp,
    ông đã học văn chương,
    nhưng ông không thể bàn về văn học với họ...
    Câu chuyện của họ chỉ toàn xoay quanh tiền bạc và du hí,
    dĩ nhiên, nhưng nhất là tiền bạc...
    Đầu óc ông rối bời. Ông nghĩ rằng nếu không cố gắng tập trung tư tưởng để cộng những con số này, chắc hẳn cuộc đời vô vị sẽ cứ trải dài trước mặt ông...
    Thế rồi, ông thấy Đức Giê-su đến. Người bước đi trên đường với một vài người bạn. Ông đã thấy Người một vài lần rồi, đó là người thợ mộc ở Na-da-rét vẫn đến đóng tiền thuế đều đặn mỗi năm. Người đóng tiền, nhìn ông lặng lẽ, rồi ra đi và năm sau trở lại với số tiền để đóng...
    Giờ đây, Đức Giê-su đang đi về phía trạm của ông. Ông đã nghe nói rằng Người đã rời bỏ nhà mình để đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan. Người đến cư ngụ tại Ca-phác-na-um... Có bao nhiêu lời bàn tán về Người. Người đã chữa những kẻ phong hủi và đuổi quỷ trừ ma. Dân chúng đi theo Người và nghe Người giảng...
    Ông cũng nghe được câu này: “Con-Loài-Người có quyền tha tội dưới đất." ( Mt 9, 6 ) .
    Con-Loài-Người ư ?
    Có quyền tha tội ư ?
    Ông suy tư mãi về điều này...
    Ông là kẻ có tội, ông biết chứ,
    Cuộc đời đói tiền của ông,
    Triết lý "Có tiền mua tiên cũng được" của ông...
    Cuộc đời và quan niệm ông rõ ràng là sai lầm.
    Ông vẫn tiếp tục công việc của mình,
    Nhưng không thể quên những lời đã nghe:
    "Con-Loài-Người có quyền tha tội dưới đất."
    Thế rồi, ông cảm được,
    ông không cần ngước mắt lên nhìn,
    ông biết rằng Con Loài Người đang đứng trước mặt...
    Rồi cuối cùng, ông cũng phải ngẩng đầu lên...
    Và cặp mắt đã nhìn ông bao lần,
    giờ đây đang nhìn thẳng vào ông,
    xuyên lòng ông,
    xuyên qua cả sổ sách ông,
    xuyên qua mọi tính toán của ông...
    xuyên suốt cuộc đời trống rỗng của ông.
    Giờ phút này, ông bỗng cảm thấy mình dơ bẩn,
    bên trong chỉ toàn là cặn bã, rác rến...
    Con người ấy,
    Người sắp gọi ông bằng cái tên mọi người thường gọi chăng ? Ông bồn chồn bất an,
    ông chờ đợi những tiếng nguyền rủa...
    Nhưng không...
    Thay vì vậy, Người mỉm cười và bảo: "Hãy theo Thầy" ( Mt 9, 9 )
    Theo Người ư ? Người muốn tôi theo Người ư ?
    Tôi, một người Pu-bli-ca-nô ?
    một người bóc lột ?
    một quân ăn cướp ?
    Người tin tôi đến thế sao ?
    Người muốn chọn tôi làm môn đệ ư ?
    Mát-thêu không còn tin vào điều mình nghe nữa...
    Và rồi thoáng chốc, ông thấy phấn khởi tràn đầy.
    ông không còn thấy mình dơ bẩn nữa,
    ông được rửa sạch, tha thứ, bình an.
    "Con Loài Người có quyền tha tội dướt đất."
    Đúng rồi ! Ông xếp giấy tờ lại, rời bàn làm việc, đóng cửa trạm thuế.
    Và thế là người Pu-bli-ca-nô này,
    người thu thuế này,
    người bị loại trừ khỏi xã hội này,
    đã thức tỉnh và quyết định thay đổi trọn cuộc sống...
    Từ một Mát-thêu thu thuế,
    ông đã trở thành tông đồ Chúa Giê-su.
    Đối với người đời, Chúa Giê-su chọn một người Pu-bli-ca-nô làm Tông Đồ là một hành động điên rồ...
    Mọi người đều liệt hạng thu thuế
    ngang hàng với kẻ buôn phấn bán hương,
    Những người thu thuế là những kẻ bất lương,
    những người tham lam, ham mê tiền bạc...
    Họ không thể đến Đền Thờ một cách thoải mái,
    không có quyền làm chứng nơi công nghị...
    Đâu phải Đức Giê-su không biết chuyện ấy.
    Người biết Mát-thêu sẽ làm bạn với ai, sẽ sống với ai
    và cộng đoàn nhỏ sẽ ảnh hưởng tới ông như thế nào.
    Người biết cao vọng, mục đích và ước mơ của Mát-thêu...
    Khi có một thầy ký lục đầy kiến thức tôn giáo đến xin theo thì Chúa Giê-su tỏ ra ngăn cản: "Con chồn có hang, con chim có tổ, nhưng Con Loài Người không có chỗ gối đầu." ( Mt 8,20 ) Thế mà, đối với Mát-thêu, không có mảy may dấu hiệu từ khước. Ngược lại, Chúa Giê-su thật tích cực kêu gọi: "Hãy theo Thầy !"
    Cái dĩ vãng bê bối của Mát-thêu không quan trọng gì đối với Chúa. Điều Người chú ý, chính là khả năng phát triển tương lai:
    Mát-thêu thông minh, sáng suốt, ngăn nắp.
    Mát-thêu có một mục đích để tiến lên, và,
    Mát-thêu đã đạt được mục đích.
    Mát-thêu thấy đời mình trống rỗng khi chạy theo bạc tiền...
    Mát-thêu muốn tiến lên...
    Dưới khía cạnh con người,
    chọn Mát-thêu là một hành động dại dột,
    Dưới khía cạnh Thiên Chúa,
    chọn Mát-thêu là một hành động tuyệt vời.
    Bằng cớ đâu ?
    Bằng cớ chính là Phúc Âm theo thánh Mát-thêu.
    Cuốn sách được xếp đứng đầu tiên trong bộ Tân Ước là tác phẩm của Mát-thêu, dưới ngòi bút điêu luyện của ông, một ngòi bút sẵn sàng phục vụ...
    Kể từ ngày được gọi, bất cứ lúc nào Chúa rao giảng, Chúa dạy dỗ, đều có Mát-thêu bên cạnh.
    Ngòi bút xưa kia chỉ để cộng những con số chết, nay chỉ ghi chép những Lời Hằng Sống. Đầu óc mạch lạc của ông được dùng để chuyển đạt lại cho hậu thế những của ăn tâm hồn.
    Chúng ta cũng nên để ý điểm này: suốt cuốn Phúc Âm ông viết, ông không bao giờ nhắc đến mình cả. Ông nhắc đến Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, nhưng không hề nói về mình...
    Khiêm nhường là dấu hiệu của một cuộc trở lại chân chính. Chỉ có một dịp nhỏ có liên quan đến ông nhưng ông lại khiêm nhường không ghi tên mình... Khi so sánh với Lu-ca và Mác-cô, chúng ta mới biết tên thật của ông là Lê-vi. Trong Phúc Âm của ông, ông là “Mát-thêu, người-thu-thuế".
    Sau giây phút gặp gỡ, ông mời Chúa Giê-su về nhà dùng bữa. Những người mang danh đạo đức đã chỉ trích Chúa Giê-su. Và Người đã trả lời họ: "Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi những kẻ tội lỗi..." Và có lẽ Mát-thêu đã vui mừng hiểu rằng Chúa muốn nói đến chính ông: "Con Loài Người có quyền tha tội... Ta đến để cứu vớt kẻ có tội..."
    Mát-thêu đã được cứu vớt,
    cứu vớt khỏi tội lỗi,
    cứu vớt khỏi cuộc đời trống rỗng của ông,
    cứu vớt khỏi cuộc đời chạy theo bạc tiền,
    cứu vớt khỏi cái triết lý "có tiền mua tiên" của ông,
    cứu vớt khỏi cuộc đời vô vị ông đã chọn và đã chán ngán...
    Ông đã tìm được viên ngọc,
    Ông đã cảm nghiệm được ân sủng và tình yêu tràn ngập đời ông...
    Còn chúng ta ?
    Chúng ta có cần được cứu vớt chăng ?
    cứu vớt khỏi đời sống tội lỗi,
    cứu vớt khỏi đời sống vị kỷ,
    cứu vớt khỏi một triết lý nghèo nàn và khô cằn,
    cứu vớt khỏi một cuộc sống trống rỗng, vô nghĩa, không mục đích.
    cứu vớt khỏi một cuộc đời thiếu vắng Thiên Chúa ?
    Nếu Chúa Giê-su đã muốn gọi một người bết bát như Mát-thêu,
    thì các bạn và tôi, chúng ta có quyền hy vọng...
    Nếu Chúa đã mở cửa cho một người như Mát-thêu,
    thì Chúa cũng mở cửa cho mọi người...
    Mà quả thật, Người đã đến để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn...
    Mát-thêu đã nói lên điều đó với tất cả tâm can mình: "Con Loài Người có quyền tha tội dưới đất..." Và Mát-thêu biết điều đó là sự thật.
    Ông đã có kinh nghiệm,
    Ông đã được cứu vớt,
    Ông biết rằng mỗi một người chúng ta
    cũng có thể có được kinh nghiệm đó.
    Và khi ông chép lại Phúc Âm,
    Hẳn ông rất muốn viết bằng mực đỏ đoạn văn sau đây:
    "Nếu một người có 100 con chiên, mà một con bị lạc, há người ấy không bỏ 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc kia sao ? Mà nếu tìm được, thì quả thật, Thầy bảo anh em: Người ấy mừng rỡ vì nó hơn là 99 con không bị lạc... Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên Trời không hề có ý để mặc một người nào đó trong những kẻ nhỏ nhất này phải hư đi..." ( Mt 18, 12 – 24 )
    Vâng, không một người nào,
    Dù cho người ấy là Mát-thêu đi nữa,
    Dù cho người ấy là bạn hay là tôi đi nữa...
    Giáo Hội tiên khởi cho chúng ta biết rằng: sau khi Chúa Giê-su sống lại, thánh Mát-thêu đã rao giảng cho dân Do-thái. Chúng ta có thể tin được điều này.
    Dù lịch sử ít cho chúng ta dữ kiện, nhưng Phúc Âm theo thánh Mát-thêu cũng đủ cho chúng ta thấy rõ như vậy.
    Thánh Mát-thêu giới thiệu Chúa Giê-su như Đấng Thiên sai: Đấng Mê-si-a, Đấng được hứa đến để cứu thoát dân Do-thái. Người là con của Áp-ra-ham, con của Đa-vít, Con-Loài-Người, Đấng đã nghiệm đúng lời các Ngôn Sứ trong Cựu Ước. Ông trích dẫn Cựu Ước thường xuyên, từ Mô-sê đến các Ngôn Sứ. Ta có thể đếm được 51 lần trích dẫn trong 28 chương của ông.
    Đức Giê-su là Vua dân Do-thái...
    Ba Vua phương Đông đến thờ lạy Người...
    Phi-la-tô xác nhận vương quyền cúa Người:
    "Đây là Giê-su Vua dân Do-thái."
    Đối với Mát-thêu, Đức Giê-su là Đấng Thiên sai đến để cứu dân Do-thái, đến để kêu gọi mọi người ăn năn vì Nước Trời đã gần.
    Theo truyền thống, Mát-thêu chọn dân tộc mình làm cánh đồng truyền giáo và, với nhiệt tình của một người hối cải, ông trình bày Đấng Mê-si-a như Đấng đến để cứu vớt kẻ tội lỗi thấp hèn...
    Mát-thêu đã chịu tử đạo ở Ê-thi-ô-pi-a, một vùng đất châu Phi

  8. #6
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    GIO-AN, VỊ TÔNG ĐỒ CỦA TÌNH YÊU
    ( Mt 13, 34 )

