|
2.1. Tại sao Thiên Chúa không luôn luôn can thiệp ?
2.1.1 Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên
Thiên Chúa đã sáng tạo định luật tự nhiên để vũ trụ nhờ đó mà được vận hành có trật tự. Thiên Chúa đã thiết lập chúng thì Người cũng tôn trọng chúng, nghĩa là Thiên Chúa không thể lúc nào cũng cho mình nhúng tay can thiệp vào sự diễn tiến của thiên nhiên, dù là thiên tai, khổ ải. Bởi vậy Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của đau khổ tai ương vì Người không trực tiếp gây ra chúng. Có thể sẽ có ý kiến rằng: vậy thì Thiên Chúa là nguyên nhân gián tiếp của đau khổ vì đã tạo ra các định luật tự nhiên. Nói như thế thì cũng giống như lên án các phát minh của con người: giá mà không có điện thì con tôi đâu có bị giật, nếu không có máy vi tính thì con tôi chẳng bị thi rớt vì ham chơi computer game. Hãy nghĩ tới lợi ích lớn lao của điện và máy vi tính.
Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên để con người phát huy quyền và vị thế làm chủ của mình. Nếu lúc nào Thiên Chúa cũng can thiệp vào làm thay đổi các quy luật tự nhiên một cách bừa bãi thì con người hoặc sẽ không biết phải hoạch định công việc thế nào hoặc sẽ bỏ mặc buông xuôi cho cuộc đời muốn ra sao thì ra, ỷ lại cho Thiên Chúa mọi sự. Nói cách khác, con người sẽ mất hết tự do để lựa chọn và quyết định cho vận mạng của mình.
Như đã trình bày, định luật tự nhiên là thực tại gồm có hai mặt nên tôn trọng định luật tự nhiên một cách nghiêm túc là chấp nhận mọi diễn biến, cả có lợi lẫn bất lợi của chúng. Nếu lửa có công dụng sưởi ấm, nấu chín thức ăn, rèn đúc công cụ,… thì nó cũng có thể gây cháy nhà cháy cửa; nếu nước là thứ không thể thiếu đối với sinh vật và cho con người có thể giải khát tắm giặt, tẩy rửa,… thì nó cũng là nguyên nhân của mục nát, lũ lụt,…; nếu sấm sét tạo ra khí Nitrogen giúp cây cối xanh tươi thì nó cũng có thể đánh gẫy cây, làm cháy nhà,… có thể sẽ có người lý luận rằng: ‘nếu Thiên Chúa toàn năng và tôn trọng định luật tự nhiên thì ít ra Người cũng ra tay bảo vệ những ai lương thiện chứ, việc ấy đâu có khó khăn gì với Chúa đâu.’ Ðúng là Thiên Chúa có thể làm được mọi sự và thay đổi các định luật tự nhiên bất cứ lúc nào Người muốn. Ðã có nhiều phép lạ xảy ra minh chứng có lúc Thiên Chúa đã ra tay can thiệp vào các định luật thiên nhiên. Tuy nhiên, chúng ta thử lấy một vài ví dụ thực tế để thấy vấn đề không đơn giản chút nào. Giả sử tôi là một con chiên ngoan đạo, trung tín trong việc giữ luật yêu thương đối với Chúa và tha nhân, và nhờ vậy, Thiên Chúa bảo vệ tôi tuyệt đối. Mùa đông trời lạnh tôi cứ nhong nhong cởi trần mà không bị bệnh, tôi đi qua đường khi thiên hạ ào ào phóng xe mà không bị đụng, tôi tỉnh bơ đi giữa chiến trường mà không bị trúng đạn, chờ thang máy lâu quá, tôi nhảy đại từ lầu mười xuống mà không hề hấn gì,… Còn những kẻ tội lỗi thì Chúa mặc xác tụi nó cho xe tông, cho bệnh tật, cho đạn bom,… Nếu thế giới này có những “con ông cháu cha” được hưởng đặc quyền đặc lợi như thế, liệu rằng chúng ta còn muốn tôn thờ một Thiên Chúa thiên vị tư riêng như vậy không? Nếu thế giới này tồn tại hai đẳng cấp quá khác biệt như vậy thì tình hình sẽ tốt hơn hay tồi tệ hơn?
