|
Cha: ( Quay trở lại ) Anh ký giả, bây giờ ông Pha-ri-sêu đã đi rồi, tôi có thể nói với anh là chính Giê-su đã chữa cho con tôi và chúng tôi có biết Ngài.
Ký giả: Nhưng lúc nãy, ông bảo rằng ông không biết cơ mà.
Cha: Tôi già rồi. Tôi muốn được ở yên, anh hiểu không ? Tôi sợ phải bị trục xuất. Trên môi miệng tôi bảo là không biết, nhưng trong lòng tôi vẫn tin tưởng và nhớ ơn Giê-su. Vì thế nếu anh có viết lại cuốn Phúc-Âm, anh vui lòng nói lên sự thật đó.
Ký giả: Sự thật ấy không có giá trị gì cả ông à ! Nếu Giê-su quả thật là Sự Sống, là Sự Sáng và là Chân Lý, thì những kẻ gặp Ngài không thể phủ nhận Ngài.
Cha: Làm sao nói cho anh hiểu rằng trong đời chúng tôi, những người đã gặp Đức Ki-tô, hằng ngày chúng tôi có thể đồng thời vừa yêu thương vừa phản bội, vừa tin tưởng vừa chối bỏ...
Một người trong cộng đoàn: Đúng vậy, anh ký giả à. Tôi có thể xác nhận điều bác ấy nói. Chính tôi đã từng sống trong tâm trạng đó, tôi đã có kinh nghiệm.
Ký giả: Xin anh tự giới thiệu.
Ni-cô-đê-mô: Tôi là Ni-cô-đê-mô, một người Pha-ri-sêu, nghĩa là cùng một phái với người lúc nãy. Có lần tôi đến nghe thầy Giê-su giảng và tôi đến trao đổi với Ngài. Tôi phải nói rõ là tôi đến gặp Ngài ban đêm. Vâng, tôi cũng sợ hãi. Anh phải hiểu, xã hội chúng tôi lúc bấy giờ. Tôn giáo và xã hội chỉ có một bộ luật Môsê duy nhất. Chúng tôi không thể nào tách rời khỏi Giáo Hội mà không đồng thời là một người mất quyền công dân. Và luật lệ ấy tỉ mỉ lắm. Anh đã tham khảo Cựu Ước, đã đọc Ngũ Thư, chắc anh đã hiểu ít nhiều; đó là chưa kể bao nhiêu lề luật khác sau này sẽ biến thành quyển Tan-mút ( Talmud )...
Ký giả: Vâng, tôi có biết điều đó. Nhưng xin anh hãy cho biết thêm về mối liên hệ giữa anh với Đức Giê-su.
Ni-cô-đê-mô: À, tôi đang nói đến lần gặp gỡ đầu tiên với Ngài. Đêm đó, Ngài đã hé mở cho tôi một cuộc sống mới và dạy tôi phải tái sinh trong Nước và Thần khí. Tôi thấy thỏa mãn cõi lòng, thỏa mãn trí khôn... Nhưng chấp nhận đứng ngoài con đường chính thức của Do-thái Giáo thì tôi không dám. Thú thật, kể từ khi gặp Ngài, tôi đã thuộc về Ngài. Có lần ở công nghị, tôi thử bênh vực Ngài, nhưng khi các đồng nghiệp của tôi đem sách Thánh ra mà dẫn chứng thì tôi sợ hãi im lặng. Phải mất ba năm tin tưởng và phản bội – như bác lúc nãy đã nói – tôi mới dám theo Ngài. Nhưng khi tôi quyết định theo Ngài thì đã quá trễ, và tôi chỉ ôm được xác chết của Ngài vào lòng mà thôi...
Ký giả: Điều anh mói làm tôi tự hỏi: Nếu Đức Giê-su không chiếm được lòng của một con người thiện chí như anh, thì làm sao có thể chiếm được lòng của những con người thời nay được ?