    Nếu bạn muốn có một căn bản tín lý và thần học,
    hãy đọc các thư của thánh Phao-lô.
    Nếu bạn muốn tiến lên trên con đường tu đức,
    hãy đọc thư của thánh Gia-cô-bê...
    Nhưng nếu bạn muốn hiểu,
    muốn biết,
    muốn cảm nghiệm về tình yêu,
    cốt tủy của Ki-tô giáo,
    Bạn không thể nào không đọc tác phẩm của thánh Gio-an...
    Trong số 12 Tông Đồ, hình như có một nhóm nòng cốt:
    Gia-cô-bê, Phê-rô và Gio-an...
    Và trong số ba người này, người gần Chúa nhất là Gio-an,
    người môn đệ yêu dấu của Chúa...
    Từ sự liên lạc mật thiết này đã thể hiện:
    một cuộc đời muôn sắc,
    một tâm hồn nhạy cảm,
    một môn đệ của tình yêu...
    Dĩ nhiên, một vấn đề được đặt ra là:
    Chẳng phải Chúa Giê-su yêu thương tất cả các môn đệ sao ? Đương nhiên là phải. Chẳng phải Người yêu thương thế gian sao ? "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình..." ( Ga 3, 16 ). Đương nhiên là phải.
    Thế thì tại sao chỉ nói đến Gio-an ?
    Tại sao lại gọi ông là “môn đệ Chúa yêu” ? ( Ga 13, 23 ).
    Nhưng thật sự, tình yêu của Chúa đối với tất cả mọi người không hề mâu thuẫn với việc Chúa đặc biệt yêu thương một số người... Như trường hợp Chúa Giê-su khóc trước mộ La-da-rô; Chúa Giê-su gửi gắm mẹ mình cho Gio-an khi Người hấp hối trên thập giá...
    Con đường của Gio-an đã đi, quả là dài vời vợi.
    Ông không được sinh ra với một trái tim nóng cháy tình yêu. Và khi Chúa gọi thì tim ông cũng chưa bừng cháy ngọn lửa yêu thương. Có những người có khả năng yêu thương dễ dàng hơn kẻ khác, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng: yêu thương kẻ khác là một điều phải được vun xới mới tăng trưởng.
    Yêu thương những kẻ không dễ thương,
    Trì chí yêu thương,
    Yêu thương vô vị lợi,
    Yêu thương với bất cứ giá nào và sẵn sàng trả giá,
    Đấy phải là ân sủng của Thiên Chúa...
    Gio-an có một tâm hồn tế nhị, nhạy cảm
    nhưng ông cũng hay nổi những trận lôi đình,
    Gio-an đã chiến thắng nóng nảy của mình
    và lớn lên trong tình yêu và thông cảm...
    Điều này là một điều chắc chắn !
    Con đường ông đã đi, quả là dài vời vợi...
    Theo sử liệu, ông là một người ngư phủ. Cha ông cũng làm nghề chài lưới và ông đã lớn lên trong ngành ngư nghiệp. Gia đình ông bà cụ khá giả nhưng Gio-an không bao giờ cảm thấy hài lòng với cuộc sống của mình. Thế nên khi ông nghe có một tiên tri từ sa mạc đến và rửa tội cho dân chúng quanh vùng sông Gio-đan, ông xin phép cha đến nghe giảng. Ông và An-rê, vốn là một người bạn và cũng là đồng nghiệp, đã đến nghe Gio-an Tẩy Giả rao giảng.
    Đoạn Phúc Âm Ga 1, 35 – 40 đề cập đến hai người nhưng chỉ nêu tên có một người là An-rê. Vậy mà các dữ kiện nêu ra lại rõ ràng đến độ chỉ có người trong cuộc mới biết chính xác như thế. Và các nhà học giả Thánh Kinh kết luận người thứ hai đi với An-rê chính là Gio-an, tác giả Phúc Âm chứ không thể là ai khác.
    Đối với người thanh niên này, cảnh tượng người người lũ lượt xuống sông chịu phép rửa, ăn năn hối cải là một cảnh tượng lạ lùng. Gio-an thấy mình bị đánh động khi nghe Gio-an Tẩy Giả giảng như thế này:
    "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người... Đây là Chiên của Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian..." ( Ga 1, 26 – 29 ).
    Và Gio-an quay về hướng vị ngôn sứ đang chỉ tay, ông đã ngạc nhiên đến thẫn thờ: Đấng được nói đến chính là người bà con với ông. Giê-su là con bà Ma-ri-a, dì của ông. Giê-su người thợ mộc, người bà con họ hàng của ông ở Na-da-rét. Giê-su ấy mà lại là Chiên của Thiên Chúa ư ? Gio-an thấy đầu óc mình bị đảo lộn. Ngày hôm sau, ông quyết định đến gặp Đức Giê-su để đối chiếu tỏ tường...
    Chúng ta cho rằng Gio-an tin vào Đức Giê-su là một chuyện dễ dàng ? Đó không phải là một vấn đề sao ? Gio-an đã biết Đức Giê-su như một người bà con. Có thể có lần hai gia đình đã gặp nhau và hai cậu bé chơi đùa với nhau...
    Chiên Thiên Chúa ?
    Một người anh em họ mình mà là Chiên Thiên Chúa sao ?
    Đâu thể dễ tin một điều như thế...
    Nhưng, từ giây phút đầu tiên, cộng với buổi nói chuyện cùng Đức Giê-su, cho đến cuối đời ông, Gio-an đã tin. Ông nhấn mạnh về Đức Tin. Đấy là chữ chủ yếu của Phúc Âm do ông viết.
    98 lần trong 21 chương, Gio-an lập đi lập lại: Tin – Tin – Tin...
    Chính ông, ông đã sống Đức Tin: "Người ấy biết mình đã nói thật hầu cả anh em nữa, cũng tin như vậy." ( Ga 19, 35 ).
    Chúa Giê-su yêu thương mọi người,
    Nhưng đặc biệt Người yêu thương những kẻ tin Người.
    Nếu muốn được cảm nhận tình yêu thương của Thiên Chúa,
    Hãy tin vào Con của Người, Đức Giê-su...
    Thế là Gio-an đã khởi hành bằng Đức Tin để lớn lên trong Đức Ái. Trong Phúc Âm của Gio-an, không bao giờ ông nhắc đến tên mình cả. Lần nào cũng như lần nào, Gio-an chỉ nói "môn đệ Chúa yêu" ( Ga 13, 23; 19, 26; 21, 7 ).
    Trong bữa Tiệc Ly, Gio-an ngồi gần Chúa, ông đã ghi lại điều răn mới của Người: "Này đây Thầy ban cho anh em một điều răn mới: là anh em hãy thương yêu nhau." ( Ga 13, 34 ).
    Đấy là điểm chính yếu vì: "Anh em hãy thương yêu nhau... qua dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau..." ( Ga 13, 45 ).
    Con đường của Gio-an đã đi, quả là dài vời vợi...
    Lúc còn trẻ, thay vì yêu thương, ông đã thả lỏng nhiệt tâm đến mức độ gây chia rẽ. Câu chuyện như thế này:
    Một ngày kia, trong lúc ông đi rao giảng, ông đã thấy một điều làm ông bực mình. Ông trở về trình lại với Chúa Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con thấy một người nhân danh Thầy mà trừ quỷ nhưng hắn lại thuộc nhóm chúng ta, và chúng con đã ngăn cản vì hắn không theo chúng ta." ( Mc 9, 38 ).
    Gio-an vẫn còn ở xa tít trên con đường đi, mãi cho đến ngày mà ông đã nhắn nhủ theo lời Đức Giê-su: "Hãy yêu thương nhau"...
    Con đường của Gio-an đi, quả là còn dài vời vợi...
    Này, hỡi người bạn mang tên Gio-an,
    Chúng tôi cũng mang đầu óc chia rẽ bè phái như bạn:
    Chỉ có chúng tôi mới có quyền đuổi quỷ,
    Chỉ có chúng tôi mới là môn đệ đích thực.
    Chỉ có chúng tôi, vâng, chính chúng tôi,
    chứ không phải
    những người Dòng Tên, Dòng Phan-xi-cô,
    những người Dòng Vinh-sơn, Dòng Đa-minh,
    những người Dòng Chúa Cứu Thế...
    Chỉ có chúng tôi, chứ không phải
    những người hội đoàn Lê-giô, Thanh Sinh Công,
    những người Hùng Tâm Dũng Chí,
    những người hội con cái Đức Mẹ,
    những người trong Cursillos, Fô-cô-la-rê...
    Chỉ có chúng tôi,
    chứ không phải những người Phật Giáo, Tin Lành,
    những người Cao Đài, Hồi Giáo...
    Họ không theo chúng tôi ?
    Thế thì chúng tôi ngăn cản họ !...
    Nhưng Thiên Chúa đâu có giới hạn,
    Thánh Linh Chúa thổi khắp nơi nơi...
    Xin đừng trói chặt Chúa vào Nhóm nhỏ bé của chúng tôi,
    Xin đừng nhốt Chúa vào quan niệm hẹp hòi của chúng tôi...
    Chúa Giê-su đã không chấp nhận tinh thần bè phái,
    Không chấp nhận tinh thần chia rẽ, độc quyền.
    Người nói: "Không có ai nhân danh Thầy làm phép lạ rồi lại có thể nói xấu Thầy, đừng ngăn cản người ấy..."
    Và Gio-an đủ khiêm nhường để hối cải,
    Để rồi từ đó, ông nhắc đi nhắc lại:
    "Anh em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau,
    Vì tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa,
    Và ai yêu thương thì sinh ra bởi Thiên Chúa
    Và biết được Thiên Chúa..." ( 1 Ga 4, 7 )
    Xin đừng nghĩ rằng Gio-an là một cọng bún, một kẻ yếu mềm,
    Gio-an có một tâm hồn tế nhị, nhạy cảm,
    Đúng thế !
    Nhưng trong ông là lửa cháy,
    là dũng cảm,
    là cuồng phong bão táp...
    Gio-an và Gia-cô-bê, anh của ông, đã được Đức Giê-su gán cho một biệu hiệu: "Những đứa con của sấm sét" ( Mc 3, 7 )
    Nói đến vị Tông Đồ của Tình yêu,
    Có thể gợi lên một cảm tưởng về sự yếu hèn ?
    Thế thì chúng ta hãy nhớ lại xem:
    Theo như chúng ta biết,
    Dưới chân thập giá, không có một môn đệ nào... ngoài Gio-an.
    Đức Giê-su thấy thế nào trong giờ phút cô đơn và bị bỏ rơi ấy,
    khi Người nhìn xuống những khuôn mặt bao quanh Thập Giá ?
    những khuôn mặt căm thù, nhạo báng,
    những khuôn mặt bàng quan,
    những khuôn mặt tò mò....
    rồi đến gương mặt đầy chân tình, thông cảm của Gio-an ?
    Có phải chăng không cần can đảm dể đứng dó,
    tận hiến vì yêu thương ?
    Đó mới thật là Tình Yêu,
    Đó mới là Tình Yêu can đảm...
    Vì thế, trong cơn hấp hối, Chúa Giê-su phó thác Mẹ cho Gio-an: “Này là con Bà... Này là Mẹ anh...” ( Ga 19, 26 – 27 )
    Từ lúc đó, Gio-an đưa Mẹ Đức Giê-su về nhà mình. Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào người môn đệ được yêu thương đặc biệt trong số mười hai Tông Đồ.
    Sau khi Chúa sống lại, những Tông Đồ rao giảng ở Giê-ru-sa-lem bị ngăn cản và cầm tù. Phê-rô và Gio-an đã đối đáp với những người chủ trương bách hại: "Trước mặt Thiên Chúa, điều ngay chính phải chăng là nghe lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa ? Xin các ông xét đi... Phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói những điều đã thấy và đã nghe..." ( Cv 4, 19 – 20 )
    Các Tông Đồ đã bị ngược đãi, hành hạ, nhưng họ vẫn tiếp tục làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh với một mãnh lực phi thường. Vâng, Gio-an có một tâm hồn nhạy cảm, tế nhị và đầy yêu thương nhưng không phải là một tâm hồn mềm yếu. Tâm hồn ông cứng rắn, dũng mạnh, can đảm và quả quyết. Đấy là đặc tính của một tâm hồn yêu thương.
    Có một giai thoại về thánh Gio-an mà ta có thể tin được: Khi về già, ông không còn đi nổi, người ta đưa ông từ nhà đến Nhà Thờ. Ông được mời để rao giảng trên đường đi. Và lần nào cũng như lần nào, ông chỉ nói: "Các con hãy yêu thương nhau".
    Chỉ thế thôi không thêm gì khác... Có lần, có người dám trình ông và xin ông nói thêm một điều gì khác, ông trả lời: "Đấy là luật duy nhất của Thầy chúng ta. Nếu các con chu toàn điều luật đó, các con không cần làm thêm điều gì nữa..."
    Bí quyết của Tình Yêu là gì ?
    Làm thế nào để một người có thể tăng trưởng trong yêu thương ?
    Làm sao để trở thành một môn đệ Chúa yêu ?
    Phải chăng là tin tưởng nơi Người ?
    Phải chăng là khiêm nhường hối cải ?
    Phải chăng là can đảm theo Người và làm chứng cho Người ?
    Vâng, tất cả đều đúng.
    Nhưng vẫn có một bí quyết
    để sống một cuộc đời giống Chúa Ki-tô,
    vẫn có một con đường để thăng tiến trong Tình Yêu...
    Bí quyết để tăng trưởng trong Tình Yêu,
    để trở nên một người có khả năng yêu thương,
    Bí quyết ấy không tìm qua tri thức mà là qua con tim.
    Điều này không có nghĩa là coi thường tri thức...
    Gio-an có một khả năng lãnh hội chân lý siêu nhiên một cách lạ lùng.
    Ông có một trí năng rạng rỡ,
    Ông đã trao lại cho chúng ta Mầu Nhiệm Nhập Thể.
    Ông hiểu được ý nghĩa công cuộc giáng thế của Con Thiên Chúa...
    Dù sao thì cũng chính Gio-an đã viết đoạn văn tuyệt vời: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa... Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta..." ( Ga 1, 1 .14 )
    Gio-an hiểu Đức Giê-su hơn bất cứ môn đệ nào:
    Ông có khả năng đó, ông đã cảm nhận sâu xa,
    Ông hiểu phải làm thế nào gần gũi Thầy mình,
    Ông biết được bí quyết !
    Ông nói: "Nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng như chính Người ở trong Ánh Sáng... Ai bảo rằng mình ở trong Người, thì phải bước đi như chính Người đã bước đi." ( 1 Ga 1, 7 )
    Mà con đường của Người đi là con đường yêu thương: "Như Thầy đã yêu anh em, thì anh em hãy yêu thương nhau..." ( Ga 13, 34 )
    Nhưng, làm sao có thể yêu thương,
    nếu không đắm mình trong nguồn mạch yêu thương ?
    Làm sao có thể lớn lên trong Tình Yêu
    nếu không uống lấy Nước Hằng Sống
    mà Chúa Giê-su đổ tràn vào linh hồn mình ?
    Bí quyết để tăng trưởng tình yêu
    Không tìm được qua học hỏi mà là qua kinh nghiệm.
    Điều này không có nghĩa là coi thường học hỏi,
    Dù cho Gio-an không phải là người có học thức cao.
    Đấy cũng là một điều lạ: vì Gio-an viết về Ngôi Lời Nhập Thể mà lại chưa bao giờ được đào tạo trong các trường Kinh Thánh Do-thái. Các đầu mục, niên trưởng và ký lục xác nhận rằng: Gio-an ngu dốt và thất học ! ( Cv 4,13 )
    Nhưng muốn tăng trưởng trong yêu thương, dù là cần đến học hỏi vẫn phải qua con đường kinh nghiệm. Nghĩa là cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa.
    Chính điều này đã nâng ông lên cao hơn các Tông Đồ khác.
    Chính sự chiêm niệm về chân lý,
    chiêm niệm về Thiên Chúa,
    chiêm niệm về Đức Ki-tô,
    Chính kinh nghiệm hầu như cụ thể về sự hiện diện của Người,
    Chính bước đi trong ánh sáng , như Người ở trong Ánh Sáng,
    Đấy là con đường thăng tiến trong Tình Yêu.
    Vì sao chúng ta kém Đức Tin ?
    Vì sao chúng ta quá yếu đuối ?
    Vì sao chúng ta ít gắn liền với chân lý ?
    Vì sao chúng ta tăng trưởng chậm chạp trong Tình Yêu ?
    Chúng ta đọc Tân Ước
    nhưng không suy tư, nghiền ngẫm hết lòng.
    Chúng ta bảo rằng chúng ta cầu nguyện,
    nhưng được bao nhiêu lần thực sự cầu nguyện ?
    Chúng ta rước Chúa vào lòng,
    nhưng được bao nhiêu lần để Chứa ngự trị trong tâm hồn,
    và bao nhiêu lần đẩy Chúa vào một xó xỉnh tâm tư
    rồi ta quên đâu mất ?
    Ta hãy suy gẫm chân thành về Chúa Giê-su,
    về thập giá của Ngưới,
    suy gẫm chân thành về Nước Trời mà Người rao giảng,
    suy gẫm chân thành về mục đích Người loan truyền...
    Rồi ta sẽ thấy tất cả trở nên thực tế hơn...
    Gio-an không thể trông cậy vào vốn liếng học hỏi của mình,
    nhưng ông đã có một kinh nghiệm quý giá.
    Gio-an không thể trông cậy vào trí năng rạng rỡ của mình,
    nhưng ông đã có một trái tim nóng bỏng...
    “Điều đã có từ thủơ ban đầu,
    Điều chúng tôi đã từng nghe,
    Điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt,
    Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
    Điều chúng tôi đã sờ đến tận tay,
    Về Ngôi Lời của Sự Sống.
    và Sự Sống đã tỏ hiện,
    chúng tôi đã thấy và, chúng tôi làm chứng
    cùng loan báo cho anh em Sự Sống đời đời...
    Điều chúng tôi đã từng thấy và đã từng nghe
    Thì chúng tôi loan báo cho anh em,
    Ngõ hầu anh em được thông hiệp với chúng tôi,
    Sự thông hiệp mà chúng ta có được
    Với Đức Chúa Cha và Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô”.
    ( 1 Ga 1, 1 – 3 )
    Một câu nói như thế không còn là một câu nói nữa,
    Mà là máu,
    là xương ,
    là linh hồn,
    là tiếng thét của một kinh nghiệm sống
    không có gì bịt miệng nổi...
    Và, không phải không có lý do mà
    biểu tượng của thánh Gio-an là Chim Phượng Hoàng...
    Bay cao bằng đôi cánh, lên cao, lên cao mãi,
    Sống thật gần với Thiên Đàng:
    Đấy chính là Gio-an...
    Và Gio-an, người môn đệ của Tình Yêu,
    đã đi qua con đường vạn dặm....
    Từ đanh đá đến điềm đạm
    Từ giận dữ đến dịu dàng
    Từ chia rẽ đến chia sẻ Tình Yêu...
    Và đó là con đường mà bạn và tôi phải đi qua,
    Nếu chúng ta muốn tiến gần đến Thầy Chí Thánh..
    Phê-rô và Gio-an là bạn thân với nhau,
    Họ cùng khám phá ra ngôi mồ đã trống;
    Họ cùng đi đến đền thờ sau Lễ Hiện Xuống;
    Họ cùng chữa một người bị bại;
    Họ cùng bị đưa ra công nghị và cùng bị tống ngục,
    Họ đi đến Sa-ma-ri-a để chấn hưng Hội Thánh.
    Tại Giê-ru-sa-lem, họ được coi là cột trụ của Giáo Hội tiên khởi. Rời Giê-ru-sa-lem, Gio-an đã đi rao giảng ở vùng Tiểu Á. Những năm cuối đời, ông sống ở Ê-phê-xô. Trong thời gian này, ông viết Phúc Âm cùng với ba lá thư...
    Ba môn đệ của Gio-an trở thành ba nhà lãnh đạo nổi danh của Giáo Hội tiên khởi là Pô-li-các-pô, Pa-pi-át và I-nha-xi-ô.
    Sau đó, hoàng đế Rô-ma là Đô-mi-ti-a-nô ( Domitiano ) đày Gio-an ra đảo Pát-mốt, ở đó, ông được linh ứng để viết sách Khải Huyền ( Kh 1, 9 ). Ông được trả tự do dưới thời hoàng đế Néc-va ( Nerva ) và trở về Ê-phê-xô.
    Gio-an đã chết tự nhiên trong tuổi già. Ông là Tông Đồ chết sau cùng trong số 12 Tông Đồ Chúa chọn...

  9. #7
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    SI-MÔN, VỊ TÔNG ĐỒ NHIỆT THÀNH
    ( Mt 10, 4 )

    Những văn sĩ ngày nay khi viết về thời vàng son của mình thường nhắc nhở đến nhóm thân hữu với một niềm rung cảm, khiến cho ta biết từng người bạn một, biết tên tuổi, tính tình và sự liên kết của họ với nhau.
    Những tác giả của Phúc Âm không làm như thế, và một đôi khi có thể quên hẳn một số Tông Đồ bạn. Đó là trường hợp Si-môn, số 11 trong danh sách. Trong danh sách này có hai ông Si-môn. Người đầu tiên là Si-môn Phê-rô, làm nghề chài lưới, người được Chúa đặt làm nền tảng Giáo Hội, mọi người đều biết rõ.Người thứ nhì mang số 11, trước có Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, ông được gọi là Si-môn người Ca-na-an.
    Si-môn Phê-rô càng nổi danh bao nhiêu thì Si-môn người Ca-na-an càng lu mờ bấy nhiêu. Dù sao ta cũng cố gắng tìm ra một vài điểm về ông Si-môn này.
    Si-môn Ca-na-an có thể là người xuất thân từ vùng Ca-na-an, nhưng Mát-thêu không cho ta biết rõ gì thêm. Ta thử tìm trong Phúc Âm của Mác-cô và Lu-ca xem sao.
    Mác-cô gọi ông là Si-môn Nhiệt Thành ( Le Zélé ), còn Lu-ca gọi ông là Si-môn thuộc Nhóm Quá Khích ( Si-môn le Zélote ). Điều này có thể là vì Si-môn thuộc Nhóm Dê-lốt ( Zélote ), một đảng phái chính trị. Họ là những người ái quốc cuồng nhiệt, họ là một nhóm người Do-thái tin tưởng ở sự độc lập của Ít-ra-en và không hợp tác với Rô-ma. Phái này xuất hiện chừng 20 năm trước khi Chúa Giê-su bắt đầu rao giảng và tíếp tục phát triển sau khi Chúa Giê-su chịu chết. Họ ảnh hưởng đến độ có sử gia đã cho rằng họ dính líu trong vụ Rô-ma cho tàn phá Giê-ru-sa-lem. Họ đã làm cho Giê-ru-sa-lem chống lại Rô-ma khoảng 40 năm sau khi Chúa sống lại.
    Si-môn là một đảng viên của đảng này. Ông là một đảng viên chính trị trước khi trở nên Tông Đồ của Chúa. Trước đó, ông thuộc về nhóm người chiến đấu cho tự do độc lập, những người ái quốc sẵn sàng hy sinh cho Ít-ra-en.
    Thế giới chúng ta hiện nghe nói nhiều đến những người ấy. Không kể những nước đã được những người ấy giải phóng, còn phải kể đến bao nhiêu nước của thế giới thứ ba có mặt trận giải phóng dân tộc, ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Họ là những người “Do-thái" nhiệt thành vì “Do-thái", chỉ muốn có một điều duy nhất là có được Độc Lập và Tự Do trên đất nước của họ.
    Đó là điều duy nhất chúng ta biết về Si-môn. Phúc Âm chỉ cho chúng ta biết có thế. Tuy nhiên, ta vẫn cố tìm lại nhân vật Si-môn cùng với cá tính của ông.
    Si-môn chọn theo Chúa Giê-su vì sao ?
    Ông biết Chúa trong trường hợp nào ? Ta không được biết...
    Nhưng vì sao ông lại theo Chúa Giê-su ?
    Có thể là nhóm Dê-lốt ( Zélote ) cần một nhà lãnh đạo
    Và Đức Giê-su sẽ là một lãnh tụ sáng suốt...
    Có thể Si-môn đã nghe Chúa Giê-su rao giảng, thấy Người làm phép lạ đến nỗi mọi người tin rằng Giê-su là Đấng Thiên Sai. Mà Đấng Thiên Sai là Đấng đến giải phóng dân Ít-ra-en, Đấng Mê-si-a sẽ đem độc lập đến cho dân tộc Do-thái...
    Si-môn không phải là người duy nhất nghĩ như thế,
    Dân chúng cũng đã hơn một lần chọn Đức Giê-su làm Vua.
    Ngày Người tiến vào Giê-ru-sa-lem,
    họ đã đón Người như một vị anh hùng.
    họ chờ đợi một cuộc cách mạng đánh đuổi đế quốc Rô-ma...
    Ngay các Tông Đồ khác cũng chờ đợi điều ấy.
    Mãi sau này, sau khi Chúa sống lại, các Tông Đồ còn hỏi Người: "Lạy Chúa, có phải chăng bây giờ là lúc Ngài khôi phục lại vương quyền cho Ít-ra-en ?" ( Cv 1, 6 )
    Như vậy, Si-môn chọn Chúa với một niềm hy vọng,
    chọn Chúa với một chiến thắng quân sự
    và sự giành lại độc lập cho Ít-ra-en.
    Nhưng nếu Si-môn chọn Chúa Giê-su là một điều dễ hiểu,
    Thì, Chúa Giê-su chọn Si-môn quả là một điều lạ lùng !
    Chúa Giê-su có thể chọn 12 người giữa bao kẻ đi theo Người,
    Vì sao Chúa lại chọn Si-môn Nhiệt Thành ?
    Vì sao Chúa lại chọn người yêu nước cuồng nhiệt này ?
    Vì sao Chúa lại chọn một người chỉ biết quyết thắng quân xâm lăng ?
    Mục đích của Chúa và của Si-môn khác biệt làm sao !
    Si-môn mong một cuộc Cách mạng đánh đuổi Rô-ma,
    Giê-su lại dạy: "Hãy trả cho Xê-da những gì của Xê-da" ( Mt 22, 21 )
    mà không hề nói đến sự kháng cự...
    Si-môn chỉ nghĩ đến một điều:
    đó là sức mạnh của gươm giáo, của súng đạn, của vũ khí,
    Còn Đức Giê-su thì nói với các Tông Đồ:
    "Ai dùng gươm thì sẽ bị hại vì gươm" ( Mt 26, 52 )
    Mục đích của hai người khác hẳn nhau.
    Vậy, tại sao Chúa lại chọn Si-môn ?
    Vả lại, chọn một đảng viên Dê-lốt là một việc liều lĩnh,
    Dù cho Si-môn có rời đảng thì chọn ông vẫn là một điều liều lĩnh,
    Vì người ta vẫn có thể nghi ngờ Đức Giê-su mà cật vấn: "Này, trong số thân hữu của ông có một người đảng Dê-lốt có ý định đánh đuổi người Rô-ma đấy phải không ?"
    Vâng, chọn Si-môn là một việc đánh liều,
    Và đương nhiên, chọn mỗi một chúng ta,
    đối với Đức Giê-su, cũng là một hành động liều lĩnh.
    Ta thử tìm một nguyên do...
    Sau đây là một nguyên do:
    Đức Giê-su muốn có nhiều sắc thái trong cộng đoàn của Người. Không phải người nào trong nhóm cũng là một người có thế giá, một người có học, có địa vị, có tài năng... Người đã chọn 12 Tông Đồ với những đặc thù khác nhau.
    Ta thử so sánh Si-môn với Mát-thêu:
    Si-môn, đảng viên Dê-lốt, chủ trương đánh đuổi ách đô hộ Rô-ma,
    Mát-thêu, người thu thuế, thoải mái trong việc hợp tác với Rô-ma.
    Si-môn, người ái quốc,
    Mát-thêu, dưới mắt mọi người, là kẻ phản quốc.
    Bạn có thể tưởng tượng đuợc việc tồn tại đồng thời hai thái cực này trong cùng một nhóm không ? Nhưng, đó là Giáo Hội: Giáo Hội chứa đầy những khác biệt, những chi thể dối nghịch như tay mặt với tay trái.
    Nhưng, còn một lý do khác, và đây là lý do chính:
    Si-môn Dê-lốt cũng có nghĩa là Si-môn Nhiệt Thành.
    Vâng, Si-môn là một người hăng say nóng bỏng,
    một người đam mê theo đuổi mục đích dù có phải hy sinh đi nữa.
    Đức Giê-su muốn ông cộng tác cho Nước Trời,
    Đức Giê-su muốn sự nhiệt thành này dấy lên trong các Tông Đồ.
    Nếu như hăng say nhiệt thành được đặt đúng hướng,
    Si-môn sẽ trở thành một người chiến đấu cho tự do mãnh liệt.
    Và Chúa quyết định chọn Si-môn: một chiến sĩ bất khuất...
    Nếu Giáo Hội chúng ta có bị mang tiếng là già cỗi, chẳng qua là vì niềm hăng say của từng tín đồ qua bao nhiêu năm đã vơi cạn. Chính điều đó đã khiến cho Gio-an đã viết cho một cộng đoàn đầu tiên: "Ta trách ngươi điều này: là ngươi đã bỏ mất lòng mến thuở ban đầu" ( Kh 2, 4 )
    Và, thế là Si-môn theo Đức Giê-su để, ngày lại qua ngày, con người của ông đổi mới dần dần. Cao vọng chiến tranh của ông trở thành cao vọng hòa bình, mục đích của Thầy trở thành mục đích ông nhắm tới.
    Ông đã nghe Thầy nói: "Thầy đến không phải để đem an bình mà để đem gươm giáo." ( Mt 10, 34 ). Quả thật, nếu như có một câu Lời Chúa nào làm Si-môn phấn khởi thì chính là câu này. Lý do vì đấy chính là châm ngôn của đảng Dê-lốt: "Không phải bình an mà là gươm giáo"...
    Nhưng rồi, càng theo Chúa,
    Si-môn càng hiểu ý nghĩa lời Người .
    Phúc Âm không thể đến trong an bình.
    Thế gian là bóng tối mà Đức Ki-tô là ánh sáng.
    Ánh sáng và bóng tối luôn mâu thuẫn nhau,
    đó quả là gươm giáo...
    Lời Chúa là gươm giáo vì gây ra sự chia rẽ: "Ta đến để đem chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng và kẻ thù của người ta là những người nhà của mình..." ( Mt 10, 35 – 36 )
    Chính Si-môn có lẽ cũng đã có kinh nghiệm này.
    Nhất là, nếu cha của ông là một người ủng hộ kháng chiến,
    Nếu anh em của ông là một người đã đi kháng chiến,
    Nếu họ còn ở trong đảng Dê-lốt,
    mà ông lại bỏ hàng ngũ để theo Giê-su
    thì cả nhà ông sẽ chống lại ông...
    Bạn bè ông tin tưởng ở lưỡi gươm bằng thép,
    còn ông, ông lại tin ở thanh gươm chân lý.
    Si-môn đã đổi mới,
    Si-môn đã cho rằng mình thăng tiến,
    còn những người thân thích lại cho rằng ông sa sút...
    Và Si-môn, người nhiệt thành với đất nước Ít-ra-en,
    giờ đây trở nên nhiệt thành với Nước Trời.
    Si-môn thấy rằng:
    Đức Giê-su không hề có một đường lối chính trị,
    không hề có một chương trình cải cách kinh tế,
    không hề làm một cuộc cách mạng.
    Và lòng nhiệt thành của Si-môn vì thế lại càng thăng tiến.
    Si-môn nhiệt thành cho sự hòa bình của Đức Ki-tô,
    nhiệt thành với Thầy,
    Đấng chăn chiên hy sinh mạng sống cho đàn chiên...
    Chúa Giê-su đã nâng Si-môn lên.
    Trước đây, Si-môn chỉ thấy có đất nước của dân tộc mình,
    Bây giờ, Si-môn được nâng lên để thấy Nước của toàn thế giới.
    Si-môn đã được nâng lên từ tình yêu Tổ quốc,
    tình yêu đồng bào... thành
    tình yêu thương mọi người...
    Đức Giê-su nâng Si-môn lên bằng thập giá của Người
    thập giá mà Người đã chiến thắng thế gian, và,
    thập giá đã hun đốt lòng nhiệt thành của Si-môn,
    đến độ chính ông, ông cũng phải hy sinh mạng sống mình
    cho một quốc gia không biên giới...
    Truyền thuyết cho rằng Si-môn đã chịu chết trên thập giá.
    Si-môn Dê-lốt – Si-môn Nhiệt Thành:
    chỉ có một chữ để mô tả ông,
    một người quả quyết, hăng say, dám nghĩ, dám làm,
    một người nóng bỏng nhất trong các Tông Đồ.
    Chúa Giê-su đã sử dụng một con người như thế,
    Người cũng muốn đánh liều khi chọn chúng ta hôm nay.
    "Ai không vác Thánh Giá mình mà theo Thầy, kẻ ấy không xứng với Thầy..." ( Mt 10, 38 )
    Chắc hẳn Si-môn rất thích câu nói ấy,
    Câu ấy đã thúc giục ông, lay chuyển ông,
    Và ông sẵn sàng phó mạng sống mình cho Đức Ki-tô,
    Phó mạng sống mình một cách vui tươi
    một cách hăng say, một cách nhiệt thành...
    Còn chúng ta thì sao ? Còn bạn và tôi thì sao ?
    Đức Giê-su, Người có thúc giục và lay chuyển đủ
    để chúng ta đi vào hành động
    như một Si-môn Nhiệt Thành hay không ?