Ðịnh luật tự nhiên có tính chất trung lập hay tình cờ. Nó không phân biệt người tốt với kẻ xấu, người lương thiện với kẻ bất chính. Tất cả đều chịu chi phối như nhau. ‘Tình cờ là điều kiện tiên quyết để có được tự do đích thực và mức độ trưởng thành con người, và rằng bởi tự do là thiết yếu để con người có được một đời sống phong phú đầy đủ trong Chúa, là đời sống dành cho tất cả chúng ta, nên không thể nào tránh cho khỏi các biến cố bất trắc được…. Cái nhìn của chúng ta về vũ trụ cho phép chúng ta ghi nhận cùng một lúc hai sự kiện sau đây: một đàng Thiên Chúa đặt định mục tiêu và luật điều hoà cho vũ trụ vĩ mô, nhưng đàng khác trong thế giới vi mô (ở mức độ những thực kiện riêng rẽ, ADN) lại thấy có những hiện tượng bất tất định… Nếu không ngại nhấn mạnh đến một điều đã quá rõ ràng, thì chúng ta có thể lặp lại rằng vấn đề sự dữ hầu như không thể giải quyết được trong một thế giới tất định, vì lúc đó Thiên Chúa sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về từng biến cố riêng rẽ…’ Lm Bửu Dưỡng cũng phân biệt hai hạn từ ‘muốn chung’ và ‘muốn riêng’ của Thiên Chúa. ‘Muốn chung’ tức là các định luật phổ quát, ví dụ như lửa thì cháy, nước thì ướt; ‘Muốn riêng’ như muốn cho cái gì bị cháy, cái gì bị ướt. Người ta không thể biết được ý muốn riêng từng việc, từng người, từng cơ hội, từng trường hợp như thế. Cho nên, khi thấy một ngôi nhà bị cháy, không thể nói đó là Chúa muốn nó cháy vì một lý do suy diễn như để phạt chủ nhà hay bất cứ một lý do nào khác vì lửa đụng vào vật gì thì làm cháy vật ấy, đó là định luật chung. Vẫn biết rằng Thiên Chúa có quyền làm tất cả, kể cả việc phạt người ta nhưng tại sao Chúa không thể tách riêng người có tội ra để phạt mà phạt oan cả những người khác trong đán cháy ấy. Nói gì thì nói, không ai có thể khẳng định một trường hợp đau khổ nào là do ý Chúa vì không ai là Chúa cả.
Chính Chúa Giêsu cũng thể hiện sự tôn trọng của Người đối với các định luật tự nhiên. Trước khi bước vào cuộc đời công khai rao giảng, trong sa mạc, Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để phá vỡ các quy luật tự nhiên. Sau 40 ngày đêm Chúa Giêsu ăn chay ròng rã, quỷ lợi dụng cơn đói mà thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi !” Chúa Giêsu không những không rơi vào cơn cám dỗ để biến đá thánh bánh mà còn đưa ra một ‘định luật tự nhiên’ khác: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Quỷ liền bày ra cơn cám dỗ thứ hai. Nó mang Chúa Giêsu lên nóc đền thờ và dùng chính Kinh Thánh để cám dỗ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vập chân vào đá.” Ở đời, người ta vẫn hay thử thách quyền năng Thiên Chúa bằng cách đòi Người phải thực hiện những chuyện ngoạn mục thì họ mới tin: Nếu Chúa là Thiên Chúa thì hãy ban cho con trúng số; hãy ban cho con thi đậu; hãy ban cho con thành công hơn thằng cha ấy; …. Thậm chí, xin Chúa hãy phạt cho nó trắng mắt ra nếu Ngài là Thiên Chúa công bằng. Ðây là não trạng vẫn gặp đâu đó trong Cựu Ước: (Tv). Ngay cả các tông đồ cũng còn não trạng ấy mặc dầu đã ở với Chúa Giêsu một thời gian dài: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9, 54). Ðức Giêsu đã dùng chính Kinh Thánh để dẹp tan thái độ này và cho thấy một quy luật khác cao hơn: “Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Thiên Chúa không cần phải làm theo yêu cầu của bất cứ ai để trở thành Thiên Chúa.
Sau đó, quỷ biết con người vẫn là những kẻ hay chạy theo quyền lực mà thờ ngẫu tượng nên tung ra cám dỗ thứ ba. Nó chỉ cho Ðức Giêsu trong thân phận con người tất cả những vinh hoa lợi lộc của các nước thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi.” Chúa Giêsu đã nổi giận quát nó “Satan, hãy xéo đi !” vì có một định luật tối thượng là: “Ngươi phải tôn thờ Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.”. Ngoài Thiên Chúa, không ai xứng đáng được thờ lạy.
Chỗ khác, Chúa Giêsu cho biết Thiên Chúa “Ðấng ngự trên trời cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5: 45). Thiên Chúa tôn trọng trật tự Người đã thiết lập trong thiên nhiên khi để mặt trời chiếu sáng trên tất cả mọi người và tôn trọng tự do đã trao ban cho con người khi để cho họ tuỳ ý lựa chọn sống công chính hay là bất chính. Một dụ ngôn khác mạc khải sự tôn trọng của Thiên Chúa là dụ ngôn cỏ lùng. Các đầy tớ trong dụ ngôn đại diện cho con người: “Ông có muốn chúng tôi đi gom cỏ lùng lại không?”. Ông chủ lại đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.” Như thế, Thiên Chúa chấp nhận sự khác biệt của thiên nhiên, thậm chí có khi trở thành đối kháng trong mắt con người. Xét về mặt hữu thể, lúa và cỏ lùng hoàn toàn bình đẳng trong thiên nhiên. Chúng là hai loài thực vật hoàn toàn tốt đẹp. Lúa được coi là hơn cỏ lùng khi cả hai được đặt vào mối quan hệ với lợi ích của con người. Trong vai trò ‘đặt tên’ cho muôn loài, con người đã “chiếu ánh sáng hữu thể của mình vào các sự vật” (Heidegger), từ đó đưa ra tiêu chuẩn và ‘định giá’ chúng. Như thế, trong thực tế có những trường hợp rất bình thường trong thiên nhiên đã bị xem là sự dữ, là đau khổ không phải vì giá trị tự thân của sự vật nhưng vì mâu thuẫn với lợi ích của con người.