Ni-cô-đê-mô: Không anh ạ, sự hèn nhát là của riêng tôi. Nhưng từ khi gặp Ngài thì tình yêu Ngài đã vượt thắng... Có thể Ngài muốn sử dụng tôi với tất cả sự hèn nhát của mình. Phải chăng, Ngài muốn tôi trở về với môi trường Pha-ri-sêu và sống trong sợ hãi như một môn đồ trong bóng tối... Tôi không biết phải nói thế nào... xin anh hiểu cho tôi... Xin mọi người hiểu cho tôi...
( Hát ) Xin người hiểu cho tôi, người môn đồ trong bóng tối. Kẻ đến trong đêm khuya mang nặng tâm tư.
Xin người hiểu cho tôi những xót xa cuộc đời,
Phận người yếu đuối và niềm riêng nói không nên lời.
Xin người hiểu cho tôi đã xuyến xao lòng
Thấy tim rung động, đầy ắp cậy trông,
Gần kề sự sống, tôi tha thiết muốn theo Ngài,
Nhưng nơm nớp sợ người ngoài.
Xin người hiểu cho tôi, giữa lúc tang Thầy,
Đến xin thi hài, liệm táng Thầy tôi, mặc dù sợ hãi.
Tôi đâu dám sống anh hùng,
Chỉ xin chút thương yêu thật lòng.
Xin người hiểu cho tôi lòng tơ vò khi Chúa chết.
Thập giá ai treo cao cho lòng tôi đau.
Xin người hiểu cho tôi những xót xa cuộc tình,
Phận hèn yếu đuối đã dạy tôi quí anh em mình
Xin người hiểu cho tôi. Xin người hiểu cho tôi...
Ma-ri-a Ma-đa-lê-na: Anh Ni-cô-đê-mô à. Không biết có ai hiểu cho anh không, nhưng tôi chắc chắn Ngài đã hiểu và đã tha thứ cho anh... Phải là một người tội lỗi như tôi mới cảm nghiệm được trọn vẹn tình yêu của Ngài. Vâng, tôi là Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, người đã được Thầy thương yêu vô bờ bến, chỉ vì tôi là một người tội lỗi nhất trần gian. Ôi, tôi sung sướng được làm người tội lỗi, vì nhờ đó mà tôi hiểu được thế nào là thứ tha. Tôi sung sướng được ghét bỏ vì nhờ đó mà biết được thế nào là Tình Yêu. Tôi sung sướng được đớn đau vì nhờ đó mà cảm được thế nào là yên ủi... Xin cho phép tôi làm một người tội lỗi. Xin cho tôi mãi mãi được ruồng bỏ...
( hát ) Xin hãy cho tôi được đớn đau, buốt men sầu tê tái
Kinh cầu duyên đầu, hay mối nghẹn ngào.
Mà những dấu ố màu và cuộc sống nát nhầu,
Ngài thấu vết đau hằn sâu.
Ôi biết bao nhiêu lầm lỗi xưa,
Sẽ ân hận sẽ mãi xin chừa,
Duyên thừa, yêu mấy cho vừa ?
Ngài đã tới trong đời, Ngài đổi mới tôi rồi,
Ngài đã cứu cho đời tôi.
Giê-su, Giê-su, khi con đời tan vỡ,
Đưa tay Ngài nâng đỡ,
Khi con còn lầm lỡ, ô nay Ngài tha thứ.
Ôi Giê-su hỡi, Chúa là Thượng đế con,
Chúa của muôn tình yêu thương.
Xin hiến dâng rã rời biết ơn,
Hiến dâng trọn tan nát linh hồn
Dâng Ngài tiếng hát trong đời.
Ngài đã dẫn con vào trong cuộc sống
Ứa trào gọi réo cuốn theo tình yêu.
Giê-su, Giê-su. Giê-su, Giê-su.
Ma-ri-a Bê-ta-ni-a: Anh ký giả à, có thể anh không hiểu được Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đâu. Anh có vẻ không thích một Giê-su Tình Yêu. Anh sợ rằng tình yêu ấy chạm đến ai thì người ấy trở nên điên dại chỉ vì Giê-su yêu thương đến độ điên cuồng. Nhưng, nếu không hiểu được Giê-su chính là Tình Yêu, thì làm sao hiểu được Ngài đã sống lại ?