  10. #8
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    GIA-CÔ-BÊ, VỊ TÔNG ĐỒ VÔ DANH
    ( Mt 10, 3 )

    Trường hợp Gia-cô-bê hậu là một trường hợp không may. Ta chỉ biết tên ông là Gia-cô-bê, cha là An-phê, mẹ là một trong những người đi theo Chúa Giê-su, còn ông là một Tông Đồ. Chỉ có thế thôi.
    Tên Gia-cô-bê không hề xuất hiện ở nơi nào khác trong Phúc Âm, ngoại trừ ở bản danh sách các Tông Đồ.
    Gia-cô-bê Tiền, anh của Gio-an, thì ta biết được ít nhiều.
    Còn Gia-cô-bê Hậu thì không có gì cả.
    Gia-cô-bê chưa hề hỏi Chúa một câu nào.
    Không có một chữ nào nói về Gia-cô-bê.
    Gia-cô-bê là người lu mờ nhất.
    Gia-cô-bê mất hút trong bóng tối,
    Gia-cô-bê, một Tông Đồ vô danh, không ai biết tới...
    Dù sao ông cũng là một Tông Đồ và ta cũng có nhiều điều để nói. Gia-cô-bê là Thánh Bổn Mạng của những người không ai biết tới, của hàng triệu người vô danh đã đi theo con đường Chúa dạy, đã tin theo Đức Ki-tô.
    Sách Công vụ ghi lại: “...Còn các người bị phân tán thì khi họ đi qua nơi đâu, họ đã rao giảng Tin Mừng ở đó." ( Cv 8, 4 )
    Các người bị phân tán...
    Họ là ai ? Tên gì ?
    Đó là hàng trăm ngàn người đã loan truyền Đức Tin Công giáo,
    Đó là tất cả những người đã đem Tin Mừng đến cho mọi người...
    Tên của họ có được ghi lại chăng ?
    Phao-lô, chúng ta biết,
    Phê-rô, chúng ta biết,
    Nhưng còn những người kia, họ là ai ?
    Những người bị ném cho sư tử ăn,
    Những Ki-tô hữu can trường, sống Đức Tin đến quên cả mạng sống,
    Tên của họ là gì ?
    Qua lịch sử Giáo Hội, ta được biết đến một số người tên tuổi:
    Tê-pha-nô, Âu-tinh, Phan-xi-cô Át-xi-di,
    Phan-xi-cô Xa-vi-ê, Tô-ma A-ki-nô...
    Vâng, trong số hàng chục triệu người đã sống và chết cho Đức Tin, ta chỉ biết vài ngàn tên tuổi: quả là quá ít... Một vị đại tướng được nhắc đến thì sau ông còn cả chục ngàn binh nhì.
    Gia-cô-bê là một “binh nhì” trong “đạo quân” của Thiên Chúa... Nhưng xin nhớ cho một điều: Gia-cô-bê Hậu cũng là một Tông Đồ, và điều này là điều đáng nói...
    Vì sao những người giàu sang, có ảnh hưởng Chúa lại không chọn ?
    Vì sao Ni-cô-đê-mô và viên ký lục giàu có trẻ trung nọ, lại không được thuộc vào nhóm 12 Tông Đồ ?
    Vì sao lại chọn một người vô danh chẳng ai biết đến là Gia-cô-bê ?
    Vì sao nhiều người được gọi mà lại chỉ có ít người được chọn ?
    Dù cho gáng nặng toàn thế giới trì nặng trên đôi vai Đức Giê-su,
    Dù cho Cô-rin-tô, Ê-phê-xô, Cô-lô-xê, cả lục địa, cả địa cầu,
    với những khát vọng không nguôi của họ kêu gào đến Giải Phóng...
    Dù cho những tội lỗi, những khổ đau trong mọi gia đình,
    trong mọi xó xỉnh đều vang dội trong tim Chúa Ki-tô,
    Người vẫn có đủ thì giờ để nói chuyện với từng người.
    Người tiếp xúc với những kẻ thu thuế,
    những bà quả phụ,
    những cô gái điếm...
    Người tìm đến những người bị phong hủi,
    tật nguyền,
    sống bên lề xã hội...
    Người có vẻ như không để ý rằng
    họ là những người tầm thường,
    Nhưng chỉ biết rằng:
    họ là những đứa con không may,
    họ là những đứa con đi lạc của Cha trên Trời.
    Người làm như không chú ý đến khía cạnh lịch sử của sứ vụ Người
    khi Người đến với những người không ra gì,
    khi Người đến với những người câm, người đui mù,
    những người ăn mày dơ bẩn,
    những người vô danh tiểu tốt...
    Nhưng dù sao, đó cũng là
    những người Thiên Chúa yêu thương,
    những người cần được cứu vớt.
    Và, đó là lý do mà Người chọn chúng ta...
    Đó là lý do mà bạn và tôi, những kẻ vô danh
    cũng được sánh bước với Người, làm bạn với Người.
    Gia-cô-bê được Chúa Giê-su chọn, được sánh bước với Người,
    Điều này đáng làm cho chúng ta suy nghĩ:
    "Phúc cho những ai được thấy những điều anh em thấy, vì Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và vua chúa mong muốn thấy những điều anh em thấy mà không được thấy..." ( Lc 10, 23 - 24 )
    Gia-cô-bê thấy Chúa Giê-su chữa bệnh, đuổi quỷ, phục sinh kẻ chết,
    Gia-cô-bê thấy Chúa Giê-su đi trên mặt nước,
    Gia-cô-bê thấy Chúa Giê-su nuôi sống mấy ngàn người,
    Gia-cô-bê thấy Chúa Giê-su đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
    Gia-cô-bê được nghe Người giảng dạy
    Gia-cô-bê được nghe Bài Giảng Trên Núi,
    Gia-cô-bê được nghe những bài dụ ngôn,
    những lời khuyến cáo,
    những câu trấn tỉnh,
    những tiếng khích lệ...
    Gia-cô-bê có mặt trong buổi Tiệc Ly,
    Gia-cô-bê có mặt lúc Thầy bị bắt,
    Gia-cô-bê có mặt tại Giê-ru-sa-lem lúc thầy bị đóng đinh,
    Gia-cô-bê có mặt khi Thầy Phục Sinh,
    Gia-cô-bê có mặt lúc Thầy lên trời...
    Chúng ta thèm muốn địa vị của ông ta ư ?
    Chúng ta không thể sánh bước với Đức Giê-su sao ?
    Sao lại không nhỉ ?
    “Đức Giê-su hôm qua và hôm nay chỉ là một,
    và là một cho đến muôn đời” ( Dt 15, 8 )
    Chúng ta không thấy Người hành động ư ?
    Sao lại không nhỉ ?
    Chúng ta hãy mở mắt nhìn công trình của Người
    vẫn còn đang tiếp tục, từ từ, chầm chậm, nhưng chắc chắn...
    Chúng ta không được nghe những Lời Người rao giảng ư ?
    Sao lại không nhỉ ?
    Chúng ta đang nắm trong tay cuốn Phúc Âm,
    kho tàng của Lời Hằng Sống...
    Chúng ta không có mặt khi Chúa chịu đóng đinh ư ?
    Sao lại không nhỉ ?
    Chúng ta hãy lắng tai để nghe những tiếng búa chát chúa
    đang đóng đinh vào chân tay Người...
    và ngày nào thế gian còn tội lỗi
    thì cơn hấp hối của Chúa vẫn còn kéo dài...
    Chúng ta không nghe tội lỗi đâm thủng vào xương thịt Người sao ?
    Vâng, Gia-cô-bê, vị Tông Đồ vô danh,
    không được gì nhiều hơn bạn đâu.
    Họ đã được chọn để thấy,
    để nghe, để ra đi, để làm chứng.
    Chúa đã gửi họ đi từng hai người một,đến những thành phố và nơi chốn mà Người định đến. Người bảo họ: "Mùa màng nhiều, thợ gặt ít. Vậy anh em hãy xin chủ gặt sai thợ đi gặt đồng lúa của Người.Anh em hãy đi, này, Thầy sai anh em như chiên đi vào đám sói" ( Lc 10, 1 – 3 )
    Mười hai người được sai đi,
    Bảy mươi hai người được sai đi,
    Và bên cạnh những người được nổi danh
    như Phê-rô, Gia-cô-bê Tiền và Gio-an,
    Gia-cô-bê Hậu cũng ra đi rao giảng Nước Trời.
    Ông cũng đem Tin Mừng đến các thành phố, làng mạc, thôn xóm...
    Giáo Hội ngày nay có vẻ như một cơ chế, trong đó, giáo dân đi xem lễ, đọc kinh và khoán trắng tất cả cho Linh Mục. Giáo Hội không làm gì khiến người người phải ngạc nhiên và tự hỏi...
    Giáo Hội không chỉ là linh mục,
    mà là bạn, là tôi, là tất cả mọi người Con của Chúa...
    Có lần người ta hỏi nữ hoàng Vích-to-ri-a ( Victoria ) nước Anh rằng: Bà cần bao nhiêu thời gian để mỗi một người trên trái đất này biết rõ và tùng phục bà ? Bà trả lời: 18 tháng.
    Còn Chúa Giê-su thì đã mất bao nhiêu lâu rồi ?
    Nhưng chắc chắn không phải lỗi tại Người.
    Không cần phải có một người sành sỏi về âm nhạc mới làm cho kẻ khác biết đến Chopin hay Beethoven. Người đó chỉ cần say mê âm nhạc của các nhạc sĩ thiên tài này. Ai cũng có thể làm được...
    Vì thế, ngay cả vị Tông Đồ vô danh kia cũng là một chứng nhân của Chúa. Đó là điều chúng ta chắc chắn, vì Chúa đã sai 12 Tông Đồ ra đi, và Gia-cô-bê Hậu đã làm chứng cho đến mãn đời.
    Truyền thuyết cho rằng ông đã tử vì đạo. Tử đạo cũng là một chứng tích. Vị Tông Đồ này được chọn để làm chứng, và tên ông được ghi vào Sổ Nước Trời, Người ta không biết đến ông nhưng Chúa biết.
    Những Tông Đồ ra đi rao giảng, khi trở về thì vui mừng: "Ngay cả quỷ cũng bị khuất phục vì danh Thầy." "Anh em chớ mừng vì ma quỷ phải lụy phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên Trời..." ( Lc 10, 17 . 20 ).
    Đấy là lý do chính đáng của niềm vui.
    Vô danh đối với con người
    nhưng không vô danh đối với Thiên Chúa...
    Chúng ta đều biết những tuyệt tác của Shếch-xpia ( Shakespeare ),Hô-me-rơ ( Homère ), Khổng Tử... Nhưng những người đem âm thanh để vẽ thành nét, để biến tiếng nói thành chữ viết, họ gồm hàng ngàn người, họ là ai ? Tên của họ chúng ta không biết, nhưng những tác phẩm tiếngAnh, Hy Lạp, Trung Hoa thì chúng ta còn tham khảo được. Ta biết được những tác phẩm âm nhạc từ bao thế kỷ qua và ngay thời nay. Nhưng ai đã đem âm điệu biến thành nốt nhạc và giúp cho các nhạc sĩ ghi lại tác phẩm của mình ? Đó là hàng ngàn người vô danh..
    Còn chúng ta ?
    Phải chăng chúng ta nghĩ rằng mình có đúng có sai,
    có đức tin hay vô tín,
    có nhân đức hay tội lỗi,
    Điều đó chẳng ăn thua gì đến ai ?
    Ta có sống hay chết thì cũng thế thôi.
    Đời sống của ta chẳng thêm cũng chẳng bớt gì cho thế giới.
    "Có mợ thì chợ cũng đông,
    Không mợ thì chợ cũng không thiếu người...”
    Ta thay đổi thế giới ư ?
    Đừng đùa, thế giới có chú ý gì đến ta đâu.
    Ta có chết đi, thế giới vẫn bình thường, rồi ta đi vào quên lãng...
    Thế thì ta làm được gì ?
    Ta nhỏ bé làm sao...
    Nhỏ bé ư ?
    Một nguyên tử quả là nhỏ bé,
    nhỏ bé đến độ mắt không trông thấy.
    Thế mà, khi kết hợp với những nguyên tử khác,
    Nó tạo thành những sức mạnh phi thường...
    Ta cho rằng ta vô tích sự ư ?
    Một giọt nước cũng vô tích sự,
    Nhưng bao nhiêu giọt nước làm nên đại dương
    Để đưa con tàu hàng ngàn tấn đi vòng quanh trái đất...
    Ta cho rằng ta không nghĩa lý gì trong công trình của Thiên Chúa sao ?
    Có thể, ta không là nhân vật quan trọng.
    Nhưng vấn đề lớn nhất của Thiên Chúa
    không phải là lo lắng cho những nhân vật quan trọng.
    Thật ra, số nhân vật quan trọng chỉ đếm được trên đầu ngón tay,
    Vấn đề chính yếu của Thiên Chúa là bạn và tôi.
    Ta nghĩ rằng:
    Ta có làm gì, có thế nào đi chăng nữa thì cũng ăn thua gì...
    Nhưng dụ ngôn về những nén bạc:
    người được 5 nén... người được 2 nén...
    người được 1 nén thì đem cất giấu đi,
    anh ta nghĩ rằng anh ta không quan trọng, vô tích sự.
    và anh đã bị xét xử như một người vô tích sự.
    Cả Thiên Đàng đều thao thức về mỗi một người trong chúng ta.
    thao thức xem ta sử dụng đời ta như thế nào ?
    xem ta đúng hay sai ?
    xem ta sống Đức Tin hay thờ ơ với cuộc sống đạo ?
    Làm sao ta biết được điều đó ?
    Ta hãy nhìn lên thập giá:
    Thập giá nói cho ta biết giá trị của ta trước mặt Chúa.
    Thập giá nói rằng Chúa Giê-su đã đến và đã chết cho ta.
    Vâng, cho bạn và cho tôi.
    Thập giá nói lên Tình Yêu.
    Gia-cô-bê Hậu, người Tông Đồ không ai biết tới,
    Là biểu tượng cho hàng ngàn người vô danh.
    Vô danh ư ?
    Hữu danh chứ...
    Đó là những người con của Thiên Chúa
    mà Chúa Giê-su đã chết thay cho,
    Những Công Dân Nước Trời
    mà tên tuổi được ghi bằng nét đậm trong Cuốn Sổ Hằng Sống
    như một Si-môn Nhiệt Thành...