Một vấn đề khác có thể được đưa ra là: nếu thụ tạo còn bất toàn sau khi được Thiên Chúa tạo dựng (lần thứ nhất) và nó có khi làm cho Thiên Chúa phải liên lụy đủ thứ thì tại sao Thiên Chúa lại không “xoá sổ” quách thế giới này đi rồi tạo dựng lại một thế giới mới hoàn hảo hơn, dễ thương hơn? Hỏi cách khác, sao Thiên Chúa không hư vô hoá thế giới này vì nó còn khiếm khuyết?
Chúng ta dùng lập trường của Thánh Thomas Aquinas để giải quyết vấn nạn này. Có hai kết luận sau được rút ra: thứ nhất: Thiên Chúa có thể hư vô hoá mọi vật. Thứ hai: Nhưng Thiên Chúa không hề hư vô hoá vật nào cả. Ðối với kết luận thứ nhất, về mặt Thánh Kinh, sách Khôn Ngoan ghi: Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? (Kn 11,26). Như thế, vật thụ tạo được duy trì là tuỳ ý chí tự do của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tự do duy trì thì Người cũng có thể tự do hư vô hoá. Về mặt thần học, bảo tồn là tiếp tục việc tạo thành, nên Thiên Chúa đã tạo thành với tư cách nào thì Người cũng bảo tồn với tư cách ấy. Mà Người đã tạo thành cách hoàn toàn tự do nên cũng bảo tồn cách tự do. Vì thế, như Người đã có thể không tạo thành thì Người cũng có thể không bảo tồn, nghĩa là có thể hư vô hoá. Ðối với kết luận thứ hai, ta xét trên hai khía cạnh: trật tự tự nhiên và phép lạ. Theo khía cạnh thứ nhất, ta thấy có những vật thiêng liêng nên không có lý do nội tại để bị huỷ diệt (vì có tự do lựa chọn); còn các vật hữu hình, thì tồn tại mãi, ít là như chất thể đệ nhất. Vì thế, nếu Thiên Chúa hoạt động phù hợp với bản tính của vạn vật, thì không nên hư vô hoá vật gì cả. Còn theo khía cạnh thứ hai, mục đích của phép lạ là giãi bày ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. Vậy bảo tồn vạn vật thì dễ dàng đạt mục đích ấy hơn là hư vô hoá chúng: hư vô hoá là đình chỉ hoạt động của Thiên Chúa. Cho nên, theo phép lạ cũng không nên hư vô hoá chi cả. Tóm lại, Thiên Chúa không hư vô hoá vật nào.
Như thế, có thể kết luận rằng: Thiên Chúa không muốn làm xáo trộn luật thiên nhiên, bẻ quặt lịch sử, nhưng mời gọi con người với tư cách chủ thể cùng hoàn thành nó. Chính thập giá là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa chấp nhận định luật cuộc đời.
* Phép lạ
Tuy Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên nhưng lịch sử cho thấy có lúc Người đã can thiệp và thậm chí thay đổi chúng khi Người muốn. Như thế là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự như Người muốn. Vấn đề là Thiên Chúa có muốn làm điều ấy hay không hay thôi. Chúng ta cùng lược qua một chút về phép lạ.
Ðiều cần khẳng định ngay từ đầu về mục đích Thiên Chúa can thiệp vào tiến trình vận hành của định luật tự nhiên ban phép lạ là để cứu độ nhân loại. Mục đích của phép lạ là giãi bày âb sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. Cựu Ước đã có nhiều chỗ tường thuật lại những phép lạ vĩ đại Chúa làm để cứu giúp dân riêng: nước Biển Ðỏ rẽ ra làm đôi để dân do Thái đi qua, mưa rơi xuống tưới gội mùa màng theo lời cầu nguyện của Êlia (V), nước sông Jordan ngừng chảy khi Hòm Bia Giao Ước đi qua (Gs 4, 10-18),… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng làm nhiều phép lạ để tỏ mình ra cũng như để chăm sóc, chữa lành những con người sầu khổ: nước hoá thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana, bánh hoá ra nhiều cho hàng ngàn người ăn (Mt 14, 13-21; 15, 32-39), kẻ điếc được nghe người què được thấy, người bị tà thần ám được giải thoát, kẻ chết được phục sinh,… Rất nhiều những phép lạ như thế làm dấu chỉ cho quyền năng và tình thương đồng hành của Thiên Chúa, Ðấng Emmanuel, tức là Thiên Chúa ở cùng nhân loại.
Ngày nay, các phép lạ kiểu trái luật tự nhiên tỏ tường chỉ thỉnh thoảng xảy ra đó đây, nhất là trong lĩnh vực y khoa, nhưng không còn phổ biến như xưa nữa vì “phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Ðôi mắt để nhận ra phép lạ bây giờ không còn nhất thiết là đôi mắt xác thịt nhưng đúng hơn là đôi mắt đức tin. Chính đức tin sẽ chỉ cho thấy đâu là phép lạ.
