Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 39 trên 39

Chủ đề: SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 12/2011

  1. #1
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 12/2011

    01/12

    Nghe Lời và đem ra thực hành


    Thứ Năm sau Chúa Nhật I Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 7,21.24-27

    21"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 24"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. 25Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. 27Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành".


    Suy niệm:
    Ở bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào, một thời đại nào, người ta vẫn trọng chữ "Tín", nghĩa là tin tưởng nhau, đặt trọn niềm tin ở nhau.

    Ai cũng muốn sống chân thật, không lừa dối, phỉnh phờ... Khi tìm bạn để kết nghĩa, ai cũng muốn sống với nhau bằng trái tim chân thành.

    Không lạ gì khi người ta có quan niệm: "Một túp lều tranh, hai quả tim vàng". Người ta sợ nhất những người ăn nói dẻo miệng, ăn nói ngọt ngào, vì ai cũng cho là "mật ngọt chết ruồi". Những người có khoa ăn nói dễ thành công khi ngoại giao tiếp xúc với bên ngoài nhưng không mấy ai kết thân trong tình nghĩa.


    Và hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận xét: "Không phải những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời". Chúa Giêsu cũng thường lên án những người Do Thái bấy giờ: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta".


    Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật để thờ phượng Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta đã không hoàn toàn dành trọn thời gian cho Chúa. Chúng ta vẫn để ý những câu chuyện đâu đâu, từ nhà đến phố chợ, từ công sở cho đến những việc giải trí. Chúng ta không tìm hiểu Thánh Lễ là gì đối với những phần chính yếu trong Thánh Lễ mang một ý nghĩa nào. Qua các phần đó, Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta giữ đạo chứ chúng ta chưa sống đạo: giữ đạo tức là chúng ta giữ các giới răn của Chúa như người thanh niên trong Tin Mừng thuật lại rằng: "Khi anh đến xin cùng Chúa Giêsu nhân lành: Lạy Thầy, con phải làm gì để được sống đời đời. Chúa Giêsu đã bảo anh ta: Hãy thờ phượng Thiên Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, chớ ngoại tình, chớ gian tham, chớ làm chứng dối...Người thanh niên đó thưa: Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu liền nói với anh: Vậy anh hãy về bán tất cả của cải rồi đến đây theo Ta. Vì nhiều của cải nên anh không thể bỏ mà đi theo Ngài được". Như vậy anh thanh niên đó đã giữ trọn lề luật cho chính bản thân mình mà thôi, còn đối với những người khác, anh vẫn chưa thực hiện được việc yêu người.


    Chúng ta cũng thế, chúng ta có thể giữ trọn Mười Ðiều Răn của Chúa, vẫn không trộm cắp, không ngoại tình, vẫn đi nhà thờ theo luật Chúa dạy. Thế nhưng người bên cạnh tôi không có gì ăn tối, tôi đang dư phần cơm nguội nhưng vẫn điềm nhiên như chẳng liên can gì đến tôi.

    Trên đường đi đến nhà thờ dự thánh lễ là nguồn mạch yêu thương, thế nhưng có người đang bị trúng gió ngã bên đường, liếc mắt qua, nhìn lại không thấy ai tôi cũng nhanh chân bước vội vì sợ trễ thánh lễ. Vô nhà thờ, người vào trước ngồi trên, chúng ta vẫn cứ ngồi cuối nhà thờ mặc cho ai kêu gọi lên trên. Có lẽ chúng ta sợ Chúa phạt nên ngồi xa xa chăng.


    Chúng ta sống đạo, sống luật Chúa trong tình yêu thương. Thiên Chúa thực sự và gần anh chị em trong tâm tình con một Cha chung trên trời, khi chúng ta cùng nhau đọc lời kinh Lạy Cha, có như thế chúng ta mới thực sự sống đạo, có như thế chúng ta mới xây nhà trên đá được. Dù sóng gió, bão táp của cuộc đời, ngôi nhà sống đạo của chúng ta vẫn vững bền, dù sóng gió có lùa vào thì cũng không thể làm sập nổi, dù có mưa sa nước lũ, căn nhà đức tin của chúng ta cũng không hề hấn gì, vì được bao bọc bằng tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Ðó là người khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói hôm nay: "Ai nghe và giữ lời Ta nói đây mà đem ra thực hành thì giống như người khôn ngoan xây nhà trên đá". Nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, đó là một cần thiết cho mọi Kitô hữu. Và Chúa Giêsu còn quả quyết thêm: "Ai nghe và giữ lời Ta thì là Mẹ Ta, là anh em Ta".


    Bàn Tiệc Lời Chúa và Bàn Tiệc Mình Máu Thánh Chúa quan trọng như nhau. Trong Thánh Lễ nhắc nhở cho chúng ta hai phần quan trọng nhất là Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Mình Máu Chúa. Lời Chúa là của ăn bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta, Mình Cha là của ăn thần linh nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta ý thức được điều đó.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con chuẩn bị mừng Chúa đến trong tâm tình yêu mến và ý thức cảm nghiệm được thức ăn bổ dưỡng tâm linh cho chúng con, đó là thức ăn Lời Chúa và Mình Máu Chúa. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________________


    Mang Nặng Ðẻ Ðau

    Trong tờ thông tin liên lạc của một giáo xứ nọ, người ta đọc thấy ở trang bìa của số ra tháng 12 như sau: Mùa Vọng là mùa của thai nghén...

    Có lẽ chỉ có những người đàn bà đã hơn một lần kinh qua thời kỳ thai nghén và sinh nở mới có thể giúp chúng ta hiểu được thế nào là 9 tháng 10 ngày mang nặng đẻ đau... Trong 9 tháng 10 ngày, ngoài những nôn mửa không ngừng, người đàn bà mang thai thường phải trải qua nhiều tâm trạng khác nhau của vui buồn lẫn lộn...


    Vui vì sự sống và niềm hi vọng đang lớn dần trong tâm hồn và thể xác của mình, người đàn bà mang thai cũng lo sợ vì những bất ngờ không lường trước được. Những đột biến trong người cũng khiến cho người đàn bà mang thai cảm nhận được sự mỏng dòn, yếu đuối của con người. Tất cả mọi cử động, chế độ dinh dưỡng đều được cân nhắc cẩn thận để không phương hại đến bào thai... Có nên tiếp tục đi nhanh như trước kia không?

    Có được hút một điếu thuốc như trước không? Có nên dùng càfê không? Có nên dùng một chút bia rượu không? Có nên thức khuya không?... Tất cả đều được cân nhắc từng li từng tí.


    Bào thai càng lớn dần, niềm vui và nỗi lo lắng cũng tăng thêm... Và khi đến ngày nở nhụy khai hoa, như chúa Giêsu đã nhận xét, niềm vui của người đàn bà khỏa lấp được tất cả những chờ đợi trong khi mang thai và những đớn đau trong khi sinh con.


    Sự chào đời của hài nhi không những mang lại niềm vui, nhưng cũng đảo lộn cuộc sống trong gia đình. Ðứa bé đã trở thành trung tâm của cuộc sống gia đình. Giờ giấc thay đổi, nhịp sống cũng thay đổi. Và có lẽ cái nhìn cũng đổi mới với mọi người trong nhà.


    Mùa Vọng là mùa của thai nghén... Do tiếng "Thưa, xin vâng!" đáp trả của Ðức Tin, chúng ta cũng cưu mang chính Chúa. Như người đàn bà có thể cảm nhận được sự tăng trưởng của bào thai, chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự hiển diện mỗi lúc một thêm thân mật và gần gũi của Chúa trong tâm hồn chúng ta.


    Cũng như người đàn bà mang thai có thể nhận ra sự mỏng dòn yếu đuối của mình, với sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc hơn những bất toàn, khiếm khuyết và tội lỗi của chúng ta. Ý thức ấy càng mời gọi chúng ta bước đi trong từng cố gắng vươn cao hơn.

    Cũng như người đàn bà mang thai cân nhắc từng đường đi nước bước, từng cách ăn mặc đi đứng, người cưu mang Chúa cũng tập trung tất cả suy tư, hành động, cư xử của mình vào chính Chúa. Lẽ sống là động lực của người có niềm tin chính là Chúa... Bào thai càng lớn lên thì sự quên mình của người mẹ càng gia tăng. Người cưu mang Chúa cũng thế. Thánh Gioan Tẩy Giả đã diễn tả đúng đòi hỏi ấy khi Ngài nói về chúa Giêsu: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại"... Càng quên mình, người tín hữu Kitô càng cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn. Ðó là định luật của đời sống Ðức Tin. Chính khi quên mình, người Kitô cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và càng gặp được chính mình...


    Mùa Vọng là mùa của thai nghén: chúng ta hãy chuẩn bị cho Chúa Giêsu một máng cỏ trong tâm hồn chúng ta. Cũng như người đàn bà quên mình vì không biết bao nhiêu chuẩn bị cho con, chúng ta cũng hãy hưởng trọn cuộc sống của chúng ta về với Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài lớn lên bằng những nhỏ lại của chúng ta: nhỏ lại trong tham vọng, nhỏ lại trong những ước muốn bất chính, nhỏ lại trong những đố kỵ, ghen ghét, ích kỷ, nhỏ lại trong muôn vàn những đớn hèn, nhỏ nhặt trong cuộc sống... Và rồi, với Chúa ngự trị trong ta, tình mến sẽ lớn mãi trong trái tim.


    Trích sách Lẽ Sống
    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 01-12-2011 lúc 08:18 AM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  2. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  3. #2
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    02/12

    Sức mạnh của lòng tin


    Thứ Sáu sau Chúa Nhật I mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 9,27-31

    27Đang khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: "Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi! " 28Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không? " Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin." 29Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy." 30Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ: "Coi chừng, đừng cho ai biết! " 31Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng.