  11. #9
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    GIU-ĐA ÍT-CA-RI-ỐT, NGƯỜI PHẢN CHÚA
    ( Ga 13, 21 - 22 )

    Nói đến Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thì ai cũng biết:
    Giu-đa là kẻ phản bội Chúa Giê-su.
    Nhưng khi tranh luận về Giu-đa thì nhiều thắc mắc được nêu lên.
    Ta thử xem Giu-đa là ai ?
    Thường khi nói đến Giu-đa,
    Ta chỉ nghĩ đến hình ảnh một người mặc đồ đen,
    đen từ người đến tâm hồn,
    Ngược lại với Chúa Giê-su, biểu tượng của sự trong trắng...
    Ta tưởng tượng Giu-đa với cặp mắt dữ dằn,
    tóc tai không chải,
    gương mặt phản trắc...
    Dĩ nhiên như vậy rất tiện.
    Vì Giu-đa sẽ biến thành tên lưu manh không còn đáng bàn tới...
    Thật ra,
    Bạn có thể sánh vai với Giu-đa trong đám đông,
    Bạn có thể bàn bạc với Giu-đa trong mọi kế hoạch,
    Bạn còn có thể quỳ cạnh Giu-đa trong nhà thờ...
    Giu-đa là một Tông Đồ cơ mà !...
    Có những người đồng hóa Giu-đa với Xa-tan, và hơn một người đã nâng Giu-đa lên hàng thánh vì Giu-đa đã là điều kiện không thể thiếu được trong chương trình cứu rỗi của Chúa Ki-tô ( !?! )
    Thật ra Giu-đa ở giữa hai thái cực đó:
    Giữa một thằng quỷ và một ông thánh,
    Giữa một tên lưu manh và một vị anh hùng,
    Giu-đa là một con người...
    Có một điều chắc chắn: Giu-đa không phải là một tên đốn mạt và bất trị. Nghi ngờ điều này là nghi ngờ sự khôn ngoan của Chúa Giê-su. Chọn lựa tên gian manh để theo mình khắp nơi: đấy là hành động của một người điên, mà Giê-su Na-da-rét không điên tí nào !
    Vậy, ta tìm lại xem Phúc Âm nói gì về Giu-đa. Ta hãy đọc Lại Phúc Âm theo Thánh Lu-ca:
    “Trong những ngày ấy, Chúa Giê-su ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Lúc sáng ngày, Người kêu các môn đệ lại và chọn lấy trong họ nhóm 12, Người gọi họ là Tông Đồ: Si-môn, An-rê... và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt." ( Lc 6, 12 – 16 )
    Suốt đêm, Chúa Giê-su đã cầu nguyện để rồi chọn Tông Đồ Giu-đa. Điều ấy quả thật rõ ràng: Giu-đa đã được chọn sau một đêm Chúa thức trắng cầu nguyện,
    Giu-đa đã được chọn để trở nên một Tông Đồ.
    Giu-đa không được chọn để quay lưng với Người,
    không được chọn để phản bội Người,
    Giu-đa được đặt ngang hàng với Phê-rô, An-rê, Mát-thêu, Phi-líp...
    Giu-đa được nghe những gì họ nghe
    Giu-đa được thấy những gì họ thấy,
    Giu-đa cũng đi rao giảng Nước Trời,
    Giu-đa cũng đi làm chứng như những Tông Đồ khác...
    Ba năm trời ông là Tông Đồ của Chúa
    Ba năm trời ông ở bên cạnh Thầy Chí Thánh.
    Xin đừng vội xếp ông vào hạng đốn mạt.
    Trong ông cũng có một ưu điểm nào đó khiến Chúa chọn,
    Có thể là khả năng tổ chức, có thể là óc thông minh...
    Giu-đa là người duy nhất gốc ở miền Nam trong số 12 Tông Đồ.
    Mười một người kia ở Ga-li-lê.
    Không phải không có lý do khi chọn một người miền Nam được chọn vào cộng đoàn toàn người miền Bắc.
    Giu-đa đã nhanh chóng đáp lại tiếng gọi của Đức Ki-tô:
    Ông muốn trở nên một môn đệ của Chúa,
    Ông đã từ bỏ tất cả, ông theo Chúa không một chút do dự...
    Nhưng ta chú ý một điều: Giu-đa là người miền Nam nói giọng miền Nam, mà người Do-thái thì lại mang nặng óc kỳ thị phân biệt địa phương sau quá nhiều động của lịch sử. Ông có thấy khó chịu vì ông không hoàn toàn như những người khác trong Nhóm không ?
    Chúng ta không nói rằng những người kia bỏ rơi ông, nhưng quả là không có được sự thân thiết tự nhiên; nhất là khi trong Nhóm lại có những cặp anh em như Phê-rô và An-rê, Gio-an và Gia-cô-bê; vả lại họ vốn là những người cùng sinh sống với nhau trong nghề chài lưới. Mặt khác, Phi-líp và Na-tha-na-en là bạn thân với nhau từ trước khi gặp Đức Giê-su...
    Họ đã chọn Giu-đa làm thủ quỹ,
    Họ tôn trọng tài năng của ông, họ tin cẩn ông...
    Thế nhưng vẫn có một nhóm người quyết định mọi sự:
    Đó là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an.
    Còn Giu-đa thì bị đứng bên lề.
    Phải chăng đó cũng là một nguyên nhân bất mãn và khó chịu ?
    Giu-đa không hề xuất hiện từ đầu
    như một người quay lưng lại với Chúa.
    Ta chỉ biết rõ ông sau ba năm ông theo Chúa...
    Trước cái ngày quyết liệt đó, Giu-đa được nhắc đến hai lần trong Phúc Âm, qua đó ta biết ít nhiều về con người của ông.
    Không ai bỗng dưng mà phản bội...
    Giu-đa không thay trắng đổi đen đầu hôm sớm mai,
    Ông bước dần đến hố thẳm, ông bước đi từng bước một...
    Khi đám đông rời bỏ Chúa Giê-su vì những lời giảng của Người nghe chói tai và không bình thường, một cuộc đối thoại đã diễn ra:
    “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ? Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời... Chúa Giê-su đáp: Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao ? Thế mà, một người trong anh em lại là quỷ !” Người muốn nói đến Giu-đa, con của ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt” ( Ga 6, 67 – 71 )
    Vậy là Chúa Giê-su có biết trước về Giu-đa.
    Vì sao Người biết ?
    Người đã nói trước là sẽ có một người sẽ phản bội Người.
    Nhưng làm sao Người lại biết kẻ ấy chính là Giu-đa ?
    Vì đã có những dấu hiệu: sự suy giảm nhiệt tình,
    sư cứng cỏi,
    sự biếng nhác cầu nguyện,
    sự kiêu ngạo trong đường tu đức,
    tính ham mê lời khen và sự nể vì...
    Chúa Giê-su đã nói, nhưng Giu-đa nào có biết,
    Giu-đa cũng không hề nghĩ rằng kẻ đó chính là mình...
    Ôi, ngôn sứ Na-than ngày xưa đã chỉ nói một lần với vua Đa-vít: "Người đó chính là Ngài." ( 2 Sm 12, 1 – 7 ) Nhưng ngày nay, không biết tiên tri Na-than cần phải lập lại bao nhiêu lần cho mỗi một Giu-đa: "Người đó chính là bạn"...
    Mọi việc đều ổn thỏa,
    Giu-đa vẫn thấy thoải mái với Chúa,
    thoải mái với công việc mà ông gọi là phục vụ.
    Ông là một Tông Đồ chính danh.
    Bội phản ư ?
    Không bao giờ chữ này lại thoáng qua đầu óc ông.
    Nếu ta hỏi ông, chắc hẳn ông sẽ cười vào mặt ta mà bảo::
    "Tôi mà bội phản Thầy Giê-su ư ?
    Anh điên rồi ! Không bao giờ !
    Thầy là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa,
    Làm sao tôi có thể phản bội Thầy ?"...
    Đó là lần thứ nhất ta gặp được Giu-đa qua Phúc Âm thánh Gio-an.
    Lần thứ nhì xảy ra tại Bê-ta-ni-a, khi Ma-ri-a xức dầu thơm lên chân Chúa Giê-su, Giu-đa đã phản đối: "Vì sao lại không bán chỗ dầu ấy lấy 30 đồng mà cho người nghèo ?” ( Ga 12, 5 )
    Giu-đa không phải là người phản đối duy nhất, mười một Tông Đồ kia cũng nghĩ thế.
    Mát-thêu ghi lại: "Thấy vậy, các môn đệ kia cũng phẫn uất..." ( Mt 26, 8 ) Sau này, Gio-an lại nói thêm: "Giu-đa nói lời này không phải là y bận tâm đến người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ ví tiền, nên cứ có gì bỏ vào thì y phỗng mất..." ( Ga 12, 6 )
    Lúc bấy giờ, chưa ai biết Giu-đa là một tên ăn cắp,
    mãi sau này mới biết.
    Hình ảnh Giu-đa chưa bị phát hiện.
    Giu-đa, cũng như nhiều người khác theo Chúa, là một kẻ có ý đồ:
    Ông tỏ ra yêu thương người nghèo nhưng bên trong là vụ lợi,
    Ông đưa ra bên ngoài một khuôn mặt yêu thương
    để che giấu lòng ganh tị.
    Trên môi ông là lời lẽ vị tha, nhưng trong tâm tư là nguyên do vị kỷ.
    Một người nói điều đúng nhưng lại làm sai hoặc chẳng làm gì cả,
    Một người phục vụ chính mình thay vì phục vụ Chúa Ki-tô.
    Bây giờ, đã đến lúc phản bội...
    Lu-ca ghi lại: "Xa-tan đã nhập vào Giu-đa gọi là Ít-ca-ri-ốt, y có chân trong số 12, y đi thương lượng với các thượng tế và lãnh binh về phương cách nộp Đức Giê-su cho bọn họ..." ( Lc 22, 3 – 4 )
    Câu hỏi được đặt ra:
    Vì sao Giu-đa lại làm như thế ?
    Vì sao Giu-đa lại trở nên một kẻ chỉ điểm ?
    Vì sao Giu-đa ám hại Đức Giê-su ?
    Mọi người sẽ dựa vào Kinh Thánh mà trả lời: tại Xa-tan nhập...
    Dĩ nhiên Xa-tan không tông cửa mà vào,
    Giu-đa đã vui lòng tự ý mở cửa...
    Cảnh phản bội bắt đầu từ bàn Tiệc Ly.
    Mở màn là một hành động khiêm nhường đến rùng mình.
    Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ.
    Người đến với cả Giu-đa, quỳ dưới chân Giu-đa.
    Còn Giu-đa ngồi đó, lặng người, khó chịu,
    nhận ra mình đã chơi gian...
    Làm sao bây giờ ?
    Giu-đa vẫn chấp nhận cho Chúa rửa chân mình.
    Chúa nhìn ông, thinh lặng,
    cố gắng cảm hóa và kêu gọi lương tri ông,
    Vô phương, Giu-đa đã cau mày phủ quyết...
    Sau đó, họ ngồi quanh bàn ăn,
    Chúa Giê-su chuẩn bị lập phép Thánh Thể,
    Người chưa thể khởi sự cử hành vì Giu-đa còn ngồi đó.
    Rồi Người đành bắt buộc phải thốt lên trong âu sầu:
    "Một người cùng ăn với Thầy sẽ nộp Thầy..." ( Mc 14, 10 )
    Không một người nào quay về phía Giu-đa để hỏi:
    "Có phải người này không ?”
    Không một ai nhìn về phía Giu-đa,
    Giu-đa vượt khỏi mọi sự nghi ngờ,
    Ông là một người công chính, một môn đệ chính danh cơ mà.
    Ngược lại, mọi người lại tự hỏi: "Một người trong chúng ta ư ? ai vậy ? Phải chăng là con ?" ( Mt 26, 12 ) Tất cả đều buồn rầu, từng người một nói với Chúa như vậy.
    Cuối cùng tới phiên Giu-đa, Giu-đa cũng hỏi:
    "Có phải con là người đó không ?"
    Chúa Giê-su trả lời: "Chính anh đã nói" ( Mt 26, 25 )
    Đến giờ này mà Chúa còn trao cho Giu-đa một miếng bánh chia sẻ.
    Quả là một cử chỉ thân thiện.
    Giu-đa nhận lấy, nhưng như thế là quá đủ rồi,
    Giu-đa đứng dậy, ra khỏi phòng,
    Không một ai trong bàn tiệc biết... ( Ga 13, 28 )
    Đến lúc này, họ vẫn không nghi ngờ ông,
    Họ nghĩ rằng Giu-đa ra đi lo chuyện tiền nong cho nhóm...
    Giu-đa đã đi vào bóng tối, vào đêm đen,
    Giu-đa đã đi một mình, một mình cho đến bao giờ...
    Giu-đa đã nói với những người muốn hại Chúa: "Tôi hôn ai,Thì chính là người ấy, các ông hãy bắt lấy.” ( Mt 26, 48 )
    Phản bội bằng một cái hôn !
    Giu-đa có thể chỉ cho họ biết nơi Chúa đang có mặt,
    Giu-đa có thể mô tả cách ăn mặc của Chúa cho họ nhận diện.
    Nhưng không !
    Giu-đa đích thân đến để tố giác Chúa bằng một nụ hôn phản bội.
    Không phải vì 30 đồng tiền mà Giu-đa làm như thế,
    Nhưng là để trả thù, trả thù cho sự ghét bỏ,
    cho mặc cảm bị chà đạp.
    Và rồi, Giu-đa đã tiến đến hôn Thầy của mình...
    Một lời kêu gọi cuối cùng thốt lên từ môi Chúa Giê-su: "Này bạn, điều bạn định làm thì cứ làm đi." ( Mt 26, 50 ) Lúc Giu-đa bỏ đi, Người đã gọi môn đệ của mình là bạn... "Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, Thầy gọi anh em là bạn hữu của Thầy." ( Ga 15, 25 )
    Vâng, tất cả anh em,
    tất cả những người Thấy đã chọn, không trừ ai,
    dù cho người đó là Giu-đa...
    "Này bạn..."
    Nhưng tất cả đã quá trễ rồi, Giu-đa đã đóng chặt cửa tâm hồn.
    Những người lính ập đến vồ lấy Chúa Giê-su.
    Thế là anh đã phản bội Thầy rồi anh Giu-đa ơi !
    Nhưng câu chuyện của Giu-đa chưa chấm dứt.
    Ngay đêm hôm đó,
    Khi Giu-đa thấy Chúa Giê-su bị hành hạ, chửi bới, lăng nhục,
    Ông đã hối hận, tâm hồn bị đảo lộn...
    Điều này làm ta ngạc nhiên ư ?
    Vì sao ông phản bội Người ? Đó là một vấn đề.
    Vì sao ông lại hối hận đến thế ? Đó là một vấn đề khác.
    Chúng ta hiểu được một phần:
    Giu-đa không phải là một kẻ khát máu,
    một kẻ tự giết chết lương tâm mình.
    Giu-đa đã sống với Chúa ba năm,
    Tâm hồn ông chắc chắn đã chịu nhiều ảnh hưởng của Chúa,
    Tâm hồn ông không phải là một tâm hồn chai lì.
    Điều ông không hiểu ra là tầm mức xúc phạm của ông.
    Điều chúng ta không bao giờ kịp hiểu
    là chúng ta đã xúc phạm tới Chúa đến mức độ nào...
    Bừng mắt ra, ông thét lên:
    “Tôi đã phạm tội, tôi đã nộp máu người vô tội” ( Mt 27, 4 )
    Ông ném trả tiền lại, ông muốn bỏ món tiền dính máu
    và ông rời bỏ thành phố, ông tự tử...
    Đó là điều làm chúng ta xót xa:
    Giu-đa đã chọn con đường tuyệt vọng...
    Ta không thể đọc Tông Đồ Công Vụ mà không thấy đăng đắng ở đầu lưỡi: “Giu-đa đã bỏ đi đến chỗ của riêng mình.” ( Cv 1, 25 )
    Không chua xót làm sao được ?
    Được chọn làm Tông Đồ,
    Được chọn vào địa vị cao sang nhất,
    Được chọn để thừa hưởng Nước Trời,
    Được chọn bởi Thầy Giê-su, Đấng đã nói:
    "Thầy đi là để dọn chỗ trước cho anh em..." ( Ga 12,2 )
    Giu-đa lại tự chọn chỗ cho mình
    lại đi đến chỗ của riêng mình.
    Giu-đa không nhìn ra:
    Chúa đã dọn chỗ bằng mạng sống mình
    Cho mọi người,
    Cho anh, cho chị, cho bạn, cho tôi,
    Cho tất cả những ai đang đi trên con đường phản bội,
    đang phản bội,
    đã phản bội.
    Vì tất cả những Giu-đa, Chúa đã chấp nhận bị tủi nhục,
    bị tra tấn,
    bị bỏ rơi và
    chết đi bên ngoài thành phố.
    Và ta hiểu tại sao Chúa đã nói với tất cả vẻ âu sầu: "Con Loài Người ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho người đó, kẻ đã làm cho Con Loài Người bị nộp, thà rằng người ấy đã chẳng sinh ra thì hơn." ( Mt 26, 24 )
    Sinh ra làm gì để chết khát vì tuyệt vọng ngay bên nguồn mạch của hy vọng ?
    Nhưng, tại sao một người sống bên Chúa ba năm trời lại có thể ra như thế ? Tại sao một người ở gần Chúa đến thế mà lại bỏ rơi Người một cách tàn bạo đến thế ?
    Đây là một sứ điệp:
    Người ta có thể phản bội Người, và người ta đã phản bội Người.
    Người nào hoạt động Tông Đồ nhưng khi có dịp làm sang, làm giàu, lại chọn tiền tài danh vọng: người ấy là một kẻ phản bội.
    Người nào rao giảng Lời Chúa, khấn trung thành với Giáo Hội, nhưng khi gặp khó khăn thử thách lại chọn lấy yên ổn cho mình, người ấy đã bỏ rơi Người để chọn lấy tuyệt vọng.
    Bạn và tôi,
    Chúng ta đều âm thầm cưu mang một Giu-đa.
    Chúa Giê-su có nhiều điều để nhắn nhủ với Giu-đa,
    thật là nhiều, mỗi ngày,
    Nhưng Giu-đa đã nghe mà không nhận những lời khuyến cáo,
    những tiếng kêu mời.
    Lời Hằng Sống vào tai Giu-đa nhưng không thay đổi được Giu-đa,
    Giu-đa đã phản bội trước tiếng kêu thống thiết của Chúa Giê-su...
    Còn chúng ta thì sao ?
    Còn bạn và tôi thì sao ?
    Chúng ta nghe Chúa nói,
    Chúng ta biết việc phải làm,
    Chúng ta có để Người cải biến chúng ta không ?
    Chúng ta có nghĩ rằng chúng ta là người công chính
    để tiếp tục gọi Người: "Lạy Chúa, lạy Chúa"
    mà không làm điều của Người kêu gọi không ?
    Chúng ta hãy tự xét mình mà xem...
    Khi Chúa Giê-su phán:
    "Một người trong anh em sẽ phản bội Thầy..."
    chúng ta phản ứng như thế nào ?
    Ta có vờ hỏi lại Chúa cho ra vẻ mình cũng là Tông Đồ,
    hay ta chân thành hỏi Chúa
    trong nỗi lo âu buồn bã như các môn đệ Chúa ngày xưa ?
    Dù sao thì ta cũng hãy hỏi Người:
    "Thưa Thầy kẻ ấy có phải là con chăng ?"
    Đừng ! Chúng ta đừng tự trả lời.
    Chúa Giê-su sẽ trả lời... nếu chúng ta thành thật hỏi...

  12. #10
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    GIU-ĐA TA-ĐÊ-Ô,VỊ TÔNG ĐỒ TRUNG KIÊN
    ( Ga 14, 22 )