Khi khoa học càng ngày càng phát triển, người ta bắt đầu nhìn phép lạ qua chính sự ổn định và hài hoà của định luật tự nhiên. Nhiều khoa học gia đã ngạc nhiên thốt lên ca ngợi Thiên Chúa thượng trí đã tài tình sắp đặt vạn vật cách tuyệt vời. Xuân về hoa nở, hạ đến nắng ấm, thu lại trời thanh, đông tới khí lạnh. Cứ như thế đều đặn, nhịp nhàng. Mầm sống vươn lên khi hạt giống được vãi gieo, có bình minh lên có hoàng hôn xuống, ngày hết đêm về, trên bầu trời tinh tú lấp lánh vần xoay theo từng quỹ đạo,… Tất cả cứ thế mà hoà điệu trong bản đồng ca vũ trụ. Thân xác bình thường của ta đây là cả một phép lạ vĩ đại, không phải vì nó trái luật tự nhiên mà vì nó đã tuân theo luật tự nhiên một cách tuyệt vời. Tay rụt lại khi gặp vật nóng, mồ hôi chảy khi trời đổ nóng, mắt nheo lại khi gặp ánh sáng quá mạnh, tay lái xe lập tức đổi hướng khi thấy nguy hiểm trên đường, tim tang nhịp đập khi cơ thể cần phản ứng nhanh, người mệt mỏi khi cần nghỉ ngơi, tế bào bạch cầu lập tức xung trận khi có virus lạ tấn công cơ thể,… Tất cả mọi bộ phận, dù nhỏ bé đến đâu, đều làm theo quy luật để hoàn chỉnh toàn bộ con người.
Như thế, không chỉ những biến cố to lớn như cuộc vượt Biển Ðỏ là phép lạ nhưng còn có những sự kiện đầy tính phi thường trong những nét rất bình thường của cuộc sống vẫn là những phép lạ tỏ tường về Thiên Chúa vậy.
2.1.2 Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người
Con người được sáng tạo vì chính con người. Con người không là phương tiện cho bất cứ một ai hay điều gì. Thiên Chúa không sử dụng con người như một phương tiện, dù là cho mục đích cao cả nhất. (Công đồng Vaticanô II). Phẩm giá con người là tuyệt đối. Ðiều gì làm nên phẩm giá ấy? Ðó là tự do. Chỉ có tự do mới làm cho con người là nhân vị độc đáo và duy nhất.
Trong dòng lịch sử, đã có không ít triết gia và các nhà tư tưởng cố gắng suy tư và đưa ra các lý giải về tự do. Vì tự đây là lãnh vực rất sâu và rộng nên chúng ta dành nhiều suy tư và thời gian cho nó.
* Mở rộng vấn đề
Chúng ta thử xem xét một vài lập trường trước khi đi vào quan điểm của Kitô giáo về vấn đề này.
a. Một vài quan điểm về tự do
i. Karl Jaspers cho rằng ý niệm tự do hàm ngụ ý niệm thiết yếu. Tự do trước hết bị giới hạn bởi Dasein, thân thể. Như bị kẹt vào tù ngục thể chất, người ta không làm được như ý mình muốn. Sự yếu hèn, mong manh của hình hài luôn luôn đem tự do về với thực tại…. Trong lãnh vực trí tuệ và tâm linh cũng vậy, tự do luôn luôn phải cố gắng chiến thắng sự ngu dốt của con người, đương đầu với những đòi hỏi của lý tính, lẽ phải, lương tri. Tóm lại, ở đâu có tự do là ở đấy có thiết yếu vật chất hay tinh thần. Thêm nữa, người ta phải sống trong thời gian với cả ba chiều kích quá khứ, hiện tại và tương lai. Ðó chính là nghịch lý của tự do.
Tự do không là lựa chọn mà cũng là lựa chọn. Không là lựa chọn vì thực chất của tự do là đạt tới chân lý; người tự do là người có can đảm hướng về chân lý, quyết định đáp lại chân lý và hiến thân phục vụ chân lý. Là lựa chọn vì trong cái quyết định ấy đã hàm ngụ một lựa chọn, một dấn thân nào đó. Như thế, sống trong một thế nghịch lý ấy, tự do tự khẳng định bằng lựa chọn. Lựa chọn giữa tiếng nói của lương tâm hay buông xả theo khuynh hướng của dục vọng, lựa chọn chấp nhận một cuộc sống đơn nghèo hay lao vào bất chấp thủ đoạn để làm giàu, lựa chọn bước qua thập giá hay sẵn sàng chịu chết cho niềm tin,… Tự do này lý trí không hiểu được, và đó chính là siêu việt tính của nó.
ii. Theo Jean Paul Sartre , chúng ta bị kết án để tự do. Tự do là một án lệnh, con người sinh ra là đã rơi vào đó. Con người có thể chọn cái này, bỏ cái kia nhưng con người không thể không chọn. Lựa chọn là một “định mệnh”, tự do là một nhà tù. Nói cách khác đó là một thứ tự do “bắt buộc” phải tự do. Ðành rằng con người hoàn toàn tự do định đoạt số mệnh của mình nhưng không thể tự do đối với việc phải lựa chọn. Ngoài ra, Sartre cho rằng không có cứu cánh nào của tự do, nếu có thì đó là chính tự do. Tự do của Sartre là một thứ tự do không mục đích, hay mục đích của nó là chính nó. Tự do ấy chẳng dẫn con người tới con đường giải thoát nào cả vì nó chỉ dành cho cuộc hiện sinh này mà thôi, một cuộc hiện sinh không có mục đích hay cứu cánh. Chính vì thế nên nó phi lý và đáng “buồn nôn” .