Ký giả: Không phải đâu chị ạ. Tôi có cảm giác là những điều vừa nghe không xa lạ, nhưng rất gần gũi với tôi, vì tôi cũng có lần cảm thấy như vậy. Nhưng tôi không thể tách khỏi thực tế của cuộc sống thời đại... Tôi... Nhưng thưa chị, chị là ai ?
Ma-ri-a Bê-ta-ni-a: Tôi cũng mang tên là Ma-ri-a, nhưng không ở Mác-đa-la, tôi ở Bê-ta-ni-a. Tôi là em của Mác-ta, và là chị của La-da-rô. Thầy Giê-su thường đến thăm chúng tôi tại nhà. Và mỗi lần Ngài đến, thì tâm trạng của tôi giống như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na. Tôi ngồi hằng giờ dưới chân Ngài và không biết mình còn sống hay đã chết. Những giờ phút đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết đã bị xóa tan.
Ký giả: Xin lỗi chị, tôi chưa hiểu rõ.
Ma-ri-a Bê-ta-ni-a: Anh biết đó, khi được báo tin rằng Ngài đã sống lại, tôi không chạy đến bên mồ để kiểm chứng, vì tôi biết rằng Ngài đã sống lại. Từ lâu rồi tôi khám phá ra rằng Ngài chính là Tình yêu, mà Tình Yêu thì mạnh hơn cái chết. Anh có vẻ thích những bằng chứng, thì đây ! Ngày em tôi là La-da-rô chết đi, tôi đã nói với mọi người rằng nếu Ngài hiện diện thì em tôi đã không chết. Bốn ngày sau, khi Ngài trở lại Bê-ta-ni-a, tôi vẫn còn đầm đìa nước mắt. Nhưng khi Ngài hỏi tôi tôi: “Con đặt em con ở đâu ?” Tôi biết rằng em tôi sẽ sống lại... Và quả thật mọi sự đã xảy ra như thế.
Ký giả: Này chị Ma-ri-a, tôi biết có lần chị đã dùng dầu thơm xức chân Đức Giê-su và lấy tóc mình mà lau lấy. Tôi không nắm rõ ý nghĩa của hành động đó.
Ma-ri-a Bê-ta-ni-a: Có gì khó hiểu đâu anh...thì ra anh cũng chưa hiểu được Đức Giê-su là một lời mời gọi thúc bách đón nhận tình yêu của Thiên Chúa sao ? Trước một lời mời gọi như thế thì mình có thể giữ lại cái gì cho mình ? Anh không hiểu rằng gót chân của Ngài đã làm tăng giá trị cho dầu thơm và mái tóc của tôi sao ? Lạ nhỉ... Sao anh không hiểu được lời thôi thúc đã đổi mới cuộc đời Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, đã làm xiêu lòng cả những người con hoang đàng.
Một người: Tôi có thể phát biểu ý kiến không nhỉ ?
Ký giả: Thưa được chứ. Nhưng vì sao anh lại hỏi như thế ?
Con hoang đàng: Tại vì tôi không phải là một nhân vật lịch sử. Tôi là một loại con hoang đàng như chị Ma-ri-a Bê-ta-ni-a vừa đề cập dến.
Ký giả: Vì sao anh muốn phát biểu ?
Con hoang đàng: Vì anh có vẻ thích người con hoang đàng... Và nhất là hôm nay tôi xác tín rằng Đức Ki-tô không chỉ đổi cuộc đời của những nhân vật lịch sử mà Ngài cũng đổi mới cuộc đời chính tôi, một người sống 20 thế kỷ sau khi Ngài xuống thế. Tôi xin được tỏ bày...
Ngày tôi tốt nghiệp cấp ba cũng là ngày Đức Tin của tôi bị dao động. Xin anh biết cho, tôi là một học sinh giỏi và tốt nghiệp với một điểm cao nhưng không được tiếp tục đi học vì gia đình tôi nghèo quá. Suốt mấy tháng trời không tìm được một công việc gì, tôi đâm ra oán trách Thiên Chúa vì đã để cho tôi cù bơ cù bất như thế. Tôi bị xua đuổi khắp nơi; cô đơn đến cùng cực và chán nản, tôi tìm quên bằng cách uống rượu. Dần dần, tôi trở nên một cái gì gớm ghiếc cho gia đình. Trong nhà có cái gì vừa tầm với một bữa nhậu là tôi đem bán. Tôi chỉ còn có mẹ, mẹ tôi chỉ biết khóc thật nhiều...