    Tôi vẫn còn nghe văng vẳng câu nói của một anh bạn:
    "Chúa không bao giờ làm phép lạ để tặng thưởng cho sự bê bối của chúng ta. Những gì thuộc về nhiệm vụ của chúng ta, nếu chúng ta không làm, chúng ta sẽ để lại một lỗ trống trong Nhiệm Thể, lỗ trống đó sẽ tồn tại đến muôn đời để chứng tỏ rằng chúng ta thiếu tình yêu..."
    Vâng, một khi người không chu toàn nhiệm vụ thì lỗ trống không có gì lấp đầy được. Đó là trường hợp xảy ra khi một Ki-tô hữu bỏ cuộc. Và điều này xảy ra rất thường. Nhiều người đi theo Chúa Giê-su, thế rồi, vì một lý do nào đó, không muốn tiếp tục nữa...
    Nhưng có một Tông Đồ đã được chú ý đến nhờ lòng trung kiên. Về nhân vật này có nhiều điểm mơ hồ: Mát-thêu gọi ông là "Lê-bê-ô, tục danh là Ta-đê-ô." Mác-cô gọi ông là Ta-đê-ô, Lu-ca và Gio-an lại gọi ông là Giu-đa con của Gia-cô-bê...
    Sau khi Chúa Giê-su bị phản bội, tên gọi Giu-đa bị một vết đen, có lẽ vì thế mà Mát-thêu và Mác-cô không muốn dùng tên ấy. Dù sao thì Gio-an và Lu-ca vẫn gọi ông là Giu-đa, Giu-đa Ta-đê-ô để phân biệt với Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, và chúng ta cũng sẽ gọi ông như thế...
    Giu-đa Ta-đê-ô là một Tông Đồ trung kiên.
    Vì sao lại mệnh danh như thế ?
    Một Giu-đa bỏ rơi Chúa, phản bội và nộp Ngươì cho kẻ thù.
    Giu-đa kia không bỏ cuộc,
    Ông không phản bội,
    Ông vẫn trung tín, bền đỗ...
    Điều đó cũng tạm đủ để gọi ông là một Tông Đồ trung kiên.
    Nhưng còn một lý do khác:
    Một lần Giu-đa Ta-đê-ô được Phúc Âm nhắc đến,
    Nhắc đến chỉ một lần duy nhất.
    Lần duy nhất đó giúp chúng ta tìm hiểu về ông.
    Lần đó ông đã đặt một câu hỏi.
    Bối cảnh: Bữa Tiệc Ly
    Thời gian: Sau bữa ăn
    Vấn đề: Tương lai của các Tông Đồ
    Lời dạy dỗ: Sau khi sống lại, Chúa Giê-su sẽ gửi Thánh Thần đến với họ, họ sẽ nhận ra, nhưng thế gian lại không nhận ra...
    Giu-đa Ta-đê-ô nghe chăm chỉ
    trong ba năm trung thành theo Chúa.
    Ông tin tưởng, phó thác, thinh lặng...
    Nhưng giờ đây, sắp có sự đổi thay,
    Ông muốn biết trước mọi sự cho rõ ràng,
    để nhận diện ra Chúa Giê-su trở lại trong Thánh Thần,
    một hiện diện mà thế gian không thể cảm biết:
    "Còn một ít nữa, thế gian không còn thấy Thầy,
    Phần anh em, anh em thấy Thầy." ( Ga 14, 19 )
    Thế nghĩa là làm sao ?
    "Bấy giờ, Giu-đa, không phải Ít-ca-ri-ốt, hỏi người: "Thưa Thầy, làm sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà lại không tỏ ra cho thế gian ?" ( Ga 12, 22 ).
    Một câu hỏi như thế thì làm sao trả lời ?
    Bạn thử nghĩ xem phải trả lời làm sao ?
    Làm thế nào để giải thích dòng điện cho một em bé lên năm ?
    Làm thế nào một khoa học gia giải nghĩa cho quần chúng hiểu nguyên lý của một động cơ nguyên tử ?
    Làm thế nào chúng ta có thể am tường được
    thể thức Chúa tỏ mình ra cho chúng ta ?
    Chúa Giê-su không hề giải thích, Người trả lời đại ý như sau:
    Con hãy làm điều này thì việc nọ sẽ xảy ra...
    Con hãy vặn nút này thì bóng đèn đầu kia sẽ sáng...
    "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy,
    Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
    Và chúng ta sẽ đến với người ấy..."
    Và sẽ đặt chỗ ở trong người ấy..." ( Ga 14, 23 )
    Trước khi Giu-đa hỏi, Chúa Giê-su cũng nói như thế,
    Và khi Giu-đa hỏi thì Chúa cũng trả lời
    bằng cách lập lại câu nói của mình.
    Chúa không nói một câu gì mới
    vì không làm gì cho Giu-đa có thể hiểu nổi...
    "Vì con yêu thương Thầy nên con sẽ giữ Lời Thầy,và vì Thầy và Cha Thầy yêu con nên sẽ đến ở với con."
    Vậy, một trái tim nồng cháy tình yêu sẽ cảm nhận được Chúa.
    Câu trả lời ấy là gì nếu không phải là một câu khuyến khích ?
    Khuyến khích lòng trung kiên, sự bền chí...
    Con đã yêu thương Thầy thì hãy bền đỗ yêu thương Thầy,
    Con đã giữ Lời Thầy, hãy bền đỗ giữ Lời Thầy,
    Và nếu con kiên trì, trung tín mà không bỏ cuộc,
    Cha Thầy và Thầy sẽ đến ngự trong lòng con.
    Tân Ước nói nhiều về lòng trung tín và bền đỗ,
    Đầy là điểm chính yếu trong Thư của Giu-đa.
    Đại để, Giu-đa đã nhắn nhủ:
    Đừng đi lạc đường,
    Đừng nghe lời những Tông Đồ giả,
    Đừng ra ngoài đường lối Phúc Âm.
    Hãy trung kiên với Đức Tin một lần duy nhất
    đã trao ban cho các thánh,
    Hãy chiến đấu cho Đức Tin ấy,
    Hãy nhớ lại những lời các Tông Đồ của Chúa chúng ta,
    Đức Giê-su Ki-tô,
    Hãy xây dựng trên Đức Tin,
    hãy cố giữ lấy mình trong lòng tin của Thiên Chúa.
    ( xem Gđ 17. 21. 22 )
    Chúng ta biết rõ tầm quan trọng của sự bền chí. Thế nhưng, làm thế nào để có thể bền chí ? Bí quyết ở đâu ? Làm thế nào để nên giống vị Tông Đồ trung kiên để luôn trung thành với Đức Tin ?
    "Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy,
    Cha Thầy và Thầy sẽ đến cư ngụ trong người ấy..."
    Chúng ta hãy chu toàn điều kiện đó,
    Đấy là cái trục mà mọi sự xoay quanh:
    "Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy..."
    Bất cứ ai chu toàn điều kiện đó đều có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa.
    Để "yêu Chúa" thì phải "muốn yêu Chúa"
    Sự bền chí đòi phải khát khao và khát khao mãi mãi.
    Suy gẫm thường xuyên sẽ giúp ta bền đỗ,
    Cầu nguyện thường xuyên sẽ giúp ta kiên trì.
    Nếu chúng ta không quyết liệt chống lại
    những phong ba bão táp làm tổn hại Đức Tin,
    chúng ta sẽ mất Đức Tin.
    Nếu chúng ta không chuẩn bị để chịu đựng đến cùng,
    chúng ta sẽ gặp thất bại.
    Nếu chúng ta không khát khao yêu Chúa,
    chúng ta sẽ quên lãng Người.
    Trôi theo dòng nước thì dễ, đi ngược với dòng mới khó,
    Bỏ cuộc thì thật là dễ, cái khó là kiên trì tiếp tục...
    Trong cuộc tranh chấp, người trì chí bao giờ cũng thắng.
    Chúng ta phải trì chí giữ mình trong Tình Yêu Thiên Chúa.
    Mà, muốn được trì chí,
    Hãy bám chắc vào mục đích,
    Hãy thẳng nhìn vào Chúa Giê-su,
    Hãy thẳng nhìn vào đối tượng của Tình Yêu,
    Hãy nhìn chăm chú vào Thầy mình
    thì mình sẽ muốn tiến tới,
    Hãy nhìn chăm chú bạn mình
    thì mình sẽ không bao giờ phản bội.
    Nhưng chúng ta cũng cần nhớ một điều là:
    Tự ta, ta không làm được việc gì.
    Một vị thánh như Phao-lô mà còn phải thốt lên:
    “Điều tôi muốn thì tôi không làm,
    Nhưng tôi lại làm điều tôi khinh ghét..." ( Rm 7, 15 )
    Thế thì lòng khao khát bền đỗ của chúng ta
    cần thiết, nhưng chưa đủ.
    Chỉ có Thiên Chúa mới giúp ta khỏi sa ngã,
    Chỉ có Thiên Chúa mới giúp ta kiên trì.
    Và cũng chính vì thế, sau khi Giu-đa khuyên:
    "Hãy cố giữ mình trong Tình Yêu Thiên Chúa..."
    Thì ông cũng viết thêm:
    "Đấng có quyền phép giữ anh em khỏi sa ngã,
    và cho anh em đứng vững, tinh tuyền,
    trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc,
    Xin kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng cứu độ chúng ta,
    Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta..." ( Gđ 24. 25 )
    Chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa.
    Chúng ta tin tưởng công ty điện lực cho ta ánh sáng,
    Chúng ta tin tưởng bưu điện sẽ đưa lá thư của ta đi,
    Ít ra chúng hãy tin tưởng ở Thiên Chúa như thế.
    Tin tưởng vào quyền năng của Người.
    Tin Tưởng, Phó Thác, Cậy Trông
    Và Ý Thức Sự Hiện Diện của Người.
    Đó là điều Chúa Giê-su đã muốn nhắn nhủ với Giu-đa Ta-đê-ô,
    Đó là câu trả lời Người dành cho một Giu-đa trung tín.
    Và nếu chúng ta không thể nói gì thêm nữa về Giu-đa, chúng ta có thể kết luận:
    Giu-đa đã trung tín đến cùng,
    Giu-đa rao giảng về Chúa đến cùng,
    Giu-đa rao giảng Lời Chúa hết sức nhiệt tình...
    Về cuối đời, ông rao giảng ở vùng Ô-đét-xa ( Odessa ), Ác-mê-ni-a ( Arménia ) và Péc-xi-a ( Persia ). Truyền thống cho rằng ông tử đạo ở Péc-xi-a.
    Giu-đa đã kiên trì trung tín cho đến mãn đời...
    Để kết thúc câu chuyện thánh Giu-đa, tôi nghĩ nên chép lại chuyện của Florence Chadwick, nữ lực sĩ đã bơi qua vùng biển Catalina đến được đất liền, khoảng cách 30 cây số ( Trích “Recueil d' exemples” do Ste-phane Berghoff viết ).
    Cô nữ lực sĩ thuật lại: "Tôi là một người phụ nữ đầu tiên bơi khoảng đường này, cho nên hệ thống truyền hình theo dõi suốt cuộc hành trình 5 giờ 55 phút. Cuối cùng, người ta đã vớt tôi lên cách bờ chỉ có một cây số rưỡi. Đấy là lần đầu tiên tôi bỏ cuộc.
    Vài giờ sau, tôi nói với một ký giả: Không phải tôi bỏ cuộc vì mệt mỏi nhưng vì tôi bị lạnh cóng. Ông ta gật đầu, nhưng rồi tôi nói lên điều tôi đã muốn giấu: Tôi không muốn chạy lỗi, nhưng thú thật, nếu tôi thấy được đất liền đã đến gần thì chắc hẳn tôi đã thành công.
    Khi tôi bơi qua biển Manche lần đầu tiên, có lúc tôi ngỡ rằng mình không tiếp tục được vì kiệt sức. Tôi cũng lạnh cóng và chỉ muốn ra khỏi nước, nhưng ngay lúc đó cha tôi nhìn thấy đất liền và ra hiệu cho tôi. Tôi thấy bờ biển, niềm vui mừng cho tôi đủ nhiệt lượng và tôi chắc mình sẽ thành công. Chỉ cần đem hết sức, cố gắng để bơi về phía mục tiêu mà tôi thấy rõ trước mặt...
    Nhưng vùng biển Ca-ta-li-na ngày hôm nay lại dày đặc sương mù. Khi mẹ tôi và huấn luyện viên bảo tôi rằng đất liền đã ở gần kề tuy có bị khuất trong màn sương, tôi lại cho rằng họ muốn khuyến khích tôi, tôi không tin vì chính tôi không thấy bờ, còn người tôi thì đã lạnh cóng...
    Tôi đã quyết định sẽ bắt đầu lại, nhưng sự thất bại lần ấy đối với tôi là một niềm đau khôn tả. Tôi nhớ lại lời cha tôi dặn dò trước khi mất: "Điều hay có thể xảy ra từ bất cứ kinh nghiệm nào, miễn là ta chấp nhận với một trái tim cởi mở và một tinh thần cầu nguyện..."
    Suy nghĩ cho cùng, thất bại của tôi không phải do sương mù, tôi thất bại là vì đã để cho sương mù che khuất trái tim tôi, trí óc tôi và đôi mắt tôi...
    Ngày 20 tháng 9 tôi thử lại một lần thứ hai. Những khó khăn lần đầu vẫn còn đó, có lúc sương mù dày đặc đến nỗi không thấy thuyền hướng dẫn đâu nữa. Chúng tôi gặp cá mập đến ba lần.
    Cuối cùng tôi đã phá kỷ lục của những nhà bơi lội nam. Tôi bơi mau hơn họ hai giờ, và tôi cảm tạ Thiên Chúa đã giúp tôi thành công...
    Tuy nhiên, niềm vui lớn nhất của tôi là nhận được lá thư của một bệnh nhân. Dù mang trong mình một chứng bệnh kinh niên, ông ta đã theo dõi tôi trên truyền hình, lần thất bại cũng như lần thành công. Ông nói rằng sự bền chí của tôi đã cho ông sức mạnh tinh thần để chiến đấu. Dù chưa tin rằng ông sẽ khỏi hẳn, ông vẫn biết rằng một ngày kia, chắc chắn ông cũng có thể nói: "Đất liền đã ở trước mặt".
    Florence Chadwick đã bỏ cuộc ở lần bơi trước vì đã không tin tưởng lời của nhà dìu dắt.
    Giu-đa Ta-đê-ô, trong cuộc đời của ông, chắc cũng đã có nhiều phen sương mù dày đặc, nhưng ông có một nhà dìu dắt mà ông biết không bao giờ lừa dối ông, đó là nhà dìu dắt Giê-su Ki-tô.
    Trong sương mù và trong đêm tối, Giu-đa nghe rõ mồn một tiếng nói nhắn nhủ cho ông, và cho cả chính bạn và tôi nữa đó:
    "Ai mến Thầy thì giữ Lời Thầy,
    Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
    Và chúng Ta sẽ đến cư ngụ trong lòng..."

  13. #11
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    TÔ-MA, VỊ TÔNG ĐỒ ĐA NGHI
    ( Ga 20, 24 – 29 )

    Khỏi cần phải nói, đây là vị Tông Đồ bi quan nhất.
    Con người luôn luôn buồn rầu, sầu thảm,
    và hình như không thể tin điều gì mà ông không thấy.
    Ông thực tế nhìn vào bề trái của vấn đề,
    Ông nhìn thế gian, đời sống, khổ đau qua cặp kính màu đen.
    Gọi ông là vị Tông Đồ đa nghi hình như chưa đủ,
    Phải gọi ông là vị Tông Đồ nhăn nhó,
    sầu thảm,
    cằn nhằn,
    càu nhàu...
    Ông đã làm gì với tư cách Tông Đồ Chúa Giê-su ?
    Vì sao ông được chọn ?
    Câu trả lời chân thành nhất là tôi không biết.
    Phải chăng Chúa muốn khuyến khích tất cả mọi người,
    dù người đó khó tính, càu nhàu, bi quan,
    và trong lòng chỉ biết nghi ngờ ?
    Dù sao, trong sự nghi ngờ chính đáng,
    vẫn có nhiều Đức Tin hơn một niềm tin nửa vời.
    Chúng ta gặp Tô-ma lần đầu tiên khi nghe tin La-da-rô chết. Lúc bấy giờ Chúa đang ở ngoài vùng Giu-đê. Người muốn tránh mặt một thời gian vì ở Giu-đê, Người đã tranh luận với người Do-thái và nói những lời mà họ cho là phạm thượng. Hai lần họ đã muốn ném đá và bắt giữ Người. Người đã lánh đi, bỏ qua bên kia bờ sông Gio-đan ( Ga 10, 29 – 40 ). Bây giờ, Chúa Giê-su muốn trở lại Giu-đê. Tô-ma thấy sự nguy hiểm, nhưng ông không tìm cách ngăn cản. Ông biết rằng Chúa can đảm và dám đối diện với tất cả.
    Nhưng dù sao thì người Do-thái cũng có thể giết Chúa. Tô-ma bíết rõ như thế. Vả lại, Người cũng đã từng nói đến cuộc Thương Khó sắp tới của Người ( Mc 10, 33 ). Khi Chúa Giê-su nói rằng Người sẽ về Giu-đê sang Bê-ta-ni-a, Tô-ma quay lại nói với các Tông Đồ: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy cùng qua để chết với Người." ( Ga 11, 10 )
    Đây là một câu nói tận hiến nhưng đồng thời cũng là tiếng nói u sầu buồn thảm của một người mà đầu óc lúc nào cũng đầy những ý tưởng bi quan, yếm thế. Ông không để ý rằng Chúa đi cứu sống La-da-rô, ông chỉ nghĩ rằng mình đi chịu chết. Cách nói của ông có vẻ như không có một tí gì là hy vọng. Ông cam chịu định mệnh, tai ông nghe văng vẳng câu nói Cựu Ước:
    "Ngày ngươi chết thì tốt hơn ngày ngươi sinh ra, tốt hơn là đi đến một nhà tang chế hơn là một nhà mừng tiệc, vì đấy là bước cùng của mỗi người..." ( Giảng viên 7, 1 – 2 )
    Giọng nói của ông như thế đấy ! Ý nghĩ của ông như thế đấy: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy cùng đi để chết với Người"
    Chúng ta lại gặp Tô-ma bên bàn Tiệc Ly. Chúa Giê-su nhắn nhủ các môn đệ, họ yên lặng ngồi nghe:
    "Lòng anh em chớ xao xuyến, hãy tin vào Thầy. Trong Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở... Và Thầy đã dọn chỗ cho anh em, ắt Thầy sẽ đến lại mà đem anh em theo Thầy. Để Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ ở đó, Và Thầy đi đâu thì anh em cũng biết rõ đường rồi.” ( Ga 14, 1 – 4 )
    Tô-ma thấy khó hiểu. Vấn đề này có vẻ lạ. Ông biết rằng Chúa sẽ chết và ông theo để cùng chết. Nhưng bây giờ thì Người lại nói đến chỗ ở, đến nhà cửa, đến sự sống. Tô-ma là người bi quan, ông chỉ nghĩ đến đêm tối chứ không bao giờ nghĩ đến mặt trời.
    Ông không hề biết rằng có con đường đó, thế mà Chúa lại bảo: “Anh em biết rõ đường rồi... “
    Tô-ma không thể im lặng nữa. Vị Tông Đồ sầu thảm bi quan đó đã hỏi lại Chúa: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?"
    Và Chúa Giê-su trả lời: "Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, không ai đến được với Cha Thầy mà không qua Thầy" ( Ga 14, 5 – 6 )
    Anh không biết đường sao ? Hỡi Tô-ma,
    “Thầy là Đường đây..."
    Anh là người bi quan, anh nghĩ nhiều đến điều sai lầm,
    "Thầy là Sự Thật...”
    Anh chỉ nghĩ đến cái chết,
    “Thầy là Sự Sống...”
    Anh không biết Nhà Cha,
    thì hãy đi qua Thầy...
    Tô-ma được trả lời nhiều hơn ông hỏi.
    Nhưng con người thực tế, bi quan đó khó mà hiểu được ngay.
    Bằng chứng ?
    Bằng chứng là ngày Chúa sống lại, ông cũng chưa kịp hiểu.
    Ta gặp lại ông vào ngày thứ nhất trong tuần Phục Sinh.
    Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết,
    Người hiện ra cho Ma-ri-a Mác-đa-la,
    Người hiện ra cho các Tông Đồ, cho tất cả mọi Tông Đồ,
    chỉ trừ Giu-đa, vì Giu-đa đã chết,
    chỉ trừ Tô-ma, vì Tô-ma vắng mặt.
    Tại sao Tô-ma lại không gặp Chúa ? Lại hụt mất cơ hội ?
    Tô-ma buồn rầu, bi quan, choáng váng
    đến độ không muốn gặp các thân hữu,
    Ông đóng cửa ở nhà một mình.
    Ông luôn ôm ấp sự bất mãn, thất vọng, buồn phiền...
    Thế là Tô-ma vắng mặt khi Chúa hiện đến với các Tông Đồ.
    Thử nghĩ xem:
    Tô-ma đánh mất cơ hội gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh,
    Tô-ma mất dịp thấy Sự Thật và Sự Sống,
    Tô-ma mất dây liên lạc của cộng đoàn tín hữu.
    Trên con đường ngắn ngủi của cuộc đời này,
    Chúng ta đánh mất quá nhiều cơ hội.
    Chúng ta bỏ lỡ mất cơ hội để tin,
    để hy vọng,
    để lớn lên trong Chúa.
    Chúng ta bỏ lỡ sự hiện diện của Chúa,
    ơn tha thứ của Chúa,
    lòng can đảm để chịu thử thách,
    niềm hy vọng tỏa lên từ những khổ đau,
    sự thu hút khiến ta không thất vọng,
    và sự chiến thắng vinh quang trên cái chết...
    Phải chăng vì bỏ lỡ những cơ hội như thế
    Mà Đức Tin của chúng ta bị già nua, tuổi tác, cằn cỗi, khô gầy,
    thay vì một Đức Tin tươi trẻ và sống động ?
    Vì Tô-ma đã vắng mặt,
    Nên ông không tin những gì mà các bạn ông chia sẻ.
    Họ nói với ông rằng:
    Họ đã gặp Chúa Giê-su Phục Sinh, Người vẫn hằng sống !
    Tô-ma không thể tin được,
    Ông biết rằng các bạn ông là những người đáng tin cậy,
    nhưng trước một việc như thế thì ông không tin.
    Ông biết rằng họ là những người đáng trọng,
    nhưng lời nói của họ thì không thể trọng trong vụ này.
    Ông đã quá quen với những tin tức đen tối.
    Nếu họ nói cho ông những tin tức buồn nản đau đớn,
    hoặc bị bách hại, thì ông sẽ tin ngay.
    Nhưng với tin tức đầy lạc quan kia, ông đâm ra nghi ngờ.
    Không phải vì họ không đáng tin,
    Nhưng vì con người của ông không cho phép ông tin.
    "Nếu tôi không thấy dấu đinh nơi tay Người, và tra tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Người, tôi sẽ không tin..." ( Ga 20, 25 )
    Đây không phải là một người yếu Đức Tin,
    Đây là một người không có một chút Đức Tin nào cả.
    Không phải là một Tô-ma đa nghi nữa,
    mà là một Tô-ma đóng cửa, bịt tai và cứng lòng.
    Câu nói của ông xúc phạm đến Đức Ki-tô quá !
    Tuy nhiên,
    ông nói "nếu" tức là ông còn cho Chúa một điều kiện.
    Chúa đã chấp nhận điều kiện ấy.
    Chúa đã chấp nhận một lời thỉnh cầu,
    Dù cho lời thỉnh cầu ấy xúc phạm đến đâu, miễn là chân thành.
    Một tuần trôi qua.
    Mỗi ngày, các bạn ông đều thuyết phục ông.
    Vô ích, ông không nghe gì cả.
    Thế nhưng, sự nhiệt thành của nhóm môn đệ đã kêu gọi Tô-ma đến cầu nguyện với họ tám ngày sau đó.
    Và Chúa Giê-su lại hiện đến.
    Người chịu thua sự cứng lòng của kẻ đa nghi,
    Người hạ mình trước một kẻ nghi ngờ và bi quan,
    Người hiện đến với câu nói hôm trước của Tô-ma,
    Người lập lại:
    "Tô-ma, hãy đặt ngón tay anh vào đây,
    Hãy nhìn xem tay Thầy,
    Hãy đưa ngón tay anh tra vào cạnh sườn Thầy,
    Và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy Tin." ( Ga 20, 27 )
    Đây là một việc quá sức tưởng tượng của Tô-ma,
    Trong khoảnh khắc,Tô-ma biến đổi
    từ một kẻ thờ ơ thành một người bạn,
    từ một kẻ chối Chúa thành một kẻ tuyên xưng Chúa,
    từ một kẻ hoài nghi thành một người đầy tin tưởng.
    Hơn thế nữa, ông còn qua mặt tất cả các bạn khi ông tuyên xưng: "Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con..." ( Ga 20, 28 )
    Từ một người tối đen, ông trở nên một kẻ tin ngời sáng...
    Ông đã không thực hiện điều ông đòi hỏi trước đây .
    Ông không tự đặt tay mình vào các vết thương,
    Không còn cần thiết nữa rồi...
    Dù cho đường ông đi tràn đầy nghi ngờ và sợ hãi,
    Ông đã đến được vùng ánh sáng.
    Bây giờ, tất cả đối với ông là chắc chắn, tất cả nhũng gì mà trước đây ông đã nghi ngờ...
    Truyền thống cho thấy rằng ông đã đến rao giảng ở An-độ và chịu tử đạo ở đây. Vâng, trong sự nghi ngờ chính đáng vẫn có nhiều Đức Tin hơn là một niềm tin nửa vời...
    Chúa còn nói thêm với Tô-ma,
    câu Người nói với kẻ nghi ngờ giờ đây đã trở nên thành tín:
    "Bởi thấy Thầy, anh đã tin,
    Phúc cho những ai không thấy mà vẫn tin" ( Ga 20, 29 )
    Nếu tìm ý nghĩa cho câu nói ấy, thì ta phải hiểu rằng:
    Không phải các Tông Đồ may mắn, còn chúng ta thì thiệt thòi.
    Chúng ta không có quyền nói: "Như vậy là thiếu công bình...
    Các Tông Đồ đã thấy Người, còn chúng ta thì không được thấy.
    Nếu chúng ta không thấy được Người
    Thì làm sao Người lại có thể chờ đợi lòng tin ở chúng ta ?”
    Thế thì, Đức Tin là gì ?
    Tin có nghĩa là hiểu biết điều mình không trông thấy.
    Và quả thật, phúc cho những ai Tin vì họ sẽ thấy.
    Ta để ý chỉ có Gio-an mới nhắc tới Tô-ma, nhắc tới ba lần.
    Lý do là vì Gio-an viết Phúc Âm cốt để nhấn mạnh về Đức Tin.
    Một người như Tô-ma sẽ cho chúng ta một bài học,
    một niềm hy vọng.
    Tô-ma thực tế đến như thế...
    Tô-ma bi quan đến thế,
    Tô-ma thực tế đến thế,
    Tô-ma nghi ngờ đến thế,
    Vậy mà cuối cùng Tô-ma đã tin mà không cần phải thử nữa...
    Điều này nói lên rằng:
    Chúng ta không thể nào sống mãi trong bóng tối,
    nếu chúng ta vẫn còn thắc mắc một cách chính đáng,
    trong khi vẫn một lòng sánh bước với Đức Ki-tô...
    Nếu ngày nay chúng ta có đi đến Thánh Địa,
    Chúng ta sẽ thấy nơi Chúa đã đến, đường Chúa đã đi qua,
    Nhưng chúng ta không thể chứng kiến Chúa chữa bệnh,
    không thể nghe tận tai Lời Chúa giảng,
    không thể chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô Phục Sinh.
    Chúng ta chỉ thấy núi non, sông biển, sa mạc,
    Nhưng Chúa Giê-su thì chúng ta không thể gặp.
    Vậy, có đến đó hay ở nơi đây cũng chẳng khác gì...
    "Phúc thay ai không thấy mà tin"
    Nếu chúng ta thật sự thắc mắc
    Thì chúng ta có thể tìm đến Chúa Ki-tô Phục Sinh qua Đức Tin.
    Ngay cả Tô-ma, khi ông nói: "Lạy Chúa của con..."
    thì ông đã nói bằng kinh nghiệm,
    Nhưng khi ông nói thêm: "...và là Thiên Chúa của con"
    thì ông đã nói bằng Đức Tin.
    Cái gì mắt thấy tai nghe đã cho phép ông kết luận rằng:
    Thầy của ông là Thiên Chúa Hằng Sống ?
    "Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng,
    Tin là cách nhận thức những thực tại không trông thấy,
    Còn không có Đức Tin thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa,
    Vì ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là Người hiện hữu,
    Và Người sẽ thưởng công những ai tìm kiếm Người" ( Dt 11, 1 – 6 )
    Chúa Giê-su đã sống lại:
    Người đã hiện ra cho các Tông Đồ,
    Người đã hiện ra cho Tô-ma.
    Đó là sự kiện không thể phủ nhận.
    Vậy mà, điều đó chúng ta lại không có đủ chứng cứ.
    Ki-tô giáo đặt nền tảng là Chúa Ki-tô Phục Sinh.
    Vì thế, vấn đề của chúng ta là chọn lựa:
    Chọn Tin Người hay là phủ nhận Người mà thôi.
    Nhưng, dù ta Tin hay là ta phủ nhận thì ...
    Người vẫn còn đó: Con Thiên Chúa,
    Người đã sống lại và Người hằng sống,
    Người ở giữa chúng ta...
    "Ở giữa các ông có một Người mà các ông không biết" ( Ga 1, 26 )
    Người ở đó, trước mặt chúng ta,
    Tay Người đưa ra, vết thương còn rướm máu,
    Người bảo chúng ta:
    "Hãy tra tay vào đây,
    Hãy nhìn rõ tay Thầy,
    Hãy đặt tay vào cạnh sườn Thầy,
    Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy Tin..."
    Quả thật,
    “Phúc Cho Những Ai Không Thấy Mà Vẫn Tin..."