Thêm nữa, tự do của tôi không phải là tự do của kẻ khác tạo ra, nhưng tự do của kẻ khác là một lý do, một hoàn cảnh để tôi chứng tỏ tự do của mình. Do đó, phủ nhận ý kiến và cách sống của kẻ khác làm cho tôi biết chọn lựa và khẳng định tự do của mình. Tự do chính thức và cao độ là tự do chống lại một tự do khác. Ðối với vấn đề Thượng đế, Sartre không chần chừ tìm cách ‘chứng minh’ lập trường vô thần của mình. Ông chỉ việc nhân danh một quan điểmvề con người để phủ nhận Thượng đế, và coi đó là đủ. Nếu có Thượng đế thì Thượng đế là một kẻ độc tài, sáng tạo ra thế giới hoàn toàn lệ thuộc vào Người, thiếu hẳn sự tự do, tức là mọi sự nằm gọn trong tay Thượng đế cho Người xoay xở. Như thế, Thượng đế đương nhiên tiêu diệt tự do của con người. Ðó chính là lý do khiến con người phải phủ nhận ngay cả cái tư tưởng có Thượng đế hiện hữu vì chẳng qua Người chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hoang đường. Tắt một lời, đối với Sartre: “Nếu Thượng đế hiện hữu, thì con người chỉ là hư vô.”
iii. La Fonntaine diễn tả hai thái độ gắn với hai lựa chọn căn bản đối với tự do trong câu chuyện ngụ ngôn “Chó sói và Chó nhà” (Le Loup et le Chien): Sói nhìn thấy sự mập mạp của Chó mà thèm thuồng ao ước cho đến khi nhận thấy sợi dây xích nơi cổ Chó liền thắc mắc và được giải đáp:
“Vòng buộc tôi đã để vết hằn
khiến anh lưu ý đấy chăng?
… Thế nhưng cái ấy, ối dào,cần chi!”
Nhưng Sói thì nghĩ khác:
“Cần lắm chứ! Còn gì hơn nữa?
Còn cần hơn cả bữa cao lương!
Tự do ta quý hơn vàng
Chẳng thèm đổi lấy bữa sang nhà người !”
iiii. Quan niệm Ấn Ðộ: dung hoà tự do và định mệnh. Con người hoàn toàn tự do và đồng thời cũng hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động và hậu quả của mình. Nhưng hành động sẽ ấn định kiếp sống sau đó qua nghiệp báo. Một khi đã rơi vào cái kiếp do nghiệp báo ấn định, người ta không thể còn tự do để thay đổi nữa. Nếu nghiệp báo bắt tôi phải làm chó mèo thì tôi chỉ có một cách là làm chó mèo chứ không thể khác được. Như thế, con người chỉ thực sự tự do trong lựa chọn và hành động của mình chứ không tự do đối với sự ấn định của nghiệp báo. Tuy nhiên, người ta có thể cố gắng sống chân thiện mỹ để tự giải thoát mình khỏi vòng luẩn quẩn của nghiệp báo. Tôi có thể ngoan ngoãn là chó mèo để mong kiếp sau làm người, rồi cứ thế cố gắng tiến tới để đạt đến giải thoát. Như thế, trong quan niệm luân hồi nghiệp báo của Ấn Ðộ, vẫn mãi còn một tia hy vọng giải thoát. Giải thoát khỏi vòng sanh tử hiện hiến để đạt tới trạng thái hiện sinh trong sự đồng nhất với Ðại ngã trở thành lý tưởng cao đẹp nhất. Có thể nói đây là một lý do cho người ta nỗ lực sống tốt hơn mỗi ngày, một yếu tố xây dựng và thăng tiến xã hội con người.
b. Quan điểm tự do Kitô giáo
Cơ bản có hai loại tự do sau: tự do khỏi và tự do để. “Tự do khỏi” là thứ tự do hiện thực, là được giải phóng khỏi những ràng buộc, giới hạn, áp bức và áp lực. Tuy nhiên, “tự do khỏi” chẳng bao giờ là tuyệt đối. Có lẽ quan điểm về tự do của các triết gia được khai thác theo hướng này. Còn “tự do để” đề cao các khía cạnh tích cực, nhất là sự dấn thân và hiến dâng. Ðây là loại tự do mà Kitô giáo hướng đến và coi là tự do đích thực.
Nơi Ðức Giêsu ta thấy một điển hình cho loại tự do thứ hai này. Người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào tiền tài, danh vọng, vũ lực hay thế lực, thậm chí đối với ngay cả ngôi Thiên Chúa của Người. Minh chứng căn bản cho điều này được Thánh Phaolô khẳng định: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. (Pl 2,6-7). William Reiser cũng đưa ra một hình ảnh rất đẹp về việc hiến thân cho công cuộc cứu độ nhân loại: khi thấy tình trạng thê thảm và tuyệt vọng của loài người, nhất là khi thấy nỗi lòng của Cha đối với con người, thì Ngôi Hai tình nguyện xin Cha xuống thế cứu họ bằng cách trở nên như họ và sẵn sàng chịu liên luỵ với họ và vì họ, kể cả việc phải đối diện với hiểm nguy trong sứ mạng. Một hình ảnh khá độc đáo trong bộ phim The Passion of the Christ mới đây của đạo diễn Công Giáo Mel Gibson diễn tả việc hiến thân này qua giọt nước mắt của Chúa Cha từ trời rơi xuống nơi Con đang bị hành hình. Cha cùng Con bước vào cuộc khổ nạn thập giá để biểu lộ tình yêu. Như thế, Thiên Chúa đã tự do trọn vẹn hiến thân cho con người, chấp nhận đi vào giới hạn, ràng buộc, áp lực, áp bức để giải phóng con người bằng tình yêu. Tự do này khác hẳn với loại “tự do khỏi” nêu trên mà không ít người vẫn miệt mài tìm kiếm, có khi càng tìm kiếm càng vô vọng. Tự do này đối lập với thứ tự do của Sartre vì nó dựa trên căn bản sự tôn trọng tự do của người khác. Thiên Chúa đã tôn trọng con người đến độ để cho con người đóng đinh Con yêu dấu của mình vào thập giá mà giết đi.