Cho đến ngày tôi bị nhốt vì liên can đến một vụ đánh nhau. Suốt thời gian bị nhốt, tôi căm thù Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra tôi trên thế gian này để chịu những bất công. anh là một người thành công, chắc anh không bao giờ hiểu được nỗi cô đơn của một người thất bại. Sau khi được khoan hồng với giấy cam kết không rượu chè nữa, tôi về nhà, nhưng không biết làm thế nào để trốn sự cô đơn mà không phạm pháp...
Thế là tôi đến với anh em thanh niên ở đây... để giải trí. Nhập gia tùy tục, tôi cũng tập hát, cũng vờ nghe đọc Kinh Thánh, đôi khi dự lễ tôi cũng rước lễ vì không muốn các bạn thắc mắc, nhưng không bao giờ xưng tội... Chúa đối với tôi là một trò đùa...
Cho đến mùa Chay vừa qua, hôm ấy là một ngày thứ sáu thì phải, tôi được nghe bài Thương Khó Chúa Giê-su... Khi nghe vị chủ tế đọc lên: “Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con”, tôi bỗng rùng mình. Trong khoảnh khắc, tôi thấy toàn bộ sự chua chát của Ngài: Đêm cô đơn ở Ghết-sê-ma-ni, tù đày, tra tấn, nhạo báng, phỉ nhổ, con đường lên núi sọ với Thập Giá, tiếng búa, mũi đinh... tất cả. Và tôi cảm thấy Ngài là một người bạn chí thiết vì Ngài cũng đã bị cô đơn và bất công như tôi, hơn tôi.
Hôm đó là lần đầu tiên tôi về nhà tự ý mở Phúc-Âm ra đọc lại sau ba năm không chạm đến. Anh đừng tưởng tôi đến với Lời Chúa đâu nhé, tôi muốn đọc lại tiểu sử của một người bạn mà tôi thấy giống mình. Nhưng khi đọc Lu-ca về giây phút cuối cùng, tôi không còn hiểu gì nữa. Lu-ca viết: “Lạy Cha, con phó linh hồn trong tay Cha”. Tôi không thể hiểu tại sao một người bị bỏ rơi đến chết như thế mà vẫn còn tin tưởng và phó thác vào Cha mình.
Tôi đến trao đổi với một vị linh mục trẻ mà tôi rất có cảm tình. Ông lắng nghe thật lâu và không nói tiếng nào. Cuối cùng ông đề nghị cùng đọc một đoạn khác của Lu-ca: đoạn đứa con hoang đàng. Tôi hiểu ý ông và bảo rằng tôi không muốn xưng tội vì không biết phải xưng thế nào... tội tôi nhiều quá. Ông bảo: Anh cứ nói với Chúa những gì anh nói với tôi nãy giờ. Rồi ông quỳ xuống trước mặt tôi và làm dấu Thánh giá. Không biết có một mãnh lực nào đã khiến tôi cũng quỳ xuống bên ông và nói: “Lạy Cha xin Cha tha tội cho con...” Tôi chỉ nói được có thế rồi nghẹn họng... nước mắt cứ chực trào. Thật lâu, tôi nghe: “cha tha tội cho con..” và tôi oà lên khóc... Kể từ ngày có trí khôn không bao giờ tôi khóc, tôi ghét cái sướt mướt đàn bà, hèn ! Thế mà hôm đó tôi đã oà khóc như một đứa con nít...
và quả thật từ ngày đó tôi là một đứa con nít trong tay Cha trên trời, Đấng đã yêu tôi đến độ cho tôi cái đặc ân bị bỏ rơi giống như Con Chí Ái của Ngài. Tôi đã chấp nhận lại cuộc đời và cuộc đời đã chấp nhận tôi.