  14. #12
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    PHÊ-RÔ, VỊ TÔNG ĐỒ KHIÊM NHƯỜNG
    ( Mt 4, 18 – 20 )

    Trong số 12 Tông Đồ, vị được nhắc đến nhiều nhất là Phê-rô. Phê-rô đứng đầu danh sách. Người ta thường nghĩ Phê-rô là một Tông Đồ nhiều khuyết điểm nhất, điều đó không hoàn toàn là sai, vì Phê-rô đã có nhiều hành động hăng hái nhất, đồng thời cũng có nhiều hành động sai lầm nhất. Nhiều người nhìn ông như một con người bốc đồng. Thật ra ông là Tông Đồ nổi bật nhất, nhiều khả năng nhất, sáng chói nhất.
    Chúng ta đã nói nhiều về các Tông Đồ kia, để thấy rằng họ là những con người tầm thường, khả năng của họ rất ít:
    An-rê, anh của Phê-rô
    chỉ có khả năng duy nhất là đem từng người đến với Chúa.
    Giu-đa Ta-đê-ô là một người thinh lặng, ăn nói khó khăn.
    Gia-cô-bê Hậu thì sống trong bóng tối, không một ai chú ý đến.
    Nhưng, những gì họ thiếu thì Phê-rô có đủ,
    Và ngay cả khả năng họ có thì Phê-rô lại cũng giỏi hơn họ...
    Trong nhóm cần một người đứng đầu, người đó phải là Phê-rô.
    Trước khi gặp Chúa, Phê-rô đã là người chỉ huy trong việc chài lưới. Phê-rô luôn ra lệnh cho mọi người.
    Khi trở thành Tông Đồ, ông nổi bật trong Kinh Thánh:
    Phê-rô là người mở miệng đầu tiên,
    Phê-rô là người hành động trước nhất:
    ông nóng bỏng, hăng say, tích cực, cực đoan, hướng ngoại.
    ông là ĐÁ TẢNG, vì: "Thầy bảo anh, anh là ĐÁ".
    Nhưng con đường phải đi để trở nên Phê-rô,
    để trở nên ĐÁ,
    để trở nên vững chắc và cứng rắn,
    không phải là con đường dễ đi.
    Đó là con đường hẹp mà Phúc Âm đã vạch ra một cách lý thú...
    Phê-rô, với tất cả lời nói và hành vi có vẻ đao to búa lớn,
    lại mang bên trong một tâm hồn nhạy cảm.
    Phê-rô biết rõ lòng mình,
    và chính lòng khiêm nhường này
    đã làm cho ông trở nên một vị thánh lớn.
    Phê-rô không sử dụng những khả năng để tìm lợi lộc cho mình,
    Phê-rô cũng biết mình còn nhiều thiếu sót.
    Điều này hiện rõ ngay trong lần đầu tiên chúng ta gặp ông:
    Họ vừa đi chài về, suốt một đêm không có gì, họ mệt mỏi...
    Chúa Giê-su đến giảng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét.
    Giảng xong, Người bảo Si-môn:
    "Hãy ra khơi mà thả lưới đánh cá"
    Dĩ nhiên, ông phản kháng: "Thưa Thầy, suốt đêm chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì..." Rồi ông lại đổi ý: "Nhưng nếu Thầy bảo thế thì tôi thả vậy..." ( Lc 5, 4 – 6 )
    Sau một đêm thất bại, họ lại đi thả lưới,
    Và họ đã bắt được một mẻ thật lớn, lớn đến độ lưới rách mất.
    An-rê không phải là không xúc động,
    Gio-an thì bị lay chuyển sâu xa,
    Nhưng Phê-rô, trước phép lạ, đã bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà nói: "Thưa Thầy, xin Thầy hãy tránh xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi" ( Lc 5, 8 )
    Phê-rô không thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Chúa,
    Lòng ăn năn bộc phát và tức thời này,
    Lòng khiêm nhường chân thành này,
    đã biến Phê-rô trở nên người thuyền trưởng
    trên một thuyền chài loại mới,
    Đó là thủ lĩnh của nhóm 12:
    "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới người."
    Và suốt đời, Phê-rô vẫn thế,
    Ông là một người khiêm nhường,
    Và nhờ đó, ông học hỏi được nhiều nơi Chúa,
    Vì ơn Chúa chỉ ban cho những kẻ khiêm nhường.
    Chính lòng khiêm nhường này đã cứu ông, vì ông cũng phản bội như Giu-đa. Nhưng nhờ khiêm nhường mà ông không tuyệt vọng như Giu-đa...
    Một lần khác, ( x. Gl 2, 11 – 15 ), Phao-lô chỉ trích ông trước mọi người khi ông đến An-ti-ô-khi-a, Phao-lô rầy ông đã làm cớ giả hình cho các tín hữu. Phao-lô, một Tông Đồ tân tòng, lại dám khiển trách Phê-rô, người cầm đầu Giáo Hội, không phải là nói nhỏ nhẹ mà là làm mất mặt...
    Chúng ta tưởng tượng ra một vị Giáo Hoàng bị một vị Giám Mục mới thụ phong nào đó khiển trách như thế...
    Thế mà Phê-rô thinh lặng,
    Phê-rô không tự bào chữa lấy một tiếng,
    Ông biết rằng ông sai, ông không chống chế...
    Cuối đời, ông viết lá thư thể hiện lòng nhu mì của mình,
    Ông nói rằng ông không bao giờ quên là ông đã được tha thứ:
    "Hãy kết hợp Đức Tin với nhân đức hiểu biết, nhịn nhục,
    kiên nhẫn, sốt mến và yêu thương...
    Ai thiếu các điều ấy là kẻ đui mù, không thấy xa,
    Vì kẻ ấy quên mình được tẩy xóa khỏi tội lỗi xưa kia..." ( 2 Pr 1, 5 – 9 )
    Người nào khiêm nhường vì nhớ tới bản chất tội lỗi của mình,
    người đó sẽ được Chúa làm cho vững mạnh.
    Đấy là con đường để trở nên ĐÁ TẢNG.
    Phê-rô đã sa ngã thường xuyên, sa ngã thậm tệ,
    Khi không được thần hứng là ông rơi vào tình trạng thiếu sót yếu hèn. Ví dụ như lần các môn đệ ở trên thuyền trong một đêm sóng lớn, bỗng dưng, họ thấy "một bóng ma" đi trên mặt biển về hướng họ. Cả Phê-rô cũng kinh sợ và kêu lên.
    “Bóng ma" ấy nói với họ:
    "Yên chí, chính Thầy đây, đừng sợ." ( Mt 14, 27 )
    Thầy của họ đến đấy ư ?
    Phê-rô không dám tin điều đó, điều mà Thầy đang làm...
    Nhưng vốn tính bốc đồng, ông nghĩ rằng mình cũng làm được như thế, nếu như Thầy muốn. Nếu quả thật là Thầy thì chính ông cũng bước đi được trên mặt nước như Thầy:
    "Thưa Thầy, nếu thật là Thầy,
    Hãy truyền cho con đi trên nước mà đến với Thầy."
    Chúa bảo: "Hãy đến đây."
    Và Phê-rô bước xuống nước không suy nghĩ, vụt chạy.
    Bất chợt, ông ý thức được việc ông đang làm:
    "Đi trên nước, chuyện lạ đời,
    Chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe, không hợp lý tí nào."
    Và bỗng ông đâm sợ.
    Thế là ông chìm xuống nước ngay.
    Ông la lên: "Thưa Thầy, xin cứu con"
    Chúa Giê-su đã đỡ ông và đưa ông về thuyền.
    Phê-rô đã tin tưởng trước hết,
    Phê-rô cũng sa ngã trước hết.
    Con người bộc trực đó đã tuyên xưng Đức Tin không đắn đo.
    Ngày mà Chúa hỏi các Tông Đồ một câu chủ yếu:
    "Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai ?" ( Mt 16, 15 – 23 )
    Phê-rô mở miệng ngay, trả lời không do dự:
    "Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa Hằng Sống."
    Chúa Giê-su cho mọi người biết rằng câu nói đó không từ con người Phê-rô, nhưng từ Thiên Chúa mà ra: "Không phải thịt máu đã mạc khải cho anh, mà Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời..."
    Rồi Chúa Giê-su nói thêm: "Anh là Phê-rô, là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy, Và quyền lực âm phủ sẽ không thắng nổi." ( Mt 16, 10 )
    Người vừa tuyên bố cho Si-môn Phê-rô biết ông là Đá
    thì Tảng Đá ấy... nát ra thành cát !
    Chúa Giê-su nói cho các Tông Đồ nghe về cuộc Thương Khó của Người: Người sẽ phải chịu đau khổ và sẽ bị giết. Phê-rô không tin và lên tiếng: "Thưa Thầy, chuyện ấy đâu có thể xảy ra với Thầy được..."
    Chúa Giê-su đã phải nặng lời với ông: "Xéo đi đằng sau Ta, hỡi Xa-tan, ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là ý tưởng của loài người..." ( Mt 16, 21 – 23 )
    Đấy, con người của Phê-rô là như thế:
    Vài phút trước, ông được Thiên Chúa cảm hứng,
    Vài phút sau, ông là dụng cụ của Xa-tan.
    Ông đã sa ngã biết bao lần trước khi trở nên Đá Tảng rắn chắc...
    Sau ba năm theo Chúa, ông tự cho rằng:
    Ông có quyền nghĩ rằng mình đã vững chãi,
    Ông có thể mang tên Đá mà không mắc cỡ,
    Ông cảm thấy mạnh mẽ, vững vàng trong Đức Tin.
    Bây giờ thì không còn gì có thể lay chuyển Phê-rô,
    ông xứng đáng là thủ lĩnh nhóm 12 Tông Đồ.
    Thế nên, ông cảm thấy chạm tự ái khi nghe Chúa Giê-su nhắc lại lời Kinh Thánh: "Anh em sẽ bị vấp ngã hết thảy bởi đã viết: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên và chiên sẽ tán loạn." ( Mt 14, 27 – 31 ).
    Nghe vậy, Phê-rô liền thách thức:
    "Dầu cho mọi người đều sẽ vấp ngã, nhưng con thì không".
    Ông sẽ không bao giờ chối bỏ Chúa.
    Dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa,
    ông cũng sẽ không là kẻ đào ngũ.
    Ông dứt lời, Chúa quay về phía ông, nói dịu dàng nhưng quả quyết: "Thầy bảo anh, chính anh, hôm nay, nội đêm nay, trước lúc gà gáy hai lần, anh sẽ chối Thầy ba lần."
    Điều này làm ông bực tức. Ông hiểu là ông nói gì chứ. Ông quả quyết lập lại: "Dù phải cùng chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy."
    Vâng, tảng đá này quyết không sụp đổ...
    Thế nhưng, chuyện gì xẩy ra đêm hôm ấy ?
    Chúng ta vẫn còn nhớ rõ...
    Đêm hôm ấy, không ai bắt ông phải chết với Chúa,
    không có một quyền bính nào tra hỏi,
    chỉ có mấy người đầy tớ của vị Thượng Phẩm
    hỏi gặng bâng quơ, hai nữ và một nam.
    Họ nói: "Người này cũng ở trong nhóm..."
    Thế là ông chối luôn ba lần.
    Ông thề bán mạng: “Tôi không biềt người ấy.”
    Ôi Đá Tảng ! Ôi Phê-rô !
    Ông đã nói lời can đảm trước đó,
    Ông đã quả quyết sẽ không chối bỏ Thầy,
    Thế mà bây giờ....
    Gà cất tiếng gáy, ông sực nhớ lại lời Thầy !
    Lu-ca nói rõ: “Ngay lúc ấy, ông còn đang nói, thì gà gáy, Và Chúa quay lại nhìn Phê-rô.” ( Lc 22, 60 )
    Chúa Giê-su xuất hiện cùng với tiếng gà gáy.
    Những lời nhắn nhủ đầu hôm tràn về trong ký ức ông...
    Ngay lúc ấy... trên bậc thang dinh thượng tế,
    Chúa Giê-su bị xỉ vả,
    bị đánh đòn,
    bị xử án,
    Người nhìn thẳng xuống.
    Phê-rô ngước mắt nhìn lên,
    mắt ông gặp mắt Chúa: Người đã biết hết !...
    Phê-rô không chịu đựng nổi nữa,
    ông cắn chặt môi, nước mắt tuôn trào,
    Phê-rô chạy ra khỏi pháp đình,
    ra khỏi cổng, đi cho khuất...
    Tâm hồn Phê-rô nặng trĩu, cảm xúc dâng trào,
    Ông đã bổ vụn ra như thanh gỗ mục,
    Đá đã tan thành cát...
    Đêm hôm đó,
    một biến cố xảy ra trong lòng Phê-rô:
    một biến cố trọng đại,
    một biến cố khiến ông thay đổi,
    một biến cố khiến ông trở lại.
    ( nếu chúng ta có thể dùng chữ "trở lại" đối với một Tông Đồ )
    Một cái gì đó đã chết trong ông,
    Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự mãn, tự tin quá mức,
    sự lên mặt vênh váo, sức mạnh mà ông tự gán cho mình.
    Ông đã ngỡ mình là Đá, không có gì lay chuyển nổi ư ?
    Khôi hài thay, ông là cát bụi, ông đã rõ mình chỉ là cát bụi...
    Không biết ông có được Chúa tha thứ không nhỉ ?
    Ông nhớ mồn một câu nói của Chúa: phải tha thứ 70 lần 7,
    Thế nhưng, về phần ông, ông có thể tự tha thứ cho mình không ?
    Ông ngủ không yên,
    ông ăn không ngon,
    ông gặm nhấm tội lỗi của mình.
    Thế rồi, Chúa sống lại,
    Phê-rô chạy vội đến ngôi mồ trống cùng với Gio-an.
    Phê-rô còn nghe những người khác thuật chuyện.
    Rồi các Tông Đồ được gặp Chúa,
    Còn Phê-rô thì đứng đó thinh lặng,
    không dám mở miệng vui mừng.
    Ông vốn là con người nông nổi, thích nói lớn tiếng,
    bây giờ thì ông cúi đầu câm lặng...
    Rồi đến ngày ông về lại Ga-li-lê,
    Ông trở về với thuyền chài mãnh lưới trên hồ Ghen-nê-xa-rét.
    Ông trở về quê quán xưa kia,
    trở về với con đường cũ, nếp sống cũ,
    để cố quên những dày vò,
    để cố quên đi lần vấp ngã...
    Đêm hôm ấy, ông và các bạn không bắt được con cá nào như lần đầu tiên gặp Chúa. Có một người đứng đó, ở bên bờ hồ, Người ấy bảo đem lưới tung sang bên phải mạn thuyền, họ đã thi hành và bắt được mẻ cá nhiều vô kể.
    Tới khi ấy thì Gio-an thốt lên: "Chính Thầy đó !" ( Ga 21, 1 – 7 )
    Phê-rô choáng váng, ông phóng mình xuống nước bơi vào bờ.
    Thầy đã nhóm ngọn lửa, bảo họ lấy cá đem nướng.
    Phê-rô vội vã thi hành, không dám nói một lời.
    Sau bữa ăn, Chúa phá vỡ bầu khí thinh lặng.
    Người quay về Phê-rô:
    "Hỡi Si-môn con của Giô-na,
    anh có yêu Thầy hơn những người này không ?"
    ( Chúng ta lưu ý thấy Chúa gọi ông bằng tên riêng chứ không gọi bằng tên Chúa đã đặt cho ông hôm nào: Phê-rô-Đá... )
    Phê-rô cảm thấy nhói đau trong lòng,
    Ông còn quyền để nói rằng ông có yêu Thầy không ?
    Làm sao có thể nói gãy gọn khi ông đã lỡ chối bỏ Thầy mình ?
    "Thưa Thầy, Thầy biết..."
    Phê-rô chỉ xác nhận điều ấy, ông không nói láo được. Người đời có thể khinh bỉ ông, người đời không thể chấp nhận được là ta có thể đồng thời tin tưởng và phản bội, yêu thương và chối bỏ.
    Vâng, người đời không biết nhưng Thiên Chúa biết.
    “Thưa Thầy, Thầy biết rằng con yêu mến Thầy."
    Chúa Giê-su quay về phía Phê-rô lần nữa, lập lại câu hỏi:
    "Si-môn, con của Giô-na, anh có yêu Thầy không ?"
    Ông đã quay lưng, đào ngũ, chối Chúa,
    Làm sao ông có thể nói rằng ông yêu Chúa ?
    "Thưa Thầy, Thầy biết rằng con yêu mến Thầy."
    Rồi lần thứ ba, Chúa hỏi lại để nghe lời tuyên xưng tình yêu của kẻ Chúa yêu thương nhiều nhất vì đã vấp phạm nhiều nhất:
    "Si-môn, con của Giô-na, anh có yêu Thầy không ?"
    “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rằng con yêu mến Thầy."
    Ba lần ông chối Người,
    Ba lần Người cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói yêu thương,
    để tuyên xưng lòng tin của mình.
    Không một lời rầy la,
    không một lời trách móc,
    không một lời buộc tội,
    Chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương.
    Đấy là Ơn Chúa xuống trên những kẻ khiêm nhường...
    Anh Phê-rô ơi, anh buồn khi thấy Chúa hỏi anh lần thứ ba,
    Chúng tôi không nghĩ anh buồn vì Chúa không tin lời anh nói,
    Anh biết Chúa tin anh chứ, nhưng anh vẫn buồn...
    vì trước tình yêu vô bờ đó, anh đã có lần sợ hãi đến phủ nhận.
    Chúng tôi chắc hẳn anh sẽ òa lên khóc
    nếu sau bao ngày anh ăn năn, anh vẫn còn có được nước mắt,
    vì có lần nghe đoạn Phúc Âm này chúng tôi cũng đã khóc òa...
    Thế rồi, Chúa nhắn nhủ Phê-rô trong sứ vụ mới:
    "Hãy chăn giữ chiên Thầy"
    Phê-rô được sai đi đến Giê-ru-sa-lem, trở về chính nơi ông đã vấp ngã, và giờ đây ông có đủ khiêm nhường để không phản đối Chúa nữa.
    Ông vâng lời trở lại Giê-ru-sa-lem, và ở đó, lần đầu tiên, ông đã rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình. Ông dùng khả năng của mình để đem về cho Chúa 3.000 tín hữu sau một bài giảng duy nhất. Ông phải đối diện với gian nguy, bắt bớ.
    Trước kia ông run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ.
    Giờ đây ông đối diện với đám đông mà không hề run rẩy.
    Tảng Đá bắt đầu kết tinh...
    Và sau này, mỗi lần ông ở bên bờ sa ngã thì sự hiện diện của Thầy lại kéo ông về thực tế...
    Câu chuyện truyền kỳ về những ngày cuối đời của ông chắc hẳn chứa đựng ít nhiều sự thật.
    Ông đến Rô-ma trong thời kỳ bắt đạo. Ông chứng kiến một số người tử đạo và ông đã sợ hãi bỏ ra ngoài mà trốn. Ra khỏi thành, ông gặp một người vai mang thập giá đi về phía Rô-ma. Ông hỏi: "Quo Vadis ?" nghĩa là "Người đi đâu đó ?” Người ấy trả lời: "Thầy vào Rô-ma thay con để cho người ta đóng đinh một lần nữa." Phê-rô chợt hiểu, ông vội vã quay lại, trở vào Rô-ma và chịu tử đạo tại đấy...
    Lòng khiêm nhường của Phê-rô,
    Lòng kính mến Chúa của Phê-rô,
    Kinh nghiệm về ơn tha thứ của Chúa,
    Tất cả đã kéo ông trở lại với tình yêu...
    Ông đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa ông đi,
    dù nơi đó là Rô-ma,
    dù nơi đó là cái chết,
    dù nơi đó là thập giá !
    Và truyền thống cho ta biết rằng ông tự nhận không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên đã xin được chết trên thập giá trở ngược, đầu quay xuống đất.
    Ông đã thực hiện Lời Chúa tiên báo: "Khi về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đi đến nơi mà anh không muốn." Chúa đã nói như thế để ám chỉ Phê-rô phải chết thế nào mà tôn vinh Thiên Chúa. ( Ga 21, 18 – 19 )...
    Cuối cùng, Tảng Đá của Giáo Hội đã được kết tinh.
    Cuối cùng Phê-rô đã hiểu được rằng:
    Hiến Thân vì Chúa là Lãnh Nhận,
    Nô Lệ cho Chúa là Tự Do,
    Và Chết với Chúa là Sống Mãi...