Tóm lại, tự do đích thực là tự do để yêu cho đến cùng. Tự do ấy chấp nhận đi vào giới hạn; và ‘giới hạn’ duy nhất của nó là yêu không giới hạn.
c. Tự do của con người
Dù có rất nhiều lập trường khác nhau về tự do của con người, có lẽ bản chất của tự do xét cho đến cùng vẫn phải là sự hoàn toàn tuỳ ý lựa chọn, là quyền làm tất cả những gì mình muốn (dĩ nhiên, khi lựa chọn sai lầm thì thường đưa đến hậu quả tiêu cực. Ðây cũng là một thứ quy luật vậy).
Dù rằng ý Thiên Chúa luôn là chân lý và là lối đi, là chìa khoá của hạnh phúc (Gr 7,23), dù con người chỉ có thể trở nên hoàn thiện khi biết làm theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không bao giờ ép buộc con người lựa chọn theo kiểu độc tài quân phiệt: ý của Ta là nhất, mày không được chọn khác. ‘Ðể chúng ta được tự do, để chúng ta được quyền sống đúng ý nghĩa là một con người, Thiên Chúa phải tôn trọng sự tự do của chúng ta, không cần biết nó đúng hay sai, tốt hay xấu.’
Tuy nhiên, Thiên Chúa không phải là một Thượng đế vô cảm theo kiểu Hy Lạp, ông không phải là thợ chế tạo đồng hồ làm ra đồng hồ rồi để mặc nó tự chạy sao thì chạy. Thiên Chúa biết con người nên không bao giờ bỏ mặc con người một mình phiêu lưu trong việc sử dụng tự do của mình. Người vẫn luôn dõi theo từng bước của con người như lời tác giả Thánh vịnh xác tín “Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì con vẫn còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27,10) để hướng dẫn, mời gọi con người. Chẳng hạn, Thiên Chúa có thể dạy bảo chúng ta biết những gì là xấu xa, tội lỗi, có hại cho cuộc sống chúng ta, Người soi sáng gợi ý cho ta biết chúng ta sẽ mất bình an khi phạm tội, … nhưng sự tác động của Người không bao giờ làm mất tự do của ta. Con người có thể sống hết sức tự do cuộc sống làm người của mình, dù vẫn xác quyết Thiên Chúa hiện hữu và hiện diện trong thế giới, một sự hiện diện tuy rất thực, nhưng cũng rất kín đáo và tôn trọng tối đa quyền tự do của con người.
Người ta hay có khuynh hướng nhân hình hoá (anthropomorphize) Thiên Chúa, chẳng hạn ví Thiên Chúa giống như cha mẹ trần gian trong cách cư xử với con cái loài người; nhưng điều này dễ dẫn đến những sai lầm trong cách hiểu về Thiên Chúa. Cha mẹ trần gian thì hay can thiệp, ngăn cản, thậm chí cấm đoán con cái không được làm chuyện này chuyện nọ khi họ thấy không ổn. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bởi vì đã trao ban tự do cho con người, Thiên Chúa phải tuyệt đối tôn trọng những lựa chọn của họ, dù đúng hay sai, tốt hay xấu. Trường hợp của Adam và Eva là một ví dụ.
Sự dữ và đau khổ xảy ra khi người ta lạm dụng tự do của mình để làm những điều sai quấy. Nhưng vì sao có những chuyện không phải là lỗi tại tôi mà tôi vẫn phải gánh chịu? Vì tất cả mọi người đều liên đới với nhau cách này cách khác. Tôi chẳng bao giờ đốt phá rừng nhưng vẫn chịu ảnh hưởng do việc phá rừng của người khác, chị tôi chạy xe cẩn thận ôm sát lề đường nhưng vẫn bị gã say rượu đâm vào, những đứa trẻ Việt Nam vô tội chẳng bao giờ gây ra chiến tranh nhưng vẫn phải gánh chịu hậu quả của chất độc màu da cam,… Con người tự gây đau khổ cho mình và cho anh chị em đồng loại. Họ đã lạm dụng hai chữ ‘tự do’ cao quý để hành hạ, lừa lọc, gây hận thù, chia rẽ, ức hiếp, bóc lột, hãm hại nhau. Thiên Chúa trên cao chỉ có thể nhìn xuống xót thương và đau buồn khi “gà cùng một mẹ” đá nhau túi bụi. Tệ hại hơn, người ta có khi còn lôi cả Chúa vào phe mình để chống lại nhau. Não trạng hẹp hòi “Chúa của tao, của dân tộc tao” vẫn còn nhiều ngay cả với một số Kitô hữu. Ðây là khuynh hướng có thể nói là phổ biến khi người ta chia rẽ và muốn thống trị nhau. Nó cũng là quan niệm mang đậm tính cách của vùng Trung Ðông, nơi các dân tộc nhận cho mình một vị thần nào đó để chiến đấu bảo vệ họ. Từ việc được bảo vệ, những dân tộc này không tránh khỏi cơn cám dỗ muốn thống trị các dân khác:
“Chúa là đồng minh, là đồn lũy che chở, là thành trì bảo vệ, chính Người giải thoát tôi,
Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144,2),
“Nhờ danh Chúa, tôi đã trừ diệt chúng”(Tv 118)…
Ðối với dân Do Thái, Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ nên khi thấy người Ai Cập gặp tai ương, họ liền thấy đó là những việc Thiên Chúa làm vì họ, và họ vang lời ca tụng:
“Người sát hại các con đầu lòng Ai Cập .