    Suy niệm:
    Chuyện này có hai vai:
    1. Chúa Giêsu:
    Ngài không muốn cho đám đông dân chúng biết phép lạ Ngài làm. Bởi đó khi hai người mù xin Ngài cứu giúp ở chỗ đông người thì Ngài không đáp lại gì cả. Khi về tới nhà, Ngài mới cứu chữa họ. Cứu chữa họ xong, Ngài “nghiêm giọng” bảo họ “đừng cho ai biết”. Lý do : Chúa Giêsu không muốn người ta tin theo Ngài chỉ vì phép lạ.

    Ngài nhấn mạnh tới lòng tin: trước khi làm phép lạ, Ngài hỏi “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ?”. Sau khi làm phép lạ, Ngài nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy.”


    2. Hai người mù: đức tin họ rất mạnh

    Họ gọi Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít”, tức là tước hiệu người ta gọi Đấng Messia.

    Ban đầu Chúa Giêsu không đáp ứng, nhưng họ cứ theo Ngài cho tới nhà.


    Khi Ngài hỏi, họ tuyên xưng đức tin “Thưa Ngài, chúng tôi tin”.


    Chính Chúa Giêsu nói phép lạ họ được là kết quả của lòng họ tin: “Các anh tin thế nào thì được như vậy”.


    Riêng chi tiết câu 31 (Chúa Giêsu bảo họ đừng cho ai biết, “nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Ngài trong khắp cả vùng”) : xem ra họ không vâng lời Chúa Giêsu. Nhưng các nhà chú giải nghĩ rằng Matthêu viết câu này cho tín hữu trong Giáo Hội thời kỳ sau khi Chúa Giêsu sống lại.

    Trước khi Chúa Giêsu sống lại thì Ngài muốn giữ “bí mật Messia” kẻo người ta theo Ngài chỉ vì phép lạ. Nhưng sau khi Ngài đã sống lại rồi thì không cần giữ bí mật ấy nữa, trái lại càng phải “bật mí” để cho nhiều người biết Ngài.


    Chủ đề bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm rõ ràng trong đoạn Tin Mừng: ‘Ngày đó mắt người mù sẽ được xem thấy”.


    “Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài chúng ta mới biết chúng ta là ai? sẽ đi về đâu? và đâu là ý nghĩa cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù lòa của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù lòa ấy”

    Có nhiều loại mù: mù loà, mù chữ, mù vi tính… nhưng mù không nhận ra Chúa là ánh sáng đời mình có lẽ là tai hại hơn cả. Người mù đã dùng đức tin mà đi tới Ánh Sáng thật. Hay nói cách khác, có một cách lần tới được ánh sáng một cách thần diệu, đó là đức tin.

    Trong đời sống đạo, khi nhận ra mình đang mù và mong tìm về ánh sáng đó là những bước khởi đầu rất tốt cho sự hoán cải và sẽ được biến đổi.


    Tự phụ đến mù quáng: Con sư tử đến hỏi con tê giác “Ai là chúa tể khu rừng này ?”. Con tê giác đáp “Là sư tử chứ ai”. Sung sướng quá, sư tử đến hỏi con hà mã “Ai là chúa tể khu rừng này?”. Và hà mã cũng trả lời “Là sư tử chứ ai”. Sư tử lại đến hỏi con voi “Ai là chúa tể khu rừng này ?”. Voi chẳng nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời.

    Khi rơi xuống đất, con sư tử choáng váng mặt này, mình mẩy ê ẩm, nhưng cũng ráng nói vớt vát: “Vì mi ngu quá chẳng trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với mi”



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, ánh sáng niềm tin của chúng con còn rất yếu mà có lúc hầu như lịm hẳn. Quanh chúng con chỉ thấy toàn bóng đêm, trong khi giữa cuộc đời đầy sự đe dọa của ác thần. Lạy Chúa, xin thắp lên cho chúng con một niềm tin. Xin ánh lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm tâm hồn chúng con. Xin cho thế giới của chúng con hôm nay tìm ra được lý tưởng sống, để nhờ đó con người tìm ra được ý nghĩa cuộc đời và được sống trong bình an hoan lạc. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    __________________


    Mòn Mỏi Ðợi Trông

    Ngày kia, một hoàng đế nọ tập trung lại tất cả các nghệ sĩ trong mọi lãnh thổ của đế quốc, để tổ chức một cuộc thi đua. Ðề tài của cuộc thi đua là: mô tả dung mạo của hoàng đế...

    Các nghệ sĩ Ấn Ðộ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa cương qúy giá. Các nghệ sĩ người Armêni mang đến một thứ đất sét mà chỉ có họ mới biết được giá trị của nó. Những người Ai Cập thì mang đến đủ thứ dụng cụ và một khối cẩm thạch qúy giá.


    Sau cùng, người ta thấy xuất hiện một phái đoàn Hy Lạp. Mọi người đều ngạc nhiên, bởi vì họ chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng...

    Người ta giam các nghệ sĩ vào trong các khu nội cấm trong cung điện. Khi thời hạn ấn định đã đến, hoàng đế cho trưng bày tất cả các tác phẩm của các nghệ sĩ. Ông trầm trồ ca ngợi bức chân dung của chính mình do các họa sĩ Ấn Ðộ vẽ. Sang đến các pho tượng của người Ai Cập và các mô hình của người Armêni, ông càng tỏ ra thán phục hơn.

    Sau cùng, khi đến gian hàng của người Hy Lạp, ông chỉ thấy vỏn vẹn bức tường bằng cẩm thạch của phòng khách, nhưng mặt tường được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy nguyên khuôn mặt của mình hiện ra từng nét...


    Và dĩ nhiên, phái đoàn đã đoạt giải chính là những người Hy Lạp, bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được chính khuôn mặt của mình.


    Họa lại khuôn mặt của Ðức Kitô: đó là mục đích của Giáo Hội. Và nói như danh họa kiêm điêu khắc gia Michelangelo: "Ðể tạc một bức tượng, điều quan trọng chính là những gì phải được gọt bỏ".


    Muốn họa lại khuôn mặt của Ðức Kitô, Giáo hội phải đánh bóng bức tường khuôn mặt của mình bằng cách gọt bỏ, đục đẽo tất cả những gì còn sần sùi, thừa thãi...


    Mùa Vọng là mùa của mong đợi... Hai chữ mong đợi trong ngôn ngữ Việt Nam thường được đi kèm với hai chữ khác: mòn mỏi. Mong đợi nào cũng làm cho con người ta mòn mỏi. Nhưng chính sự hao mòn đó càng làm cho giây phút gặp nhau thêm đậm đà, thắm thiết hơn.


    Mùa Vọng là trường dạy chúng ta mong đợi. Ðức Kitô đến với chúng ta qua từng biến cố, từng phút giây trong cuộc sống. Ngài chỉ đựơc nhận diện, Ngài chỉ được họa lên nguyên hình nếu chúng ta chấp nhận đánh bóng bức tường thành rong rêu hoặc sần sùi của con người chúng ta. Càng mòn mỏi, càng được gọt đẽo, chúng ta càng thấy được Ðức Kitô và càng họa lại được Ðức Kitô cho người khác...


    Thật ra, không phải chúng ta là người họa lại khuôn mặt của Ðức Kitô, mà chính Ngài đến với chúng ta với những đường nét mà chỉ có Ngài mới biết đích thực là của Ngài. Bổn phận của người Kitô chính là chấp nhận cho Ðức Kitô dùng con người của mình để nhìn thấy khuôn mặt của Ngài. Phiến đá cẩm thạch của con người chúng ta càng bóng láng, khuôn mặt của Ðức Kitô càng hiện rõ...


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  4. Có 6 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  5. #3
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    03/12

    Chỉ thị của Chúa Giêsu


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật I Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mc 16,15-20

    15Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." 19Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.


    Suy niệm:
    Đây là đoạn cuối của Tin Mừng theo Thánh Maccô, ghi lại chỉ thị cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời:

    Chúa chỉ thị: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.


    Ngài hứa tích cực hỗ trợ những sứ giả loan Tin Mừng bằng những dấu lạ kèm theo.


    Các tông đồ đã làm theo chỉ thị đó : rao giảng Tin Mừng khắp nơi, và “dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.


    Ý nghĩa “Những dấu lạ kèm theo” : Những dấu lạ như trừ quỷ (Cv 5,12-16 ; 8,7 ; 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,4-13 ; 10,44-46 ; 1Cr 14,2-40), đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30 ; 9,10-17), cầm rắn mà không sao cả (Cv 28,3-6) v.v. là bảo đảm có Chúa Giêsu trợ giúp các ông để chiến thắng mọi thế lực gian tà.


    Thánh Phanxicô Xaviê được Giáo Hội đặt làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Ngài là người thực hiện đúng đoạn Tin Mừng hôm nay.


    Người truyền giáo vừa rao giảng vừa “dùng những dấu lạ kèm theo” để củng cố lời rao giảng của mình. Trong bối cảnh thời nay, “những dấu lạ kèm theo” là một cuộc sống “lạ lùng” trước con mắt người đời nhưng đúng với Tin Mừng.


    Thiên Chúa cứu độ mốn muôn dân đến với Người. Phần chúng ta, hãy cộng tác với Người : hãy đi đến muôn dân rao giảng Tin Mừng cho họ. - Ad Gentes (Đến với muôn dân) là chủ đề lớn, là đâu đề của một sắc lệnh của Vastican II.


    Một mục sư nói chuyện với một tín đồ lười biếng :

    - Anh có thường đến nhà thờ không ?

    - Không. Người trộm lành hấp hối trên thập giá đâu cần đến nhà thờ thế mà vẫn lên thiên đàng.