  15. #13
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    GIA-CÔ-BÊ DÊ-BÊ-ĐÊ, VỊ TÔNG ĐỒ CAO VỌNG
    ( Mt 4, 21 - 22 )

    Ông tên là Gia-cô-bê, em ông cũng là Tông Đồ tên là Gio-an. Cha ông tên là Dê-bê-đê, một người ngư phủ. Mẹ ông tên là Sa-lô-mê, chị họ của bà Ma-ri-a ( có thể là mẹ Đức Giê-su Na-da-rét ).
    Bà Sa-lô-mê là một con người độc đáo. Có một lần bà đến gặp Đức Giê-su và thỉnh cầu cho con bà. Bà nói: "Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây, được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài trong nước của Ngài..." ( Mt 20, 21 ). Đấy, bà xin xỏ cho hai con trai được hai chỗ danh dự, thành hai quan cận thần, chức tước cỡ lớn, áo mão xênh xang.
    Có những bà mẹ thúc giục con mình thực hiện điều mình mơ ước nhưng không thực hiện được. Họ xô đẩy, níu kéo con mình, họ làm áp lực. Họ muốn con mình được giàu sang vinh dự. Họ không chỉ mưu ích cho con mà còn cho cả chính mình. Thử nghĩ, khi hai con ông Dê-bê-đê làm quan to trong triều thì mọi người sẽ nhìn bà bằng cặp mắt nể phục biết bao...
    Phía sau Gia-cô-bê là một bà mẹ đầy cao vọng.
    Nhưng ta chớ quên đi điều này: Bà đã theo Chúa Ki-tô, Bà tin vào Chúa và bà đã được hoán cải. Bà đứng dưới chân thập giá khi Chúa chết. Chúa đã không lên ngai vàng mà Người chỉ lên thập giá. Và dưới chân Người, bà Sa-lô-mê đứng đó.
    Cao vọng của người mẹ được chuyển qua người con, qua Gia-cô-bê hơn là Gio-an.
    Nhưng, dù cho Gio-an mang giòng máu của bà nhưng Gio-an có một tâm hồn đầy tế nhị, yêu thương nên cao vọng xâm chiếm lòng ông ít hơn là đối với Gia-cô-bê.
    Gia-cô-bê là anh, làm nghề ngư phủ với cha mình. Con người của Gia-cô-bê sôi sục, nóng bỏng, vì thế, Gia-cô-bê dễ dàng làm mồi cho cao vọng. Ông được Chúa gọi là "Con-Của-Sấm-Sét" để thấy rằng ông là người nóng nảy, cuồng nhiệt đến thế nào. Điều này cũng giải thích được phản ứng của ông đối với dân Sa-ma-ri-a.
    Đức Giê-su về Giê-ru-sa-lem và phải đi qua miền Sa-ma-ri-a. Giữa người Sa-ma-ri-a và người Do-thái vốn có sự xung khắc. Đức Giê-su sai người đến một làng gần đó để chuẩn bị chỗ cho Người và các Tông Đồ nhưng dân Sa-ma-ri-a từ chối. Thế là Gia-cô-bê và Gio-an nổi giận. Họ nhớ lại có lần tiên tri Ê-li-a gọi lửa từ trời xuống, họ cũng đề nghị với Chúa tương tự: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng ta khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt bọn chúng không ?" ( Lc 9, 54 )
    Chúng ta chứng tỏ cho bọn họ thấy quyền năng, cho mọi người biết rằng chúng ta có quyền sai lửa xuống cho họ khiếp.
    Nhưng, Đức Giê-su quở trách họ: "Anh em không biết anh em ứng theo Thần Khí nào. Vì Con Loài Người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta mà là để cứu họ..." ( Lc 9, 55 – 56 ).
    Cao vọng của người mẹ đã truyền sang người con đến độ nếu người mẹ không xin thì con cũng tự ý xin.
    Bằng cớ là thánh Mác-cô đã kể lại câu chuyện tương tự nhưng lại không nhắc đến người mẹ mà chỉ để cho chính Gia-cô-bê và Gio-an tự miệng nói ra: "Xin Thầy cho chúng con được ngồi một người bên tả, một người bên hữu trong vinh quang của Thầy" ( Mc 10, 37 ).
    Và Chúa đã dạy họ một bài học. Chúa cho họ biết rằng những chỗ danh dự trên trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng: "Anh em không biết anh em xin gì ? Anh em có thể uống chén Thầy uống và chịu thanh tẩy cùng một thứ thanh tẩy mà Thầy chịu không ?" ( Mc 10, 38 ).
    Muốn là phải được.
    Người có nhiều cao vọng thì hứa thi hành tất cả.
    Gia-cô-bê không hiểu mình đã hứa một điều hệ trọng như thế nào khi ông vội vàng đáp lời Chúa là: "Thưa Thầy được ạ !"
    Và câu trả lời của Chúa tiếp đó quả thật là khó hiểu đối với ông:
    "Chén của Thầy, anh em sẽ uống,
    Thanh tẩy Thầy chịu, anh em sẽ chịu,
    Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả của Thầy,
    Thầy không có quyền ban,
    Nhưng là dành cho ai đã tiền định." ( Mc 10, 39 – 40 )
    Mãi sau này, Gia-cô-bê mới hiểu ra.
    Và lúc ấy, có thể ông nhớ lại lời thỉnh cầu lúc trước và cảm tạ Chúa vì Người đã không nhận lời...
    Bên hữu và bên tả ư ?
    Chắc không phải trong đêm Thầy bị phản bội,
    vì ông đã bỏ rơi Người mất.
    Chắc không phải khi Người bị đưa ra công nghị để bị la ó chế diễu,
    Chắc không phải khi Người bị đánh tả tơi trong sân Phi-la-tô,
    Chắc không phải khi Người bị bắt phải vác khổ giá,
    Chắc không phải khi Người bị đóng đinh mà treo lên giữa trời.
    Không,
    Gia-cô-bê không muốn ở bên hữu bên tả Người những khi ấy.
    Gia-cô-bê mừng thầm
    vì lời thỉnh cầu đã không được Chúa chấp thuận.
    Gia-cô-bê cũng không đứng gần thánh giá Chúa,
    Gia-cô-bê không dám: ông quá hèn nhát...
    Thế nhưng,
    Đức Giê-su đã nói với ông rằng ông sẽ uống chén với Người.
    Thử hỏi trong số chúng ta
    có được mấy người mong muốn uống chén Chúa uống ?
    chén của đau khổ, của hấp hối,
    chén của khó khăn, của thử thách...
    Chén ở đây là con đường thực hiện Ý Chúa.
    "Thưa được", chúng con uống được...
    Chúng ta có ý thức đưọc chúng ta nói gì đó chăng ?
    Chúng ta có hiểu được giá phải trả
    khi trở nên môn đệ Chúa chăng ?
    Chúng ta có biết được tương lai ra sao khi theo Chúa chăng ?
    Ai chấp nhận Chúa là chấp nhận vác thập giá theo Chúa.
    Người theo Chúa đầu tiên là Áp-ra-ham. Áp-ra-ham là người đầu tiên trung thành bước theo tiếng nói "bóc lột" của Thiên Chúa: "Hãy ra đi, bỏ tất cả của cải ngươi, xứ sở mgươi, di sản của cha ông ngươi, tập quán, quá khứ của ngươi..." Và Áp-ra-ham đã ra đi mà không biết mình đi về đâu ! ( Dt 11, 8 )
    Và sau này, Gia-cô-bê cũng đã uống chén đó: ông chịu tử đạo,
    Ông là Tông Đồ đầu tiên đổ máu dưới thời Hê-rô-đê,
    Ông đã uống cạn chén Chúa đã uống...
    Trong câu chuyện này, ta thấy một sự kiện khiến ta suy tư về chữ "thánh" nằm trước tên các Tông Đồ như thánh Phê-rô, thánh An-rê, thánh Mát-thêu...
    "Khi 10 người kia nghe được nhũng lời thỉnh cầu của Gia-cô-bê và Gio-an, họ phẫn uất với hai anh em..." ( Mt 20, 24 ).
    Vâng, họ ganh tỵ, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như những "Đứa-Con-Của-Sấm-Sét".
    Phân tích ra như vậy thật là nản lòng. Hào quang các vị cũng bị vẩn đục ít nhiều chăng ? Ta cứ nghĩ rằng mười ba người này thánh thiện, ta gán cho họ những nhân đức cao siêu.
    Họ thay đổi cả thế giới,
    họ di chuyển được cả núi non.
    Và, ta đã tạc tượng cho họ.
    Giờ đây, xem ra họ cũng như ta vậy thôi:
    họ bất toàn,
    họ ích kỷ,
    họ đầy ắp cao vọng, và thêm vào đó,
    họ còn giả hình nữa !
    Nhưng, đây mới là điều đáng nói:
    Đức Giê-su đã chọn những người ấy.
    Và, quả thật họ đã thay đổi cả bộ mặt thế giới,
    họ đã di chuyển cả núi non.
    Đức Giê-su đã không chọn những con người hoàn hảo.
    Người không chọn những kẻ thánh thiện ngay từ trong lòng mẹ.
    Chúa đã chọn những người có máu ganh tỵ,
    ích kỷ,
    tham lam,
    cao vọng nhất, như Gia-cô-bê.
    Người chọn họ vì Người muốn hoán cải họ.
    Hoán cải thế nào ?
    Thưa, bằng chính đời sống của Người.
    Họ noi gương Người,
    gương của Đấng quỳ xuống mà rửa chân cho họ:
    "Ai muốn làm lớn trong anh em thì hãy hầu hạ anh em" ( Mt 20, 27 ).
    Chúa còn hoán cải họ bằng cái chết của Người.
    Họ biết vì sao Người sống, họ nghe Lời Người dạy.
    Giờ đây, Người thi hành điều đã loan báo.
    Người vâng phục Thánh Ý Cha cho đến chết,
    dù là cái chết nhục nhã trên thập giá:
    "Con Người đến để thí mạng sống mình
    hầu làm giá cứu chuộc thay cho nhiều người..." ( Mt 20, 28 )
    Chúa còn hoán cải họ bằng chính Thánh Thần của Người.
    Một Thần Khí mới,
    không phải tinh thần ích kỷ, tham lam, ganh tỵ và giận dữ,
    nhưng là Thần Khí của Thiên Chúa.
    Thánh Thần ở bên trong họ và thay đổi họ tự thâm sâu...
    Hình ảnh thành công của chúng ta thường là hình tháp.
    Ta càng lên cao thì càng ít người bằng ta,
    và ta càng có nhiều người ở dưới.
    Mục đích của chúng ta là đỉnh kim tự tháp.
    Không ai bằng ta, ta hơn hết mọi người...
    Gia-cô-bê cũng từng mong muốn như thế.
    Ông mong được ngồi bên hữu hay bên tả Chúa.
    Chỉ có Chúa là hơn ông, còn mọi người thì đều ở dưới chân.
    Chúa đã đến, Chúa đã lật ngược hình tháp.
    Càng tiến lên, ta càng có nhiều người ở bên trên,
    ta càng có nhiều người để phục vụ.
    Và Đức Giê-su, đỉnh của kim tự tháp lật ngược đó,
    Mang lấy tội lỗi thay cho cả nhân loại:
    "Con Người đến để hầu hạ,
    và thí mạng sống mình làm giá chuộc..." ( Mt 20, 28 )
    Vấn đề của chúng ta là ở đó:
    Chúng ta muốn thực hiện cao vọng của ta
    Hay chúng ta chấp nhận để khát vọng Chúa thể hiện trong ta ?
    Chúng ta muốn uống ly rượu ngọt của mình
    Hay là uống chén mật đắng của Chúa ?
    Và, tự muôn thuở cho đến mãi mãi,
    Con người chúng ta cứ bị đong đưa
    giữa ý mìnhÝ Chúa,
    giữa cửa hỏa ngụcCửa Thiên Đàng...

  16. #14
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    PHAO-LÔ, VỊ TÔNG ĐỒ VĨ ĐẠI
    "Vì tôi là người hèn mọn nhất trong các Tông Đồ,
    Và tôi cũng không đáng gọi là Tông Đồ nữa,
    Bởi tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa."
    ( 1 Cr 15, 9 )