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương…”(Tv 136)
Người ta vẫn còn nhớ, trong đệ nhị thứ chiến, quân Ðức xin các tuyên uý chúc lành máy bay của họ; bên kia, quân Pháp xin các tuyên uý làm phép các khẩu pháo để bắn cho chính xác. Không biết Chúa xử trí thế nào? Ngày nay, chúng ta vẫn còn nghe những câu như: Chúa sẽ triệt hạ bọn vô thần và bảo vệ chúng ta; Ðức Mẹ tiêu diệt kẻ thù Giáo hội, … mà quên rằng chiến thắng của bên này đồng nghĩa với thất bại của bên kia, sung sướng của mình là đau khổ của người khác. Liệu rằng Cha trên trời có để cho Người dính dáng vào những chuyện phe cánh, triệt hạ lẫn nhau giữa con cái mình như thế không? Rõ ràng não trạng này không thể phù hợp với tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu: Tất cả mọi người đều là con Cha trên trời, “Ðấng cho mưa xuống trên cả người lành lẫn kẻ dữ, trên người công chính lẫn kẻ bất chính” (Mt 5,45), là anh chị em của nhau và phải “rửa chân” cho nhau: “…thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20, 25-27), “Anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 6,44), “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho k3 nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vui khống anh em… hãy làm ơn và cho vay mượn mà không hề hy vọng được đền trả”(Lc 6,27.35) và trong cơn đau đớn thập giá, hơi thở đã hầu tàn, Giêsu lại thều thào cầu xin cho những kẻ đang giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34)
Như đã đề cập, tự do lựa chọn của con người phải được tôn trọng tuyệt đối hầu con người có thể trở thành người đúng nghĩa. Nếu thiếu mất điều này, con người sẽ bị đẩy xuống hàng thú vật hay máy móc chỉ biết làm theo bản năng hoặc chương trình đã được lập sẵn. Vì vậy, để đảm bảo cho chúng ta là người thực sự, Thiên Chúa đã chủ động tôn trọng tự do lựa chọn của họ. Ðể thực hiện điều này, Thiên Chúa chấp nhận nhận giới hạn quyền năng của mình và sẵn sàng chấp nhận bất trắc trong tương quan với con người. Khi dựng nên con người tự do giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã để mình đi vào một cuộc phiêu lưu, nơi đó con người sẽ toàn quyền tự quyết cho cuộc đời của họ. Khả năng tự quyết ấy lớn đến nỗi có thể từ chối cả sự hiện hữu của Thiên Chúa (dù thực tế không có hữu thể nào tồn tại ngoài Thiên Chúa: “trong Người chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu”), hay đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đồi Can-vê. Chấp nhận đi vào cuộc mạo hiểm này và dám tự ý đặt mình thành đối tượng cho con người nghi ngờ và đóng đinh, theo tôi, Thiên Chúa càng tỏ ra Người thật sự tự do và cao cả. Có những người vì sợ làm giảm bớt quyền năng của Thiên Chúa mà khăng khăng khẳng định rằng không có gì có thể giới hạn quyền năng ấy. Có thể hợp lý trên bình diện lý thuyết nhưng trong thực tế chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa bị giới hạn. Giới hạn không phải vì tự thân nó giới hạn nhưng vì Thiên Chúa chấp nhận để nó bị giới hạn. Ðiều gì có thể giới hạn quyền năng của Thiên Chúa? Tôi nghĩ, điều có thể giới hạn quyền năng của Thiên Chúa chính là tình yêu của Người. Vì yêu và muốn chia sẻ hạnh phúc của mình mà Thiên Chúa sáng tạo vạn vật và con người. Giovanni Martinetti nhận định: Hành động sáng tạo là một hy sinh, bởi vì khi nhường chỗ cho con người và ban cho con người tự do là Thiên Chúa đã tự giới hạn và thu hẹp mình lại. Thực trạng đau khổ [phần nào] nói lên ‘giới hạn quyền năng của Thiên Chúa’ vì “quyền năng ấy không có tính cách cưỡng bách đến độ bao giờ cũng phải tuyệt đối đạt cho được thành công. Nhìn nhận tự do của con người là quyền năng Thiên Chúa tỏ ra cho thấy tính cách thuyết phục của mình, và nếu có đề nghị điều lành thì quyền năng ấy cũng sẵn sàng chịu nhận điều dữ. Không phải Thiên Chúa ‘cho phép’, mà nói đúng hơn là Ngài đành ‘chịu nhận’ sự dữ. Quyền năng của Thiên Chúa tiến hành theo cung cách kiên nhẫn ‘chịu đựng’. Với tất cả dè dặt tế nhị, Thiên Chúa tôn trọng con người dù con người có là tội phạm, với ý nghĩa là một khi đã nhìn nhận tự do của con người, thì Thiên Chúa để nguyên trách nhiệm cho con người, ngay cả đối với sự dữ.