    - Có khi nào anh nói về Chúa cho bạn bè nghe không ?

    - Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có nói về Chúa cho ai nghe.

    - Anh có đi truyền giáo không ?

    - Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có truyền giáo cho ai.

    - Anh tưởng mình giống người trộm ấy ư ? Không đâu. Có một khác biệt cơ bản: anh ta là một tên trộm đang hấp hối, còn anh là một tên trộm còn sống nhăn.


    Khuôn vàng thước ngọc: “Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Phaxicô Xaviê như dấu chỉ cho người khác nhận ra tình thương của Chúa. Thánh nhân cũng đã hết lòng cộng tác vào ơn ban của Chúa. Xin cho mỗi chúng con cũng biết hoàn thành ơn gọi đời mình cách tốt đẹp nhất theo thánh ý Chúa.

    http://tgpsaigon.net/

    ____________________

    3 Tháng Mười Hai
    Thánh Phanxicô Xaviê
    (1506-1552)

    Đức Kitô hỏi, "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16:26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.

    Vào lúc đó, Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Balê. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatius ở Loyola, đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô.

    Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatius, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatius (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của đức giáo hoàng.


    Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.


    Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng, qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.


    Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.


    Năm 1622, ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô X phong thánh và đặt làm quan thầy các công cuộc truyền giáo nước ngoài.

    Lời Bàn


    Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (x. Mátthêu 28:19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của chúng ta là thời giờ, và Thánh Phanxicô đã hy sinh thời giờ của ngài cho người khác.


    Trích NguoiTinHuu.com

    _____________________

    Giác Ngộ

    "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?"... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

    Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.


    Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.


    Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ.

    Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.


    Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...


    "Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột"... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.


    Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...


    Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...


    Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...


    Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại...

    Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  6. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  7. #4
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    05/12

    Chữa người bại liệt


    Thứ Hai sau Chúa Nhật II Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Lc 5,17-26

    17Một hôm, khi Đức Giêsu giảng dạy, có mấy người Pharisêu và luật sĩ ngồi đó; họ từ khắp các làng mạc miền Galilê, Giuđê và từ Giêrusalem mà đến. Quyền năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. 18Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. 19Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giêsu. 20Thấy họ có lòng tin như vậy, Người bảo: "Này anh, anh đã được tha tội rồi." 21Các kinh sư và các người Pharisêu bắt đầu suy nghĩ: "Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa? " 22Nhưng Đức Giêsu thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng: "Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? 23Trong hai điều: một là bảo: "Anh đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy mà đi", điều nào dễ hơn? 24Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội. Đức Giêsu bảo người bại liệt: tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà! " 25Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa. 26Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: "Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ! "


    Suy niệm:
    Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người bại liệt có ba chi tiết đặc biệt:
    Chi tiết thứ nhất là cách người ta đem bệnh nhân đến với Chúa. Khi Chúa Giê-su đang giảng, có bốn người khiêng tới một cái giường có một người bại liệt. Họ đã cố gắng tìm cách đưa bệnh nhân vào mà không được. Cuối cùng họ chọn giải pháp đem bệnh nhân lên mái nhà, rỡ mái ra rồi thòng dây thả xuống. Họ chỉ đặt đó thôi không nói năng nài xin gì. Nhưng ai cũng hiểu họ muốn gì

    Chi tiết thứ hai là Chúa Giêsu tha tội cho bệnh nhân. Chắc chắn Chúa biết người này đang đau khổ về thể xác, và chắc chắn người này cũng như thân nhân muốn xin Chúa chữa cho được lành mạnh. Nhưng tại sao câu đầu tiên Chúa lại nói là tha tội? Người này có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy? Quan niệm của người Do Thái cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội lỗi, bệnh càng nặng tức tội lỗi càng nhiều.


    Chúa Giê-su không đồng tình với quan điểm ấy, đối với Chúa: tội lỗi là tội lỗi, bệnh tật là bệnh tật. Đây là hai vấn đề riêng biệt, không liên quan đến nhau. Khi nói “Này anh, tội anh được tha rồi” Chúa chỉ muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội. Ngài tha tội nên Ngài là Thiên Chúa.


    Chi tiết thứ ba là Chúa Giêsu thấu suốt ý nghĩ thầm kín của người khác. Việc Chúa nói tha tội cho người bại liệt, đối với những người Pharisiêu và Kinh sư là một hành động không thể chấp nhận được. Nhưng họ chưa kịp thổ lộ thì Chúa đã đọc được những ý nghĩ đó. Họ thầm nghĩ rằng ông này là ai mà dám nói phạm thượng? Là người mà dám tha tội cho người khác? Câu hỏi Chúa dành cho họ “Tha tội và chữa khỏi bệnh, đàng nào dễ hơn?” Sự thực cả hai đều khó, vượt quá sức con người. Để chứng tỏ cho mọi người biết Ngài có quyền tha tội, Chúa Giêsu đã làm phép lạ ngay trước mắt họ. Người bại liệt đã đứng dậy vác giường đi trước sự kinh ngạc của mọi người.


    Chúng ta hãy nhìn nhận mình qua hình ảnh của người bại liệt: anh ta toàn thân bại liệt tức là anh ta bất lực hoàn toàn phải nhờ thân nhân giúp đỡ. Một khi chúng ta lầm lỡ, khi chúng ta phạm tội trọng là chúng ta bất lực trong việc hiệp thông với ơn Chúa. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu. Ngài là Đấng vô tội đã đến cứu chuộc chúng ta. Hãy đến với Chúa để được Ngài cứu chữa.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì chúng con đã được diễm phúc làm con Chúa, được sống trong ân sủng của Chúa. Thế nhưng, đức tin nơi chúng con vẫn còn lu mờ vẩn đục. Niềm tin của anh bất toại này đã làm thức tỉnh chúng con. Xin cho dù giữa những thăng trầm trong cuộc sống, chúng con luôn vững tin rằng Chúa vẫn hằng yêu thương che chở và mong muốn chữa lành chúng con.

    http://tgpsaigon.net/

    __________________


    Thiện Nguyện

    Hôm nay là ngày quốc tế những người thiện nguyện, được Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1985 và cử hành lần đầu tiên ngày 05 tháng 12 năm 1986. Ngày quốc tế những người thiện nguyện vừa là một tưởng thưởng và biết ơn đối với không biết bao nhiêu người đang âm thầm phục vụ không công những người đồng loại của mình, vừa là một lời gọi dấn thân phục vụ.

    Hiện nay, trên khắp thế giới có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ trong mọi lãnh vực: từ một cán sự y tá phục vụ trong rừng già Phi Châu, đến các chuyên viên làm việc trong các dự án phát triển tại các nước thuộc thế giới đệ tam, từ một thanh niên thiếu nữ âm thầm làm việc tại các nước nghèo đến các chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên: tất cả đều được thúc đẩy bởi một ý chí: đó là phục vụ người anh em.

    Ngày quốc tế những người thiện nguyện cũng là một bài ca dành cho một nhân loại đã đạt được một bước tiến dài trong sự trưởng thành. Bên cạnh những bước dật lùi vì chiến tranh, vì hủy hoại lẫn nhau, nhân loại vẫn cố gắng tiến bước trong khát vọng và những nỗ lực nhân đạo. Bước tiến ấy còn tiếp tục là nhờ ở tinh thần thiện nguyện, ý chí phục vụ

    Ngày quốc tế thiện nguyện hôm nay không phải là phụ trương của những ngày quốc tế khác rải rác trong suốt năm như ngày Hòa Bình thế giới, ngày sức khỏe, ngày thực phẩm, ngày Giới Trẻ, ngày Môi Sinh, ngày Nhi Ðồng, ngày Phụ Nữ v.v... Ngày hôm nay là khẳng định của một ý niệm nền tảng cho tất cả mọi ngày quốc tế khác: ý niệm đó chính là tự nguyện phục vụ.

    Ngày quốc tế những người thiện nguyện hôm nay không chỉ là ngày tưởng thưởng và biết ơn đối với những người thiện nguyện. Ngày hôm nay là ngày của mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ có thể sống trọn ơn gọi làm người khi chúng ta biết tự nguyện sống cho người khác.

    Chúa Giêsu là mẫu mực của thiện nguyện... Là Thiên Chúa, Ngài đã đến trong thế gian để mặc lấy thân phận nghèo hèn của con người. Trở nên con người, Ngài đã không sống giữa chốn giàu sang phú quý, nhưng đến với những con người nghèo hèn nhất trong xã hội. Ngài đã phục vụ và phục vụ cho đến chết. Ngài đã đến để làm cho bộ mặt thế giới này trở nên nhân bản hơn. Cùng với Ngài, hàng hàng lớp lớp những con người dấn thân phục vụ tha nhân đã tô điểm cho bộ mặt thế giới được thêm tươi tốt hơn. Quả thực, một thế giới không có những người sống và chết cho tha nhân là một thế giới không có nhân tính... Chúng ta hãy tưởng tượng một thế giới không có những thánh Phanxicô thành Assisi, không có những Mahatma Gandhi, không có những Albert Schweitzer, không có những Têrêxa Calcutta, không có những hội viên của Hội Chữ Thập Ðỏ... một thế giới như thế quả thực là một thế giới buồn thảm. Một thế giới không có những bàn tay đưa ra để chia sẻ, để san sẻ, để đỡ nâng, một thế giới không có những tấm lòng tử tế: một thế giới như thế quả thực là một thế giới của chết chóc...

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  8. Có 6 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  9. #5
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    06/12

    Lòng Chúa bao dung


    Thứ Ba sau Chúa Nhật II Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 18,12-14

    12"Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? 13Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.


    Suy niệm:
    Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?

    Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.


    Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".


    Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.


    Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà.

    Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.


    Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.


    Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________


    6 Tháng Mười Hai
    Thánh Nicholas
    (c. 350?)


    Việc thiếu những dữ kiện "xác thực" của lịch sử không ảnh hưởng đến sự nổi tiếng của các thánh, như trường hợp của Thánh Nicholas cho thấy. Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài, có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô Giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicholas là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư -- Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.

    Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô Hữu dành cho ngài -- sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.


    Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicholas là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicholas đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng.

    Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicholas trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là ông già Noel. Ông già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị giám mục thánh thiện này.

    Lời Bàn

    Cái nhìn có tính cách phê phán của lịch sử hiện đại giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa sâu xa hơn của các huyền thoại về Thánh Nicholas. Có lẽ, bài học thiết thực nhất của ngài là lòng bác ái. Hãy nhìn đến thái độ của chúng ta đối với vật chất trong mùa Giáng Sinh, và hãy tìm ra các phương cách để chia sẻ của cải ấy cho những người có nhu cầu.

    Lời Trích

    "Ðể có thể nhận ra các nhu cầu phúc lợi thích hợp cho tín hữu tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, vị giám mục phải cố gắng quen thuộc với nhu cầu của họ trong các hoàn cảnh xã hội mà họ sinh sống... Ngài phải bày tỏ sự lưu tâm đến tất cả mọi người, bất kể tuổi tác, tình trạng, hay quốc tịch, dù họ là người bản xứ, người xa lạ, hay người nước ngoài" (Sắc Lệnh về Văn Phòng Mục Vụ của các Giám Mục, 16).

    Trích NguoiTinHuu.com

    __________________________


    Hai Cánh Cửa Sổ

    Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về cuộc sống.

    Trong một vở kịch của Samuel Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau: "Tôi biết có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến thăm hắn trong dưỡng trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi nói với hắn: "Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi... Nhìn kìa, những cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!". Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về góc phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ là một đống tro tàn xám xịt".

    Có một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Ðó là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan.

    Tất cả mọi cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như sau: "Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp của Ngài".


    Câu chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một người lại nhìn thấy những vì sao.


    Mùa Vọng là thời gian của hy vọng.


    Chúng ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.


    Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng, được yêu thương.


    Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi để không thất vọng về chính bản thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một tình yêu cá biệt... Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  10. Có 7 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  11. #6
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    07/12

    Hãy đến cùng Tôi


    Thứ Tư sau Chúa Nhật II Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 11,28-30

    28"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. 29Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. 30Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."


    Suy niệm:
    Sách "Liệt Tử" có câu truyện như sau:
    Nước Tống có một người đã đứng tuổi tự nhiên mắc phải chứng bệnh quên lãng. Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Hôm nay ai cho cái gì ngày mai lại chẳng nhớ. Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi. Trước đã làm gì và bây giờ đang làm gì đều quên hết, sau này cũng chẳng nhớ. Cả nhà rất lo lắng về bệnh tình của anh nên đã mời thầy thuốc, chạy đủ hết mọi cách mà cũng chẳng khỏi.

    Sau đó có ông thầy đồ người Lỗ nói rằng tôi chữa được.


    Người bệnh hứa với ông đồ: Hễ chữa được bệnh sẽ chia cho ông một phần gia tài.


    Trước khi trả lời đáp ứng nhận chữa bệnh, ông đồ dùng nhiều cách thức khác nhau để tìm hiểu khả năng trí nhớ của người bệnh này.

    Trước hết ông đồ thử bằng cách lột áo của người bệnh để rét lạnh thì thấy anh ta xin áo. Bỏ đói không cho ăn thì anh ta xin ăn. Ðem anh ta vào chỗ tối tăm thì anh ta xin ra chỗ sáng. Sau đó ông đồ mới nhận lời chữa bệnh. Chẳng biết ông đồ chữa thế nào mà sau bảy ngày anh ta đã hết bệnh và trở lại bình thường.


    Tuy nhiên, khi đã tỉnh táo như thường thì anh ta lại nổi giận, chửi vợ đánh con, cầm dao rượt đuổi ông đồ.


    Người ta bắt giữ anh ta lại hỏi: Tại sao anh lại giận dữ như vậy?


    Anh ta trả lời: Lúc trước tôi mắc bệnh quên thì lòng tôi thảnh thơi khoan khoái, trời đất có còn hay không tôi cũng chẳng cần biết. Nay tôi lành bệnh, tôi nhớ lại tất cả những chuyện của mấy mươi năm về trước như chuyện buồn, vui, yêu, ghét, thành công, thất bại, lòng tôi trở nên bối rối, ngổn ngang trăm mối. E rằng sau này các việc ấy cứ bám cứng lấy tâm trí tôi thì dù cho muốn quên chúng đi trong một giây, một phút liệu tôi có được như ý muốn hay không?


    Nhìn một người điên, người mất trí, có kẻ chép miệng khen người ấy hạnh phúc, vì chẳng có gì phải lo âu phiền muộn. Thế nhưng nếu hỏi lại những người vừa buông lời khen này xem họ có muốn trở thành người hạnh phúc kiểu như vậy không? Chắc chắn họ sẽ trốn chạy trước câu trả lời, vì đã làm người thì chẳng ai muốn mình được gọi là kẻ ngây ngô, không nhớ, không biết chuyện gì. Không muốn bị gọi là kẻ ngây ngô thì con người lại phải đối đầu với lo âu, phiền muộn, nóng giận, đau khổ, chúng là gánh nặng của thuyết nhân sinh.


    Mở mắt chào đời lúc ngửa tay đón nhận sự sống thì cũng là lúc con người phải mang lấy gánh nặng nề. Bởi thế, không ít kẻ dám đánh đổi tất cả để tìm kiếm một chút thú vui để được quên trong chốc lát, có kẻ tìm quên trong sợi khói phù du, có người tìm quên trong men say trác táng, rồi cũng tìm được thú vui trong chốc lát. Nhưng rồi sau những phút giây ngắn ngủi ấy, thực tế lại trở nên nặng nề hơn, gánh nặng cuộc đời càng xúi giục sâu hơn.


    Lại cũng có những triết thuyết như vô cảm, vô vị, vô sắc chỉ giúp con người giải thoát lo âu vướng bận của cuộc sống, thực hiện những hướng dẫn đó thật là một thái độ lý tưởng cho những ai muốn kiếm tìm sự bình an. Thực tế trong cuộc sống thử hỏi mấy ai hiểu được điều này, vì cuộc sống con người gắn liền với cái cảm tính lo âu, nóng giận, buồn phiền... có tránh cũng chẳng thoát, khó nhọc và gánh nặng là thân phận của kiếp sống con người.


    Về phần Chúa Giêsu, cảm thông với phận kiếp làm người nên khi đến cứu chuộc trần gian Ngài đã nhận một cuộc đời lam lũ ở làng quê Nazareth. Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ngài, nếu luật lệ Do Thái đã bị các luật sĩ và biệt phái biến thành chiếc ách kìm kẹp dân Chúa. Hãy đến với Ngài, nếu đau khổ của kiếp nhân sinh như chiếc gánh đè nặng trên vai con người. Ðến với Ngài không phải để được cất khỏi những điều ấy. Vì Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn lề luật và làm cho ách trở nên êm ái và gánh trở nên nhẹ nhàng.


    Lề luật phải được giữ trong tinh thần và sự thật. Lề luật giải phóng con người và đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Gánh trở nên nhẹ nhàng vì từ nay con người không phải một mình mang lấy đau khổ nhưng đã có người chia sẻ cảm thông. Dân tộc Do Thái đã hằng mong mỏi chờ Ðấng Cứu Thế đến, vì khi Ngài đến Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ trên khuôn mặt và kẻ nhọc mệt sẽ được Ngài nâng đỡ bổ sức.


    Sống trong tâm tình mùa vọng, mùa trông đợi, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta cũng sẽ tìm đến với Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế để được Ngài an ủi, nâng đỡ, bổ sức và đồng thời học nơi Ngài tâm tình biết chia sẻ cảm thông với người khác. Vì mang kiếp phận con người chẳng ai tránh khỏi khó nhọc và gánh nặng, nhưng khó nhọc sẽ bớt khi được người chia sẻ, gánh nặng sẽ vơi khi có kẻ cảm thông.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con dám trao vào tay Chúa gánh nặng của từng ngày sống. Những công việc chúng con cảm thấy quá sức, những xung khắc tưởng chừng như bế tắc. Những lúc ấy lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm đến với Chúa để được Ngài thêm sức bổ dưỡng.

    http://tgpsaigon.net/

    ________________________


    Chiếc Áo Hạnh Phúc

    Một vị vua kia có tấc cả mọi sự để được hạnh phúc... Nhưng lúc nào nhà vua cũng cảm thấy đau khổ, bứt rứt lo lắng. Các vị lương y khắp nước được triệu tập, nhưng tất cả đều bó tay. Sau cùng có một vị lương y xin yết kiến. Sau khi đã xem xét bệnh tình, vị lương y tâu rằng: "Ðức vua sẽ hoàn toàn hạnh phúc, nếu đức vua mặc được chiếc áo lót của người sung sướng nhất trần gian".

    Thế là nhà vua ra lệnh cho tìm xem ai là người hạnh phúc nhất trên trần đời... Binh sĩ đã đi rảo khắp cả nước, nhưng không tìm được con người hạnh phúc đó. Trên đường quay về chịu tội, họ đã gặp được một bác chăn chiên đang ca hát véo von, không một chút lo âu. Ðám binh sĩ đã sấn lại tóm cổ người chăn chiên và lột áo. Nhưng vừa lột áo người chăn chiên, họ vô cùng sửng sốt vì ông ta không có nổi một chiếc áo lót!