    Trước khi trở lại, đối với Phao-lô, Tin Mừng về Đức Ki-tô quả là một chuyện vô lý nhất, chưa từng nghe nói đến bao giờ. Làm thế nào mà một người có lý trí như Phao-lô lại có thể tin được ? Ông không thể chấp nhận. Nhảm nhí, vô lý. Ông không phải là một người ngu. Ông đã từng nghe nói đến nhiều tà thuyết. Ông đã từng là một môn sinh ở trường Kinh Thánh. Thầy của ông đã chẳng là những vị giáo sư hiểu biết tiếng tăm nhất đó sao ? Thầy Pha-ri-sêu Ga-ma-li-en chẳng hạn.
    Phao-lô đã từng học cách phân biệt phải trái, điều hợp lý với điều vô lý, điều tin được với điều không thể tin được. Ông cũng đã biết nhiều về thần thoại Hy-lạp, nhưng đấy chỉ là thần thoại kia mà...
    Không một người học thức nào lại không biết Dớtx ( Zeus ), A-pô-lô ( Apollo ): đó chỉ là những nhân vật tưởng tượng.
    Mặt khác A-rít-xtốt ( Aristote ), Xô-crát ( Socrate ) là những vĩ nhân nhưng họ chỉ là con người mà thôi...
    Thế còn câu chuyện điên đầu về Giê-su Na-da-rét ?
    Các người thất học ấy muốn gì đây ?
    Không ai phủ nhận Giê-su Na-da-rét là một người có thật. Ông ta sinh ra ở Bê-lem và lớn lên ở Na-da-rét: ai cũng biết. Đầu tiên, Giê-su lôi cuốn đám đông, chữa bệnh và làm một vài chuyện lạ... Phao-lô đã từng nghe nói như thế và ông không nghi ngờ gì cả. Bạn của ông trong Hội Đồng đã chứng kiến Giê-su làm phép lạ.
    Dù sao thì Giê-su cũng không xuất thân từ một trường Kinh Thánh, ông ta chỉ là một người rao giảng nay đây, mai đó, với một lập trường riêng tư. Phao-lô có được nghe kể lại về những bài giảng của Giê-su, Phao-lô công nhận rằng Giê-su có kiến thức, hiểu biết sâu rộng. Dĩ nhiên những điều Giê-su nói đều có liên quan đến lề luật. Vâng, Giê-su biết rõ về Mô-sê, về các tiên tri. Giê-su có một lối nhìn vấn đề thật độc đáo và có uy quyền. Nhưng, chỉ có thế thôi...
    Tuy nhiên, khi Giê-su bắt đầu gây rối, ông ta la lối, xua đuổi mọi người trong Đền Thờ thì ông ta đã đi quá xa rồi.
    Ông ta lấy quyền gì ?
    Ai cho phép ông ta ?
    Dĩ nhiên, Cai-pha có lý khi đã xử tử ông ta. Phải công nhận rằng tử hình bằng thập giá thì hơi nặng tay đấy, nhưng Giê-su cứ tưởng mình là ai mới được chứ ?...
    Rồi, bây giờ xảy ra cái tin động trời là Giê-su đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại. Có một tí gì hữu lý không chứ ? Lẽ dĩ nhiên, là Biệt Phái, Phao-lô tin rằng người ta sẽ sống lại nhưng vào ngày tận thế kia chứ. Bụt thần thì có nhiều, nhưng Thiên Chúa của dân Do-thái thì chỉ có một. Phao-lô nhớ sách Đệ Nhị Luật:
    "Ít-ra-en, này nghe đây, Chúa là Thiên Chúa, Chúa chúng ta là một Thiên Chúa duy nhất." ( Đnl 6 – 4 ).
    Còn Giê-su, ông ta chỉ là một người thợ mộc Do-thái, một người hiền lành, có uy quyền khi rao giảng. Ông ta có thể là một Ngôn Sứ là quá lắm rồi. Nhưng Giê-su cũng lại là một người gây rối.
    Thật ra ông không phải là một người Do-thái đàng hoàng.
    Ông ta cố tình không giữ việc kiêng cữ trong ngày Hưu Lễ.
    Ông ta ít đến Nhà Thờ trong những năm cuối cùng,
    Ông ta tự cho phép tha tội cho những loại người bất xứng,
    Ông ta lại còn làm loạn trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
    Không,
    Đó không phải là lối sống của một người Do-thái đứng đắn !
    Với tư cách là người có học, một người Pha-ri-sêu mộ đạo, Phao-lô tự hứa phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Phao-lô không thể chấp nhận cứ như thế mãi được. Ông sẽ hành động để làm vinh danh Thiên Chúa của Ít-ra-en, Thiên Chúa chính danh và hằng sống, Thiên Chúa duy nhất và hay ghen. Phao-lô cương quyết đi đến nơi nào có tín hữu của Giê-su. Ông sẽ đưa họ ra nơi công nghị đối đáp với ông để xem họ sai lầm đến mức độ nào. Và nếu cần thì có thể giết họ luôn. Giết vài trăm người để cho đạo Ít-ra-en đứng vững thì cũng là một điều đáng làm.
    Có một người đáng thương bị nhóm môn đệ Giê-su lung lạc dụ dỗ đến nỗi bị kết tội và đem ra ném đá cho chết. Phao-lô đã chứng kiến rất rõ và ông còn giữ áo cho họ rảnh tay ném đá. Nạn nhân ấy tên là Tê-pha-nô. Anh ta muốn giảng cho họ, cho giới Pha-ri-sêu, về lịch sử Do-thái.
    Anh ta còn cả gan buộc tội họ: "Quân cứng cổ, lòng đá, tai điếc, các ngươi luôn đối nghịch với Thánh Thần. Cha ông các ngươi thế nào thì các ngươi cũng vậy, có tiên tri nào mà cha ông các ngươi không bắt bớ ? Họ đã giết các người tiên báo về việc giáng thế của Đấng Công Chính. Và nay, các ngươi đã nộp và giết chết Người..." ( Cv 7,51 – 53 )
    Như thế là quá lắm rồi ! Tất cả bọn họ nghiến răng hăm dọa.
    Nhưng Tê-pha-nô còn nói lời lộng ngôn này nữa:
    "Tôi thấy Con Loài Người ngự đến bên hữu Thiên Chúa" ( Cv 7, 56 )
    Nói như thế thì tha làm sao được !
    Họ bèn lôi Tê-pha-nô ra ngoài thành mà ném đá.
    Phao-lô đi theo, Phao-lô đứng nhìn và đồng tình...
    Giờ đây, ông đang trên đường đi Đa-mát,
    Ông vừa nhận lệnh từ Giê-ru-sa-lem
    và hăng say vượt 250 cây số đến Đa-mát,
    Ông mong muốn lôi ngay bọn tà đạo về Giê-ru-sa-lem...
    Giê-su là Đấng Thiên Sai,
    Giê-su sống lại từ cõi chết,
    Giê-su ngự bên hữu Thiên Chúa .v.v.
    Bọn tà đạo lại còn trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh nữa chứ: "Người sẽ không thí bỏ hồn tôi nơi âm phủ, và không để Đấng Thánh của Người phải thấy mục nát" ( Cv 2, 27, trích dẫn Tv 16, 10 )
    Đó, bọn tà đạo đã dám áp dụng câu ấy cho Giê-su. Đúng là bọn gian tà thì cái gì cũng gian được...
    Thế rồi, bỗng dưng một luồng ánh sáng bao phủ lấy Phao-lô, làm ông ngã ngựa.
    Ông không còn thấy gì nữa.
    Rồi ông nghe có tiếng gọi ông:
    "Sao-lê, Sao-lê, sao ngươi lại bắt bớ Ta ?".
    Phao-lô hỏi lại:
    "Thưa Ngài, Ngài là ai ?"
    Tiếng nói lại âm vang: "Ta là Giê-su mà ngươi đang bách hại. Song, ngươi hãy chỗi dậy mà vào thành, ở đó người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì..." ( Cv 9, 5 – 8 ).
    Phao-lô đứng dậy, ông chớp mắt mà vẫn không thấy gì.
    Ông được đưa về Đa-mát...
    Ba ngày tròn, ông như kẻ bị mù,
    Ba ngày tròn ông sống lại giây phút lạ lùng vừa qua,
    Ba ngày tròn, ông trở lại hồi tưởng điều ông đã gặp.
    Ánh sáng ấy mạnh mẽ đến nỗi ông trở nên mù lòa...
    Bây giờ thì ông đã thấy, đã gặp Đức Giê-su.
    Đây là một sự kiện:
    Người đã sống lại thật rồi,
    Người thật là Đấng Thiên Sai,
    Người là Đấng Phục Sinh,
    Người đã lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa...
    Điều này là một mầu nhiệm đến phi lý.
    Nhưng, sự thật đúng là như vậy.
    Tê-pha-nô đã nói thật mà Phao-lô lại điếc,
    Tê-pha-nô quả là không điên khùng chút nào cả.
    Phao-lô giờ đây mới ân hận làm sao,
    Chính Phao-lô cũng đã thấy Con-Loài-Người kia thật tỏ tường,
    Đây là sự thật không thể chối cãi...
    Ba ngày sau, có một người Do-thái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: "Sao-lê, người anh em, anh hãy nhìn thấy lại.”
    Thế là phép lạ đã xảy ra, Phao-lô lại được thấy. Ông nhìn quanh ngỡ ngàng. Người Do-thái ấy tên là A-na-ni-a, ông ta nói tiếp: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tiền định cho anh biết Thánh Ý Người và được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng xuất từ miệng Người, vì anh sẽ làm chứng tá cho Người trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe" ( Cv 13, 15 ).
    Và Phao-lô đã chịu phép rửa bởi tay A-na-ni-a.
    Phao-lô đã ghi khắc lời A-na-ni-a để sau này, trong hầu hết các lá thư của mình, ông đều nhắc lại: "Phao-lô, Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, bởi Ý Định của Thiên Chúa."
    Phao-lô khởi đầu lá thư nào cũng bằng câu nói ấy.
    Ông thực hành lời A-na-ni-a.
    Ông đi làm chúng tá ngay tại Đa-mát.
    Đa-mát là thành phố nơi ông định đến để tiêu diệt Đạo Chúa,
    giờ đây, lại chính là nơi ông khởi công rao giảng đầu tiên.
    Đây cũng là một bài học cho mỗi một chúng ta. Nếu chúng ta muốn trở nên một môn đệ nhiệt thành, chúng ta phải theo con đường Phao-lô. Chúng ta phải trực tiếp cảm nhận Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng phải thi hành mệnh lệnh rõ ràng của Người qua môi miệng các vị đại diện của Người. Đó là mầu nhiệm Hội Thánh.
    Thiên Chúa đã hiện ra, đã gặp gỡ Phao-lô, nhưng mệnh lệnh của Người vẫn được trao qua một người đại diện là A-na-ni-a...
    Phao-lô rao giảng và làm chứng tại Đa-mát nhưng ông chỉ gây được sự ngạc nhiên chưng hửng nơi những người đến nghe. Ông hết sức tích cực nhưng không giúp đỡ thiết thực được cho ai.
    Không ai nghe lời ông,
    Không ai chấp nhận được niềm tin của ông.
    Công trình của Thiên Chúa qua ông vẫn còn trở ngại.
    Nếu Giu-đa không một sớm một chiều mà đi đến việc phản bội Chúa, thì Phao-lô cũng không thể một sớm một chiều trở thành vị Tông Đồ hữu hiệu. Nguồn ánh sáng trong ông và sự bất lực của chính mình làm ông suy nghĩ. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện. Thế là ông rời bỏ Đa-mát để sang vùng Ả-rập mà sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị 3 năm ( Gl 1, 17 )
    Ba năm trời Phao-lô nghiền ngẫm Thánh Kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin Mừng. Phao-lô gọi Phúc Âm của Chúa là Phúc Âm của mình.
    Và ba năm trời đã cho ông có được tâm tình của Chúa Ki-tô, đã đồng hóa ông với Đức Ki-tô đến nỗi ông phải tuyên bố: "Không phải tôi sống nhưng là chính Chúa Ki-tô sống trong tôi..." ( Cl 2, 20 )
    Và suốt ba năm, trong bóng tối và thinh lặng, Phao-lô đã làm một điều duy nhất là: "Quên phía sau mà lao mình tới phía trước, tôi nhắm đích mà chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi từ trên cao Thiên Chúa đã ban bố trong Đức Giê-su Ki-tô." ( Cl 3, 13 – 14 )
    Chúa Giê-su chuẩn bị 30 năm.
    Phao-lô chuẩn bị 3 năm,
    Còn chúng ta ?
    Trước khi hành động,
    chúng ta rút vào bóng tối và thinh lặng bao lâu ?
    3 tháng ?
    3 tuần ?
    3 ngày ?
    hay 3 giờ ?
    Sau 3 năm chuẩn bị, Phao-lô lao mình tới phía trước,
    Ông bỏ Ả-rập, về lại Đa-mát.
    Giờ đây, ông đã chín chắn,
    đã có Chúa,
    đã hữu hiệu.
    Chắc chắn ở Đa-mát, người ta không ngạc nhiên, chưng hửng.
    Người ta bàn kế bắt giết ông !
    Ông được chuyển qua tường thành mà thoát chết.
    Ông về Giê-ru-sa-lem định liên lạc với các môn đệ Chúa, nhưng các ông này vẫn còn e ngại Phao-lô, họ không tin Phao-lô đã thực sự là Tông Đồ của Chúa ( Cv 9, 20 )
    Đấy, suy tư, cầu nguyện 3 năm trời, để rồi bước ra
    gặp đối phương là suýt bị giết,
    gặp anh em thì lại bị nghi ngờ...
    Đó là cái giá phải trả.
    Và chính cái giá phải trả ấy mà Phao-lô biết mình đi đúng đường:
    Con đường của Đức Ki-tô
    chưa bao giờ là một con đường thoải mái thênh thang...
    Cuối cùng rồi Phao-lô cũng được chấp nhận,
    Phao-lô được nghe thuật lại tường tận
    về cuộc sống,
    về cái chết,
    và về sự sống lại của Đức Ki-tô.
    Đủ hành trang, lý trí,
    Đủ hành trang kiến thức,
    Đủ hành trang tâm tình,
    Phao-lô lên đường...
    Ở đâu có thể đến là Phao-lô đến,
    Ở đâu có người cần biết Tin Mừng là có Phao-lô:
    An-ti-ô-khi-a, Xi-pri-ô, Lít-tra, Đéc-bê, Troa, Phi-líp,
    A-thê-na, Thê-xa-lô-ni-ka, Cô-rin-tô, Ê-phê-xô,
    trở lại Giê-ru-sa-lem, lên đường đi Rô-ma...
    Người Do-thái, Hy-lạp, Rô-ma,
    Người ngoại giáo, người tự do, kẻ nô lệ,
    Ai ai cũng được ông đem Tin Mừng đến...
    Sau không đầy một thế hệ, một biến cố nhỏ ở miền Giu-đê, mà một vài sử gia ghi lại vài hàng, đã trở nên đề tài tranh luận khắp Đế quốc Rô-ma.
    Đấy là một cuộc cách mạng,
    một cuộc cách mạng không đổ máu, mà nếu máu có đổ
    thì chỉ là máu của những người làm cách mạng.
    Đây không phải là cách mạng
    bằng Gươm Giáonhưng là bằng truyền giáo,
    không phải bằng Sức Mạnh nhưng bằng Say Mê,
    không phải bằng Vũ Lựcnhưng bằng Vâng Lời Thánh Ý Chúa.
    Cũng không phải một cuộc cách mạng trí thức,
    cũng không phải để đưa ra những tư tưởng mới,
    một ý thức hệ mới,
    một triết thuyết mới hay
    một nếp sống mới.
    Xét cho cùng,
    cũng không phải là một cuộc cách mạng nữa...
    Chỉ vỏn vẹn là Tin Mừng...
    Ôi, mà một Tin đáng Mừng làm sao:
    Thiên Chúa đã đến qua Đức Giê-su,
    Người đã đến trên hành tinh này,
    Người là Đấng Thiên Sai đã được hứa hẹn từ bao thế kỷ ,
    Người là Sự Sống và là Sự Sống Lại...
    Đây là một biến cố hàng đầu trên mọi biến cố.
    Người đón nhận cái chết vì nết ăn thói ở của chúng ta,
    Người đã từ trong cõi chết mà sống lại,
    Người đã thắng được cái chết:
    "Vì sự chết đã đến do một người
    thì sự sống lại cũng do một người mà đến" ( 1 Cr 15, 21 )
    Vậy là Phao-lô đã hoàn toàn thay đổi.
    Không ai gặp ông mà có thể quên được ông và Đức Tin của ông,
    Chính Đức Tin này đã làm ông thay đổi.
    Chân lý sống động của Đức Ki-tô là chân lý của ông.
    Đức Ki-tô chính là cốt lỏi của Tin Mừng ông loan báo:
    "Chúng tôi rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh" ( 1 Cr 1, 23 )
    Đối với Phao-lô,
    Đức-Ki-tô-chịu-đóng-đinh cũng chính là Đức-Ki-tô-Phục-Sinh
    Phao-lô không bao giờ tách rời Thập Giá khỏi Phục Sinh...
    Đối với Phao-lô,
    Ki-tô giáo là điểm hội tụ của mọi nghịch lý,
    Tất cả chỉ là một:
    Đau Khổ Và Vinh Quang,
    Sự Chết Và Sự Sống,
    Yếu Hèn Và Sức Mạnh,
    Bé Mọn Và Vĩ Đại,
    Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh Và Đức Ki-tô Phục Sinh...
    "Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi quả thật là hư không... Và việc anh em tin cũng là hư không... Nếu Đức Ki-tô không sống lại thì việc anh em tin cũng hão huyền... Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Ki-tô vỏn vẹn lúc sinh thời này thôi thì ta quả là kẻ khốn nạn nhất trong toàn thiên hạ..." ( 1 Cr 15, 14.17.19 )
    Làm sao có thể nói hết về Phao-lô,
    Hơn một nửa cuốn sách Tông Đồ Công Vụ đã nói về ông,
    14 Thánh Thư do ông viết chiếm 85% số Thánh Thư trong Tân Ước,
    Chừng đó quá đủ để nói lên tầm mức vĩ đại của Phao-lô:
    Phao-lô là người mở mang Nước Chúa nhiều nhất,
    Phao-lô là người có Đức Tin nóng bỏng,
    Đức Ái ngọt lịm,
    Đức Cậy sáng ngời.
    Phao-lô là người đặt nền tảng giáo lý Giáo Hội,
    Phao-lô là người không để kẻ khác ngủ yên.
    Phao-lô đi đến đâu là ở đó có phản ứng mạnh,
    Phaolo bị bắt bớ, hành hạ, cầm tù, săn đuổi, ném đá,
    Phao-lô bị đánh đập, lăng nhục, chửi bới, xích xiềng...
    Dường như ngay cả thiên nhiên cũng muốn chống lại ông:
    Ba lần Phao-lô bị đắm tàu...
    Câu chuyện về Phao-lô là một chuyện ly kỳ. Không có một thành phố nào Phao-lô đặt chân đến mà vẫn còn như cũ. Dĩ nhiên, không phải mọi người ở đó đều trở thành Ki-tô hữu, chỉ có một nhóm nhỏ, thật nhỏ thôi,
    Nhưng vấn đề được đặt ra rất rõ ràng:
    Hoặc là Tin Đức Ki-tô hoặc là chối bỏ Người.
    Đức Ki-tô hoặc là Đường hoặc là một trở ngại...
    Không có ai nghe Phao-lô xong mà lại có thể dửng dưng,
    hoặc nhiệt thành đứng về phía ông
    hoặc la ó chống lại ông.
    Không có Nếu, không có Và, không có Nhưng,
    chỉ có Hoặc mà thôi.
    Quả thật, Phao-lô là người đã làm đảo lộn thế giới.
    Tin Mừng ông loan báo gây tranh chấp trong đời sống mỗi người.
    Nhưng, có thật là Phao-lô làm đảo lộn thế giới chăng ?
    Thế giới ở thời đại của Phao-lô ( Thế kỷ thứ 1 ) đã chẳng là một thế giới đảo lộn rồi đó sao ? Chính Phao-lô là người dựng lại cái thế giới bị đảo lộn ấy. Trước đó, thế giới nội tâm đảo lộn của Phao-lô đã được Chúa dựng lại và Phao-lô đã tiếp tay dựng lại toàn bộ thế giới chung quanh mình. Những gì xảy ra ở thế kỷ thứ 1 cũng sẽ diễn ra như vậy ở thế kỷ 20 này, nếu chúng ta chấp nhận theo chân Phao-lô để cho Chúa chiếm hữu.
    Những ngày cuối đời, dù cho phải đi tù hết nơi này đến nơi nọ để rồi tử đạo tại Rô-ma, Phao-lô vẫn lạc quan, vui tươi, trong sáng, tin tưởng...
    Vì sao lại được như vậy ?
    Phao-lô đã thấy đêm tối,
    nhưng cũng đã thấy ánh sáng.
    Phao-lô cảm được sự yếu hèn của con người
    nhưng cũng có kinh nghiệm về hồng ân của Chúa.
    Phao-lô sống với cái chết
    nhưng ông để cho sự sống đích thực tỏa chiếu trên mình.
    "Mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong mình cuộc tử nạn của Đức Ki-tô, ngõ hầu Sự Sống của Đức Ki-tô được tỏ hiện nơi chúng tôi...Tôi cũng đã cùng chịu đóng đinh Thập Giá với Đức Ki-tô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng chính Đức Ki-tô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này ở trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và đã phó nộp mình vì tôi... Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một thắng lợi... vì tôi không muốn biết gì nữa ngoài Đức Ki-tô bị đóng đinh trên Thập Giá..." ( 2 Cr 4, 10; Gl 2, 20; Pl 1, 21; 1 Cr 2, 2 )
    Và quả thật, Tông Đồ Phao-lô đã đem đời sống và cái chết của mình làm chứng điều ông nói. Theo truyền thống lưu lại thì Phao-lô bị chém đầu ở ngoại thành Rô-ma, nơi có ngôi thánh đường Phao-lô hiện tại.
    Tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phao-lô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn:
    "Về phần tôi, tôi đã được dùng làm rượu tế lễ, giờ ra đi của tôi đã gần đến. Tôi đã chiến đấu trong một cuộc sống chính nghĩa, tôi đã chạy đến cuối đường, tôi đã giữ vững lòng tin...
    Tôi xác quyết rằng những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang sẽ được thể hiện trên ta trong tương lai. Tạo vật hằng khẩn thiết chờ trông con cái Chúa được tuyên dương...
    Thiên Chúa đã không tha cho Con của Người nhưng đã phó nộp Ngàii vì chúng ta hết thảy, làm sao Người lại không gia ân vạn sự cho ta làm một với Ngài ?
    Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư ?
    Vì tôi thâm tín rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác,
    Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi Tình Yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.." ( 2 Tm 4, 6 - 8; Rm 8, 18 – 20 . 32 . 35 . 38 . 39 )

    Cuốn sách này đươc hình thành là nhờ những bài nghiên cứu trong tác phẩm: “THIRTEEN MEN WHO CHANGED THE WORLD” củatác giả VIVEGENO.
    Soạn giả: TRẦN DUY NHIÊN.
    Xin đón nhận tiếp Phần 2 với các vị Tông Đồ còn lại của bộ sách này trong tập Vui Đời Phục Vụ số 29.



    thay đổi nội dung bởi: omem2207, 23-04-2011 lúc 11:04 PM

  17. Được cám ơn bởi:


  18. #15
    ThanhCaVN's Avatar

    Tham gia ngày: May 2007
    Tên Thánh: Peter Anthony
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 509
    Cám ơn
    441
    Được cám ơn 3,111 lần trong 428 bài viết

    Exclamation Tác giả và nguồn

    Chào omem2207,
    Bạn không ghi tác giả GS. Trần Duy Nhiên và nguồn làm Phạm Quy rồi đó.

    Thân mến!

  19. Có 2 người cám ơn ThanhCaVN vì bài này:


  20. #16
    omem2207's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: PhaoLô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đăk Nông/Giáo xứ:Vinh An
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 136
    Cám ơn
    389
    Được cám ơn 375 lần trong 94 bài viết

    Default

    Chúc ACE tham khảo vui vẻ nhé
    thay đổi nội dung bởi: omem2207, 14-05-2011 lúc 12:53 AM
    Chữ ký của omem2207
    Con biết rằng Chúa luôn dõi theo con mỗi ngày và mãi mãi

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com