Thiên Chúa dám đi đến tận cùng trong việc tôn trọng tự do của con người. Sự thật này có thể được minh chứng trong sự chuyển đổi ý niệm về Thiên Chúa: từ ý niệm một Thiên Chúa là tuyệt đối quyền năng điều khiển mọi sự theo ý của mình sang ý niệm Thiên Chúa là tình yêu sẵn sàng chấp nhận giới hạn. Sau đây là một vài phân tích chi tiết:
Theo dòng lịch sử, đặc biệt là lịch sử cứu độ, chúng ta thấy có một cuộc cách mạng trong ý niệm Thiên Chúa. Hầu hết các nền văn hoá, nhất là thời xa xưa, xem thần linh hay Thượng đế như một nguyên lý hay một lực lượng thống trị bằng cách phạt kẻ dữ thưởng người lành ngay ở đời này. Mạc khải Kitô giáo đã làm một cuộc cách mạng thật sự khi gợi lên ý niệm cơ bản về lòng khiêm hạ của Thiên Chúa. Delumeau nhận định: “Những gì mới chỉ là trực giác trong Cựu Ước thì bây giờ đã trở thành một lời xác quyết thường kỳ trong Tân Ước: những từ ‘thần linh’, ‘khiêm hạ’, ‘mỏng dòn’ đã thực sự trở thành những lối diễn đạt trùng khớp với nhau. Con của Thiên Chúa giáng trần giữa đêm khuya trong chuồng bò lừa… thiếu điều bị giết bởi quân lính của Hêrôđê. Ngài sống 30 năm ẩn dật. Hình ảnh thường tình về Thiên Chúa đã bị đảo lộn đến cực điểm qua các biến cố cuối cùng trong cuộc đời tại thế của Ðức Giêsu: cuộc rửa chân cho các tông đồ ngày Thứ Năm Tuần Thánh, bị bắt, bị kết án và bị giết như ‘Con Chiên’ của Thiên Chúa.” Moltmann khẳng định thêm: “muốn thấu hiểu được Thiên Chúa qua hình ảnh của Người Con bị đóng đinh và bỏ rơi, thì nhất thiết phải có một cuộc cách mạng trong ý niệm về Thiên Chúa.” Emmanuel Lévinas ghi nhận: “Ý niệm về một sự thật biểu lộ trong khiêm hạ, về một sự thật bị bách hại, là hình thái duy nhất có thể có về siêu việt tính (có nghĩa là nếu Ðức Giêsu đã không bị bách hại, thì không thể nào làm chứng tá cho Thiên Chúa siêu việt được). Tỏ lòng khiêm hạ như là đồng minh của kẻ chiến bại, của người nghèo khổ, của người bị bách hại, rõ ràng là không bước theo trật tự thường tình… Lòng khiêm hạ làm đảo lộn tất cả… cảnh bị bách hại và bị hạ nhục mà kẻ khiêm hạ sẵn sàng đưa vai gánh chịu, là những thể cách hùng hồn nói lên sự thật.” Francois Varillon cũng diễn tả: “Toàn bộ lịch sử Mạc khải là một quá trình biến dạng tiệm tiến đi dần từ một Thiên Chúa được hiểu như là quyền năng để dẫn đến với một Thiên Chúa được tôn thờ như là Tình Yêu.” , “Sự toàn năng của Thiên Chúa là sự toàn năng của Tình yêu. Giữa sự toàn năng và Tình yêu toàn năng có sự khác biệt hẳn, một hố sâu ngăn cách đúng nghĩa: người Kitô hữu không nói họ tin rằng Thiên Chúa toàn năng, mà nói rằng họ tin vào một Thiên Chúa là Cha toàn năng… (Ðối với người Kitô hữu) nói: “con tin vào Ngài” là nói: con biết rằng quyền năng của Ngài không đe dọa tự do của con, mà hoàn toàn ngược lại, quyền năng ấy còn trợ giúp cho sự tự do của con”. Có thể kết luận rằng: Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu. Khả năng của Ngài là không gì khác ngoài khả năng của Tình Yêu. Những thuộc tính dùng để miêu tả Thiên Chúa như toàn năng, toàn thiện, khôn ngoan, tuyệt mỹ, bình an, vui mừng cả trong hy sinh, đều là những thuộc tính của Tình yêu khi Tình yêu thực sự vô biên.
Tóm lại, Mạc khải đã chỉ ra sự chuyển đổi quan trọng trong ý niệm về Thiên Chúa: từ một Thiên Chúa quyền năng thống trị (theo cách hiểu của Sartre) đến một Thiên Chúa là tình yêu. Mà tình yêu thì có thể chấp nhận đi vào giới hạn, sẵn sàng từ bỏ uy quyền và hy sinh liên luỵ đến cùng. Chính Thánh giá Ðức Giêsu đã minh chứng quá rõ ràng sự thật ấy.
(Còn tiếp) |
|