    Người đời thường nói: "Có tiền vua tiên cũng được". Nhưng chắc chắn người ta không thể dùng tiền bạc để mua hạnh phúc, an vui cho tâm hồn mình. Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó. Chỉ khi nào tâm hồn chúng ta trống rỗng của cải, Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  12. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  13. #7
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    08/12

    Thái độ trước ơn Chúa


    Lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội

    Lời Chúa:
    Lc 1,26-38

    26Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, 27gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. 28Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." 29Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. 32Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." 34Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " 35Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." 38Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


    Suy niệm:
    Vai chính trong tường thuật này là Đức Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:

    - một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)


    - nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì “đầy ơn sủng” và được “Đức Chúa ở cùng” (câu 28)


    - được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)


    - dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38 : Fiat = “Xin Chúa cứ làm nơi tôi...”).


    Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.


    Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Xin cứ làm cho tôi...”.


    “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói : Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1,28-29)


    Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.


    Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ.

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________


    8 Tháng Mười Hai
    Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
    Lc 1, 26-38




    Mỗi người chúng ta đều có một bà mẹ trần thế. Mẹ là người sinh ra ta, cho ta bú mớm vỗ về, an ủi ta. Mẹ là người dậy ta tiếng nói đầu đời. Mẹ đưa ta tới trường ,mở rộng chân trời cho ta tiến bước. Mẹ dậy ta biết vượt thắng gian nan, đẩy lui thử thách, biết quí trọng thời gian. Mẹ làm gương cho ta về lòng bao dung, chia sẻ, nhân ái. Mẹ dậy ta phải sống công bằng bác ái. Mẹ giúp ta ham sống và tìm ra ý nghĩa cuộc đời. Mẹ là niềm an ủi, là hạnh phúc và là sức mạnh để ta lướt thắng gian nguy .Vâng, Chúa đã trao cho mỗi người một bà Mẹ đáng yêu, đáng quí trọng, Chúa lại ban tặng cho nhân loại một bà Mẹ vượt trổi trên mọi bà Mẹ thế trần. Mẹ có tên tuyệt vời không tên nào dưới thế có thể diễn tả hết như Mẹ đã được gọi :

    MARIA .
    -Maria là ai ?

    -Tại sao Mẹ lại vô nhiễm nguyên tội ?


    -Đặc ân vô nhiễm nguyên tội giúp ích gì ta ?


    I. MARIA LÀ AI ?


    Ở đây , ta chỉ nói lướt qua về Maria qua đoạn suy niệm này vì bài này không phải là một nghiên cứu về tiểu sử của Mẹ theo nhãn giới Kinh Thánh hay suy tư thần học mà người viết chỉ phác hoạ đôi nét cơ bản để người đọc dễ nhận ra Maria là ai. Maria là Mẹ Đấng cứu thế, đã sinh ra Chúa Giêsu. Maria được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thánh thiện.

    Cha Người là thánh Gioankim và mẹ Người là bà thánh Anna. Maria được sinh ra vào lúc hai ông bà Gioankim và Anna đã già nua, tuổi tác .Maria sống ở làng quê Nazarét, miền Bắc nước Palestina. Lớn lên như mọi người con gái thời đó, Maria đã đính hôn với Giuse, làm nghề thợ mộc ở làng Nagiarét, thuộc dòng dõi vua Đavít.


    Tuy đã đính hôn với Giuse, nhưng Maria đã khấn giữ mình đồng trinh để đời đời dành riêng cho Thiên Chúa, nên chính trong thời điểm này, ý định của Thiên Chúa đã đổ xuống trên trinh nữ Maria. Thiên Chúa đã sai Thiên sứ Gabrien đến gặp trinh nữ Maria và nói lên ý định tuyệt vời của Thiên Chúa, chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế . "...và này đây bà sẽ thụ thai,sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu "(Lc 1, 31 )


    Maria bối rối, hoang mang, thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !"(Lc 1,34 ). Thiên sứ đã giải thích cho Maria rằng: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa "(Lc 1, 35 ) Sau khi được giải thích về việc thụ thai mà vẫn giữ mình thuộc trọn Thiên Chúa, Maria dứt khoát nói lời xin vâng:

    "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói "(Lc 1,38 ) . Và Ngôi Hai là Chúa Giêsu đã ngự trị trong lòng Đức Trinh nữ Maria .


    Rồi lúc đến ngày sinh con, Mẹ Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá Bêlem(Lc 2,7 ), khi hai ông bà Giuse và Maria phải trở về quê quán để khai hộ khẩu theo lệnh của hoàng đế Au-gút-tô (Lc 2,1 ) . Sau đó hai ông bà Giuse và Maria lại phải đem Chúa Giêsu lánh qua nước Aicập để tránh việc tàn sát con trẻ của hoàng đế Hêrôđê cho tới khi Hêrôđê băng hà; hai ông bà Giuse và Maria lại bồng bế Hài nhi Giêsu trở về Nazarét quê nhà.


    Mẹ Maria đã sống một cuộc đời hết sức âm thầm với Chúa Giêsu và thánh Giuse suốt 30 năm Chúa ở với hai ông ba. Trong ba năm Chúa đi rao giảng và kết nạp các môn đệ, chúng ta chỉ gặp Đức Mẹ một lần ở tiệc cưới Cana.

    Lần khác nữa khi Mẹ Maria và vài người bà con đi tìm Chúa Giêsu, Chúa đã trả lời : "...Những người nghe và giữ lời Ta giảng dậy, đó là Mẹ và anh em của Ta " (Mc 3,31-35 ) . Một lần nữa , chúng ta bắt gặp Mẹ Maria đứng dưới chân Thập Giá Chúa Giêsu trên đồi Canvê(Ga 19,25 ). Lần cuối cùng,chúng ta thấy Mẹ Maria và các môn đệ cầu nguyện chung trong nhà tiệc ly để chờ đợi Chúa Thánh Thần (Cv 1,14 ). Rồi sau đó, có lẽ Đức Mẹ đã theo thánh Gioan đi rao giảng Tin Mừng ở Tiểu Á và đã qua đời ở Êphêsô .


    Maria đã sống ẩn dật, âm thầm nhưng vì Mẹ là Mẹ Đấng cứu thế , nên muôn đời mọi thế hệ đều ngợi khen, tung hô Mẹ .


    II. TẠI SAO MẸ LẠI VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI ?


    Tội nguyên tổ do hai ông bà tổ tiên Adong và Eva đã truyền lại cho con cháu muôn đời. Riêng Mẹ Maria vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng cứu Thế, Thiên Chúa đã dành cho Người đặc ân vô cùng quí giá ngay khi Người còn đang trong cung lòng bà thánh Anna, vì công nghiệp của Chúa Giêsu Con Mẹ sẽ sinh ra sau này, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ Maria nguyên tuyền, trinh trắng,không hề mang tì vết : đó là đặc ân vô nhiễm nguyên tội Thiên Chúa dành riêng cho mình Mẹ mà thôi .


    Chính vì thế, không một phút, một giây nào trong đời sống, Đức Mẹ đã phải khuất phục ma quỉ, đã ở trong tình trạng tội lỗi. Dù khi thụ thai, dù lúc sinh con, Mẹ Maria luôn thuộc trọn về Chúa, nghĩa là lúc nào Mẹ cũng đầy tràn ân sủng của Chúa Thánh Thần, lúc nào Mẹ cũng đầy tràn ân phúc.

    Mẹ không hề mắc tội dù tội riêng mình làm vì Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Mẹ phải là Đấng hoàn toàn nhất để xứng đáng làm Mẹ Ngôi Hai làm người. Mẹ là "Evà mới " như Giáo Hội đã ca tụng Mẹ "Thiên Chúa đã dọn cho con Ngài một chỗ ở xứng đáng nhờ đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Trinh Nữ" . "Mẹ được giữ sạch không vương chút tội lỗi nhờ vào ân sủng do cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ".


    Đức thánh Cha Piô IX đã long trọng tuyên bố tín điều Mẹ vô nhiễm nguyên tội ngày 8 tháng 12 năm 1854 và chỉ bốn năm sau đó chính Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadetta tại Lộ Đức ngày 25 tháng 3 năm 1858 đã xác nhận:

    "Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".


    III. ĐẶC ÂN VÔ NHIỄM GIÚP GÌ CHO TA ?


    Chúng ta là con cái Đức Mẹ,Một người Mẹ hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất vì Mẹ luôn trong trắng, luôn tươi xinh, không một vết tì ố nào có thể làm ô nhiễm tâm hồn Mẹ .


    Với đặc ân vô nhiễm nguyên tội, đặc ân được gìn giữ hồn xác vẹn toàn , Mẹ Maria là "Evà mới ", Evà mang sự sống, chứ không mang cái chết, chỉ có tội mới đem lại sự dữ, mang lại cái chết cho con người , còn Mẹ vì là người vẹn toàn được Thiên Chúa ấp ủ, bao bọc như Chúa gìn giữ con ngươi mắt Chúa, nên Maria đã trở nên mẫu gương trung thành tuyệt đối cho ta về đức trinh khiết Mẹ dành trọn vẹn cho Thiên Chúa. Mẹ trở thành sao mai dẫn lối nhân loại vượt qua cuộc hải hành trần gian đầy cam go thử thách nhờ lòng tin kiên vững không hề lay chuyển qua lời thưa Xin Vâng của Mẹ.

    Maria đã cho ta hiểu qua đặc ân vô nhiễm nguyên tội , Mẹ bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, Đấng nguyên vẹn, ngàn trùng chí Thánh , Đấng vô cùng chung thủy đối với nhân loại này .


    Lạy Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội ,xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa đã yêu thương Mẹ, yêu thương mọi người chúng con và không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được .


    Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết ngước nhìn lên Mẹ dù cuộc đời chúng con có muôn ngàn vấp ngã , để chúng con luôn chỗi dậy và được Mẹ dắt tay chỗi dậy.