Vâng, tôi là một đứa con hoang đàng đã trở về, bởi vì tình yêu của Ngài mạnh hơn sự căm thù của tôi.... Và nếu hôm nay tôi có nói nhiều là chỉ vì để nói với anh điều này: Lời Chúa là Lời-Hằng-Sống vì chính tôi đã được Lời Ngài cứu sống.
( Im lặng – nhạc dạo bài Sám Hối )
Ký giả: Thưa các bạn, Lời nói của tôi bây giờ là... một lời cảm tạ... Cảm tạ Thiên Chúa.... và cảm ơn các bạn.
Tôi đến đây mong tìm tài liệu để viết một cuốn Phúc-Âm cho người khác... Và tôi đã nhận được cuốn Phúc-Âm cho chính mình. Tôi đã lầm khi nghĩ rằng Cuốn Phúc-Âm Thứ Năm chưa được viết. Quả thật từ Gio-an Tông Đồ cho tới nay, không có ai dùng giấy trắng mực đen để viết một cuốn Phúc-Âm, nhưng thực ra Thiên Chúa đã dùng Thánh Linh viết trên tim của những người tín hữu chân thành. Và Ngài đã không viết một cuốn mà thôi, nhưng hàng chục triệu cuốn. Các bạn ở đây là những cuốn đầu tiên tôi được đọc.
Bây giờ tôi mới hiểu được tiếng thét của Phao-lô: “Lời Chúa là Lời-Hằng-Sống”. Bấy lâu nay, tôi đã đọc nhiều nhưng chưa hiểu được bao nhiêu Lời của Ngài. ”Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng gia nhân không đón nhận Ngài”. Vâng, Thiên Chúa đã đến trong chính cuộc đời, đến trong tâm hồn tôi, nhưng tôi đã phủ nhận Ngài để vờ đi tìm Ngài trên khắp cùng thế giới. Ngài đã phán:“Ánh sáng chiếu soi trong tối tăm nhưng tối tăm không chấp nhận ánh sáng”. Vâng ánh sáng đã chiếu soi trong cõi lòng u tối của tôi đó.
Hôm nay, tôi là người mù đã nhận được ánh sáng... Hôm nay, tôi là người đàn bà tội lỗi vì đã hiểu được thế nào là thứ tha... Hôm nay tôi là Ma-ri-a Ma-đa-lê-na vì tôi đã cảm nghiệm được tình yêu... Hôm nay, tôi là Ma-ri-a Bê-ta-ni-a vì tôi xác tín rằng Đức Ki-tô đã sống lại, vì tình yêu mạnh hơn cái chết... Hôm nay, tôi là Sa-lô-mê đi tìm quyền lợi chính bản thân mình rồi vô tình đối diện với Đức Ki-tô...
Hôm nay, tôi là Gio-an, vì tôi cũng có thể hô to như Thánh nhân: “Ngôi Lời Đã Trở Thành Xác Thịt Và ở Giữa Chúng Tôi và Chúng Tôi Đã Nhìn Thấy Vinh Quang Của Ngài”.
Hôm nay, tôi là An-rê, quyết bỏ thuyền bè để theo Chúa. Vâng trong những phút vừa qua tôi đã bỏ ý định khỡi sự cuốn Phúc-Âm của mình, đúng hơn, tôi muốn trở thành một cuốn Phúc-Âm để cho Thiên chúa dùng Thánh linh viết cuộc đời của Đức Ki-tô trên từng giây phút còn lại của đời mình.
Như Ni-cô-đê-mô, tôi sẽ mang trọn sự yếu hèn của chính bản thân mình trở về môi trường sống hiện tại để làm chứng cho Đức Ki-tô.
Và bây giờ, tôi xin chào các bạn để ra đi, Không ! không phải để ra đi mà để trở về như người con hoang đàng. Các bạn hãy tin rằng kể từ ngày hôm nay, có một người ở đâu đó cùng hợp nhất với các bạn để nói lên câu nói của Gio-an và cũng là của mỗi một chúng ta: “Tôi đã biết và đã tin tưởng vào Tình Yêu... vì Thiên Chúa là Tình Yêu”.
( Cộng đoàn hát bài: Chúa là Tình Yêu... ) |
|