    Xin Mẹ giúp chúng con và nhân loại biết bước đi trong vâng phục, tin tưởng và cậy trông như Mẹ đã luôn tuân phục ý Chúa, làm theo ý Chúa và thực thi Lời Chúa.


    Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

    _________________________



    Thiên Chúa Vẫn Tiếp Tục Yêu Thương

    Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc...

    Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt năm 1945. Và đa số chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây... Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.


    Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất; thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 gọi là "các tiên tri chuyên loan báo thảm họa", có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc... để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.


    Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài...


    Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.


    Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được. Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.


    Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.


    Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn "Thưa, xin vâng!" giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.


    Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục "Thưa, xin vâng!" với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu...


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  14. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  15. #8
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    09/12

    Tẩy uế Đền Thờ


    Kỷ niệm cung hiến Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn

    Lời Chúa:
    Ga 2,13-22

    13Gần đến lễ Vượt Qua của người Dothái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. 14Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." 17Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. 18Người Do thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? "19Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." 20Người Dothái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? " 21Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.


    Suy niệm:
    Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.

    Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.


    Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.


    “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).


    “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).


    “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16).


    “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.


    Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61).

    Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).

    Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16 ; 14,26).


    Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người.

    http://tgpsaigon.net/

    _______________________


    Thế Nào Là Cầu Nguyện?

    Một chàng thanh niên nọ khao khát sống đời tận hiến và cầu nguyện, đến nỗi anh đã xa lánh tất cả mọi người và mọi sự, để đến gõ cửa một đan viện nọ... Anh được vị tu viện trưởng chấp nhận tức khắc.

    Trong những ngày đầu, anh quan sát cách sống của các tu sĩ: Sau những giờ cầu nguyện lâu dài, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc: người thì cày cuốc, người thì gặt hái, người thì miệt mài trong công tác dịch thuật. Thấy thế, chàng thanh niên đâm ra thất vọng. Anh đến trình bày ý nghĩ của mình với đan viện phụ như sau: "Thưa cha bề trên, con cứ tưởng ở đây chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất đó là cầu nguyện. Ðằng này, con lại thấy các thầy phải vất vả lo cho những nhu cầu vật chất quá nhiều". Vị tu viện trưởng mỉm cười gật đầu và nói với anh: "Có lẽ con có lý... Nếu con cảm thấy việc làm tay chân không cần thiết, thì con cứ vào phòng đóng cửa lại và tiếp tục cầu nguyện".


    Nghe thế, chàng thanh niên hớn hở trở về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Chỉ sau vài giờ cầu nguyện, anh cảm thấy mệt mỏi, bụng anh cũng cảm thấy cồn cào vì đã đến giờ ăn trưa. Nhưng chờ mãi mà vẫn không thấy ai đến gọi anh vào nhà cơm, người thanh niên mới đến hỏi vị đan viện phụ: "Thưa bề trên, hình như hôm nay các thầy không dùng bữa?". Cha bề trên mỉm cười đáp: "Các thầy đã ăn cả rồi". "Thế sao không ai đến gọi con đi ăn cả?", người thanh niên hỏi. Cha bề trên mới trả lời: "Sáng nay con đã chẳng đến nói với cha là chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất là cầu nguyện đó sao? Cha nghĩ rằng các thầy khác lao động nhiều cho nên cần phải có ăn uống, ngủ nghỉ. Còn con, con muốn sống như các thiên thần, nghĩa là không làm việc, không ăn uống mà chỉ biết suốt ngày cầu nguyện, cho nên cha đã dặn các thầy là đừng đến gọi con dùng bữa".


    Nghe thế, người thanh niên chợt hiểu được thế nào là sống tận hiến, thế nào là cầu nguyện. Con người không chỉ cầu nguyện bằng nhữg giây phút ưu biệt dành cho Chúa, mà còn bằng cả những sinh hoạt từng ngày như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí... Cầu nguyện chính là tìm thấy Thánh ý Chúa và Nước Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.


    Mùa Vọng là mùa thức tỉnh.


    Chúng ta cảm thấy được thôi thúc để dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện hơn. Thánh Kinh nói: Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ 7, Ngài nghỉ ngơi: đó cũng là hình ảnh của đời người. Cuộc sống là một chuỗi làm việc xen lẫn với nghỉ ngơi. Có một thì giờ cho tất cả mọi sự, có một thì giờ để ngủ nghỉ... Có những giây phút ưu biệt trong ngày dành cho việc cầu nguyện, có những thời gian ưu biệt trong năm dành cho việc cầu nguyện. Thời gian ưu biệt ấy không có mục đích nào khác hơn là để giúp cho con người được tỉnh thức hơn, được sẵn sàng hơn, được tươi mát hơn để gặp gỡ Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, trong mọi sinh hoạt hằng ngày.


    Cuộc sống cần có tổ chức, cần có những ngăn kéo, nhưng những ngăn kéo ấy phải được thông thương với nhau. Ngăn kéo của sự cầu nguyện phải được liên kết với ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày. Ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày phải được nối liền với ngăn kéo của sự cầu nguyện.


    Tổ chức cuộc sống như thế tức là biến tất cả cuộc sống thành một lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện triền miên ấy có những phách mạnh dành cho những giây phút thân mật chuyện vãn với Chúa, nhưng những phách mạnh ấy chỉ được làm nổi bật nhờ những âm thầm gặp gỡ Ngài trong từng sinh hoạt, trong từng biến cố của cuộc sống.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  16. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  17. #9
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    10/12

    Họ không nhận ra Ngài


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật II Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 17,10-13

    10Các môn đệ hỏi Người rằng: "Vậy sao các kinh sư lại nói Êlia phải đến trước? " 11Người đáp: "Ông Êlia phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." 13Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả.


    Suy niệm:
    Những người Do Thái đang mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng khi Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận. Ðiều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ rằng Ðấng Cứu Thế sẽ đến theo nghĩa chính trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Nhưng Gioan rao giảng về Ðấng quá bình thường đến nỗi họ không thể chấp nhận và còn chống đối.

    Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.


    Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.


    Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".


    Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.


    Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.


    Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước. Đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.


    Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu, Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".


    Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói: Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.


    Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, các vua chúa trần gian thì ăn mặc gấm vóc lụa là, có kẻ hầu người hạ... còn Chúa, Chúa là vua cả vũ trụ có trọn quyền hành trong tay, thế mà Chúa lại sống rất bình thường, khiêm hạ. Chính sự bình thường đó khiến con người không nhận ra dung mạo Chúa nữa. Xin Thánh Thần Chúa hướng dẫn chúng con biết nhìn ra dung mạo của Ðức Giêsu qua những người anh em hèn mọn trong chúng con. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    _______________________


    Quyền Con Người

    Ngày mùng 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người... Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử nhận loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ.

    Khoản 1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định rằng: Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá và quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội... đều được hưởng mọi quyền lợi và tự do, được công bố trong bản tuyên ngôn.


    Trong 21 khoản đầu của tuyên ngôn, chúng ta có thể kể ra những quyền cơ bản sau đây: quyền được sống, được tự do và được đảm bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay chịu những hình phạt độc ác, vô nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được nại đến sự xét xử của những tòa án quốc gia có thẩm quyền, quyền không bị bắt giữ, giam cầm hay dày ải trái phép, quyền không bị độc đoán vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại, quyền được cư trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền được sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp.


    Ðó là một số những quyền và tự do cơ bản của con người.


    Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến. Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa bình chỉ thực sự có khi con người biết tôn trọng quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.


    Nhìn nhận và tôn trọng quyền con người là bổn phận hàng đầu của người Kitô chúng ta vì chúng ta tin nhận rằng con người đã được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được cứu rỗi bằng chính Máu của Ðức Kitô. Ðó là tất cả phẩm giá của con người.


    Với ý thức ấy, người Kitô luôn được kêu mời để nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi người và mỗi người, nhất là những người kém may mắn, cùng khổ nhất.


    Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Edward Desmond được đăng trên tạp chí Time số ra ngày 04 tháng 12 năm 1989, Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 vì công tác phục vụ người nghèo tại Ấn Ðộ, đã xác quyết về công cuộc của Mẹ: đó là cái nhìn tôn trọng đối với người nghèo. Ðược hỏi: ơn cao trọng nhất mà Chúa đã ban cho Mẹ là gì? Vị sáng lập dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái đã đáp gọn: "Ðó là người nghèo". Bởi vì, theo Mẹ Têrêxa, với người nghèo Mẹ có dịp ở với Chúa Giêsu 24 giờ mỗi ngày. Mẹ nói: "Họ là Chúa Giêsu đối với tôi. Tôi tin tưởng ở điều đó còn hơn là làm những điều lớn lao cho họ".


    Nhìn những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị xã hội tước đoạt mọi quyền lợi và bị đẩy ra bên lề, như chính hiện thân của Chúa Giêsu: đó phải là cái nhìn và động lực của mọi hoạt động của người Kitô chúng ta. Tôn trọng nhân quyền, bệnh vực nhân quyền là thế đó.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  18. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  19. #10
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    12/12

    Gioan là một ngôn sứ


    Thứ Hai sau Chúa Nhật III Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 21,23-27

    23Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các Thượng tế và Kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?" 24Đức Giêsu đáp: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?" Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?" 26Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ." 27Họ mới trả lời Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy."


    Suy niệm:
    “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy” (c. 23). Hai câu hỏi của giới lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem đặt cho Đức Giêsu. Làm các điều ấy là vào thành thánh giữa đoàn dân tung hô vang dội, là đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, là chữa bệnh và giảng dạy ở đó (Mt 21, 12-15). Ai là Đấng đã cho ông Giêsu quyền ấy? Đây không phải là câu hỏi để Thượng tế và Kỳ mục tìm thông tin. Đây là câu hỏi để họ tìm thêm lý lẽ nhằm bắt bẻ Đức Giêsu khi có dịp.

    Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi này. Hay đúng hơn Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác (c. 24). Ngài chỉ hỏi họ đúng một điều thôi, về nguồn gốc phép rửa của Gioan. “Do trời hay do người phàm,” do Thiên Chúa hay do loài người (c. 25). Câu hỏi này lập tức đưa họ vào thế bị động, lưỡng nan. Nếu do Thiên Chúa, tại sao họ lại không tin Gioan? (c. 25). Nhưng họ lại không dám bảo phép rửa của Gioan là do người phàm, vì dân chúng tin Gioan là một ngôn sứ (c. 26), nghĩa là người của Thiên Chúa, người được sai để nói lời của Ngài.


    Các Thượng tế và Kỳ mục đã không dám trả lời câu hỏi của Đức Giêsu. Nếu nhìn nhận phép rửa của Gioan là đến từ Thiên Chúa, thì họ cũng phải nhìn nhận Đức Giêsu, vì Gioan làm chứng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Điều này thì họ không hề muốn, vì nó đòi họ phải thay đổi cuộc sống, thay đổi mọi lối suy nghĩ và mọi niềm tin xưa nay. Ngược lại nếu coi thường phép rửa của Gioan, họ lại sợ dân chúng. Họ không dám đi ngược với cái nhìn của dân, vì muốn được lòng dân. Rõ ràng họ không có tự do để chọn một trong hai. Đức Giêsu đã bắt họ phải công khai quan điểm của mình. Nhưng họ đã chọn thái độ né tránh: “Chúng tôi không biết.” (c. 27). Nói câu này trước mặt dân chúng thì quả là khó nghe và khó tin. Làm sao họ lại không biết chuyện quan trọng đó? Vì họ không thỏa mãn điều kiện Đức Giêsu đưa ra (c. 24), nên Ngài sẽ không trả lời cho họ biết Ngài dùng quyền nào (c. 27).


    Thành thật với chính mình thật khó biết bao! Đón nhận sự thật với trọn cả tâm hồn đòi phải trả giá. Sự thật bao giờ cũng đòi ta đổi đời, không để ta yên. Chính vì thế ta thích quanh co và dễ né tránh sự thật. Nhưng dù ta có né tránh sự thật, thì sự thật vẫn cứ theo đuổi ta luôn. Chẳng ai làm át được tiếng nói của sự thật. Mùa Vọng là thời gian ra khỏi bóng tối của dối trá, để đón lấy sự thật. Chỉ cần bớt một chút cứng cỏi của tự mãn về cái tôi, thêm một chút mềm mại của tình yêu khiêm hạ, là ta có cơ may gặp được chân lý như đám đông dân chúng. Và chân lý sẽ cho ta được tự do (Ga 8, 32).



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin giúp con dẹp bỏ những nẻo đường quanh co qua lối sống của chúng con với Chúa, với anh em. Xin cho chúng con dám sống thật, dám nhìn nhận sự thật. Và trên hết, xin cho chúng con biết mở lòng ra để đón nhận Chúa là sự thật, là tình yêu và là lẽ sống của đời chúng con.

    http://tgpsaigon.net/
    ______________________


    12 Tháng Mười Hai
    Lễ Ðức Mẹ Guadalupe


    Một Thánh Lễ để vinh danh Ðức Mẹ Guadalupe đã có từ thế kỷ 16. Niên sử của thời đại đó kể cho chúng ta biết câu chuyện sau đây.

    Một người thổ dân nghèo hèn tên Cuatitlatoatzin được rửa tội và lấy tên là Juan Diego. Ông 57 tuổi, goá vợ và sống trong một làng nhỏ gần Mexico City. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Ðức Mẹ.


    Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Ðức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.


    Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Ðiều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.


    Trước sự hiện diện của đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Ðức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac. Ðó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.

    Lời Bàn

    Việc Ðức Maria hiện ra với Juan Diego dưới hình thức một người đồng hương của ông nhắc nhở cho chúng ta thấy, Ðức Maria và Thiên Chúa, là Ðấng đã sai ngài đến, chấp nhận mọi dân tộc. Trong hoàn cảnh thời bấy giờ, khi người Tây Ban Nha đối xử tệ hại và dã man với người thổ dân, việc hiện ra là lời khiển trách người Tây Ban Nha cũng như một biến cố trọng đại đối với người thổ dân Mỹ Châu. Trước khi có biến cố này, việc trở lại Kitô Giáo chỉ thưa thớt, nhưng sau đó họ trở lại cả đoàn. Theo một sử gia đương thời, có đến chín triệu người thổ dân trở lại đạo Công Giáo trong một thời gian rất ngắn. Ngày nay, chúng ta thường nghe là Thiên Chúa ưu đãi người nghèo, và Ðức Mẹ Guadalupe minh chứng rằng tình yêu Thiên Chúa dành cho người nghèo, và chính Mẹ đồng hóa với người nghèo là một chân lý đã có tự ngàn xưa, được phát xuất từ Phúc Âm.

    Lời Trích

    Ðức Maria nói với Juan Diego: "Hỡi con rất yêu dấu của Mẹ, ta là Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Thiên Chúa thật, Người là Tác Giả của Sự Sống, là Tạo Hóa của muôn loài và là Chúa của Thiên Ðàng cũng như Trái Ðất... và điều ta mong muốn là một nhà thờ sẽ được xây cất ở đây cho ta, là nơi ta sẽ chứng tỏ lòng khoan dung và nhân hậu của ta đối với người thổ dân, và tất cả những ai yêu mến và tìm đến ta, như một người Mẹ đầy lòng thương xót của con và của mọi người dân của con..." (trích từ niên sử cổ).

    Trích NguoiTinHuu.com

    _________________________


    Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói

    Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".

    Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.


    Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  20. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  21. #11
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    13/12
    Thánh Lucia
    (c. 304)


    Nhưng sau nó hối hận


    Thứ Ba sau Chúa Nhật III Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Mt 21,28-32

    28Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." 29Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. 31Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất." Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy."



    Suy niệm:
    Dụ ngôn hôm nay là một dụ ngôn đặc biệt, với nội dung đơn sơ. Đức Giêsu nói dụ ngôn này cho các Thượng tế và Kỳ mục. Một người cha có hai con trai. Ông sai đứa con thứ nhất đi làm vườn nho. Lúc đầu anh ta từ chối, nhưng sau đó hối hận nên lại đi (c. 29). Ông gặp đứa con thứ hai và kêu anh làm cùng một việc. Anh mau mắn nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không đi (c. 30). Đức Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng việc hỏi họ một câu khá dễ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của cha?” Không mấy khó khăn, các Thượng tế và Kỳ mục đã trả lời đúng. Nhưng họ không ngờ mình mắc bẫy của Ngài như xưa vua Đavít đã mắc bẫy của ngôn sứ Nathan (2 Sm 12, 5). Bởi chính họ là đứa con thứ hai, nhận lời, nhưng rồi lại không đi, chính họ là những người không thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

    Hẳn giới lãnh đạo ở Giêrusalem sẽ tức điên lên vì nhục nhã khi nghe Đức Giêsu nói đứa con thứ nhất chính là những kẻ thu thuế và các cô gái điếm (c. 31). Theo Đức Giêsu, những người tội lỗi này sẽ vào Nước Trời trước cả giới lãnh đạo tôn giáo đầy uy tín, đạo đức, oai phong. Tại sao lại có chuyện oái oăm đó? Chính thái độ tin hay không tin ông Gioan tạo ra sự khác biệt này. Gioan xuất hiện như một hiện tượng nổi bật, ai cũng thấy. Các vị chức sắc tôn giáo cũng thấy, nhưng sau đó họ không hối hận mà tin (c. 32). Còn những người tội lỗi, giống đứa con thứ nhất, lúc đầu từ chối cha, nhưng sau đó đã hối hận và vâng lời (c. 29). Họ đã tin Gioan và bước vào đường công chính (c. 32).


    Từ chỗ nói: “Thưa cha, con đây”, đến chỗ thực sự đi làm vườn nho, có một khoảng cách khá lớn, khiến nhiều người ngần ngại. Chấp nhận tin là chấp nhận lên đường, bước vào cuộc phiêu lưu. Con đường công chính đầy thách đố, bấp bênh và bất trắc. Tin vào Gioan đòi hỏi sám hối, để đón Đấng Thiên Sai. Nhưng ít người muốn nhận mình có lỗi. Có khi cô gái điếm lại dễ hối hận hơn một người công chính. Có khi anh thu thuế lại dễ ăn năn hơn một người đạo hạnh. Dù sao tin vào Gioan khiến mọi người không được sống như xưa. Hơn nữa, niềm tin ấy thế nào cũng dẫn đến tin vào Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu là chấp nhận mất đi những chỗ dựa ổn định. Không dám mất thì cũng chẳng dám tin.


    Nhiều Kitô hữu hôm nay gặp khó khăn không nhỏ về đức tin, vì sống đức tin đòi họ phải trả một giá quá lớn. Nếu chúng ta đã có lần nói: Con không muốn đi!, thì chúng ta luôn có thời gian suy nghĩ lại, để tự điều chỉnh, và sau đó nói: “Này con đây, xin hãy sai con.”



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, lời mời gọi của Chúa nhiều khi làm chúng con phải ngập ngừng hoặc chẳng dám thưa vâng. Vì chúng con ngại hy sinh, sợ thiệt thòi. Xin cho chúng con can đảm bắt đầu làm lại những gì chưa đúng, chưa tròn bổn phận làm con Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn hăng hái lên đường, luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa.

    http://tgpsaigon.net/
    ______________________

    Danh Hiệu Của Ánh Sáng


    Không những ở Việt Nam, nhưng trên toàn thế giới, nhiều thánh nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia, như nữ tu Lucia, một trong ba trẻ đã được thấy Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima.

    Những người thiếu nữ mang tên Lucia này không khỏi thất vọng khi tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của thánh nhân. Vì những sách cũ đã viết tiểu sử của các thánh nhân đã ghi lại nhiều câu chuyện về thánh Lucia, để rồi các tác giả viết về đời sống của các thánh nhân thời đại chúng ta lại phê bình những câu chuyện ấy không có tính cách lịch sử. Chúng ta chỉ có thể tóm lại những chứng tích lịch sử để viết về cuộc đời, nhất là cái chết vì niềm tin của thánh Lucia như sau:

    Một chàng thanh niên không Công Giáo thất vọng vì không được Lucia đáp trả lại tình yêu của mình đã tố cáo với nhà cầm quyền Lucia là người Công Giáo. Và nàng đã bị xử tử vào năm 304 tại thành Syracuse vùng Sicilia, mạn Nam nước Italia. Di tích lịch sử thứ hai là tên Lucia được ghi trong danh sách những thánh tử đạo trong lời nguyện thánh lễ Roma, nay là lời nguyện Thánh Thể thứ nhất trong phụng vụ mới.

    Những di tích bên lề cũng nên nói đến là nhiều địa danh, nhiều làng mạc, thành phố bên Âu Châu mang tên nàng, cũng như có những bằng chứng lịch sử về sự tôn kính nàng từ trước thế kỷ thứ 5.

    Chữ "Lucia" có nghĩa là ánh sáng. Và gương can đảm chết vì lòng tin của nàng vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tâm hồn những người đang bị thử thách và đau khổ vì lòng tin, cũng như làm rạng rỡ những khuôn mặt của những thiếu nữ mang tên thánh bổn mạng Lucia.

    Muốn hiểu sự can đảm của thánh Lucia Giáo Hội mừng kính hôm nay với tước hiệu đồng trinh, tử đạo, chúng ta có thể tưởng tượng một thiếu nữ Công Giáo sống giữa những người không Công Giáo vào thời kỳ tôn giáo này bị bách hại. Ðể sống trọn niềm tin Công Giáo, nàng cũng gặp nhiều khó khăn như đại đa số những tín hữu Kitô trong thời đại chúng ta phải sống chung với những người vô thần, không tin tưởng.

    Lạ lùng hơn là niềm tin của Lucia. Nàng tin vào một người sáng lập tôn giáo với thân thế và sự nghiệp không mấy được rõ ràng ở một nước thuộc địa xa xôi với thủ đô Jerusalem bị quân đội Roma phá hủy cách đó 200 năm. Trước khi truyền đạo, ông này làm nghề thợ mộc và sau một thời giảng đạo ngắn ngủi, ông bị quân lính Roma đóng đinh vào thập tự, một hình phạt dành cho dân thuộc địa phạm những trọng tội sát nhân hay nổi loạn. Nay Lucia tin tưởng với tất cả tâm hồn là ông ấy đã Phục Sinh, như một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã chấp nhận những gì ông truuyền dạy và đã làm.

    Ðể biểu lộ lòng tin của mình, Lucia đã thề hứa giữ sự trinh khiết, không lập gia đình.

    Lucia lập lời hứa đó vì nàng biết đến gương anh dũng của những người chết vì đạo trong các hí trường tại Roma hay những nơi khác và nhất là để giữ lòng trung tín với ông Giêsu làng Nagiareth, đã bị chết treo trên thập giá, nhưng đối với niềm tin của nàng là Ðấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  22. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  23. #12
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    14/12

    Thầy có thật là Đấng phải đến không?


    Thứ Tư sau Chúa Nhật III Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Lc 7,19-23

    Ông Gioan liền gọi hai người trong nhóm môn đệ lại, 19sai họ đến hỏi Chúa rằng: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" 20Khi đến gặp Đức Giêsu, hai người ấy nói: "Ông Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: "Thầy có thật là "Đấng phải đến" không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" 21Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy. 22Người trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 23và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."


    Suy niệm:
    Thầy có thật là Đấng phải đến không?
    Gioan sai hai môn đệ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?.” chính giờ ấy Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỉ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy. Người trả lời hai người ấy rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi. Người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Lc. 7, 19-22)

    Cứ nhìn xem thế giới từ Đức Giêsu sinh ra cho đến nay thế nào? Cứ nhìn xem Giáo Hội từ lúc nhập thể đến khi sống lại của Đức Kitô ra thế nào? Nhiều Kitô hữu, nhiều người vẫn còn hồ nghi. Đấng phải đến cứu độ thế giới, đến ban hạnh phúc và chuộc tội, hình như hoàn toàn thiếu vắng.


    Vẫn còn đầy hận thù, sự dữ, bất công. Loài người không tốt hơn. Vì thế, chúng ta tự hỏi: Chúng tôi còn phải chờ Đấng nào khác? Còn phải chờ một Đấng Cứu Thế khác? Gioan tẩy giả đã muốn biết xem Đức Giêsu có thật là Đấng Thiên sai không, ông đã sai hai môn đệ đến hỏi chính Đức Giêsu. Chúng ta cũng muốn biết xem Đức Giêsu có thật là Đấng Cứu Thế không? Xem Ngài còn trả lời không?

    Câu trả lời của Đức Giêsu qua các hành động này: qua việc chữa bệnh, Đức Giêsu xây dựng lại thân xác, qua lời an ủi, Người phục hồi những con tim, qua việc giảng Tin Mừng, Người làm tâm thần sống lại.

    Đấng Thiên sai ngày nay còn trả lời cho chúng ta thế nào để chứng tỏ Ngài thật là Đấng phải đến? Câu trả lời cũng là câu trả lời trên: Ngài đến để xây dựng lại, để đổi mới và hành động cứu độ được các tín hữu bổ sung.

    Những người thắc mắc về Đức Giêsu có thật chính xác không, nếu họ nhìn thấy chúng ta, những tín hữu của Người, thì họ có thấy được câu trả lời về Đức Giêsu không? Chúng ta có là ánh sáng, là muối đất cho họ không? Có giúp họ mở cửa lòng ra đón tiếp Đức Giêsu không? Có chỉ đường cho họ biết lối đến với Người không? Chúng ta có làm cho họ hồi sinh hay ít nhất biết làm cho họ sống vui tươi không?

    Bây giờ Đức Giêsu đang hiện diện trong các tín hữu. Mùa Noel của Người, làm mới Lại Mầu Nhiệm Nhập Thể sẽ qua đi vô nghĩa, vô ích, nếu chúng ta không biết làm chứng về Người, nếu hành động của các tín hữu không có sức giải thoát ai khỏi khổ đau, khỏi tội lỗi.

    Để Gioan tẩy giả tin Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, Đức Giêsu đã hành động bằng những việc cụ thể: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Để người ta tin Đức Giêsu còn là Đấng Cứu thế, cần thiết họ có thể thấy bằng chứng lòng bác ái của chúng ta. Không có chứng nào hơn bằng chứng làm cho Đức Kitô hiện diện sống động nơi chúng ta.

    Đấng phải đến

    Trong tác phẩm “Ngày Đức Kitô chết” của Jim Bishop, có một đoạn mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến:
    “Việc Đấng Cứu Thế đến là nỗi ám ảnh của cả một quốc gia, là niềm vui ngoài mức tưởng tượng, là hạnh phúc vượt khỏi niềm tin, là niềm an ủi cho những vất vả của con người, là giấc mơ của bậc cao niên, là hy vọng của dân đang bị xiềng xích tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai”

    “Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi. Ngài chính là sự hứa hẹn của buổi sáng ngày mai.” Quả vậy, như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi dẫn những lời tiên tri Isaia về thời Cứu Thế, Ngài đã cho thấy Ngài là Đấng phải đến. Ngài đem đến Nước Thiên là một yếu tố quyết định mạnh mẽ. Sau Ngài sẽ không còn ai sẽ đến, vì Ngài đã hoàn tất lời sấm ngôn: “người mù được thấy, người què được đi, người phung hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng.”

    Mùa vọng nói với chúng ta về việc Chúa Giêsu đến, Ngài không chỉ đến trong dòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng kỷ niệm vào lễ Giáng sinh, nhưng Ngài còn đến vào cuối lịch sử để làm thẩm phán xét xử chúng ta nữa.

    Ước gì chúng ta đừng chờ đợi một Đấng nào khác ngoài Đức Kitô, cũng đừng đi lướt qua Đấng phải đến đang hiện diện, cũng đừng khinh thường những giáo huấn của Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng phải đến, Ngài là Đấng đã đến trong thế gian, và Ngài là Đấng sẽ đến đầy quyền năng cao cả để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm. Ước gì chúng ta được vào số những người được Ngài chúc phúc và mời gọi đến lãnh lấy nước Trời làm cơ nghiệp.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, mùa vọng là thời gian mong chờ Chúa đến. Xin cho đời sống chúng con luôn là dấu chỉ cho Nước Chúa trị đến qua hành vi bác ái của chúng con. Xin giúp chúng con biết mang tin vui Chúa đến cho anh em qua đời sống bác ái yêu thương, qua sự dấn thân quảng đại phục vụ mọi người.

    http://tgpsaigon.net/
    ____________________


    Cánh Tay Của Người Ganh Tị Và Tham Lam

    Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.

    Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.


    Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.


    Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  24. Được cám ơn bởi:


  25. #13
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    15/12

    Sứ mạng ngôn sứ


    Thứ Năm sau Chúa Nhật III Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Lc 7,24-30

    24Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? 25Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung trong điện. 26Thế thì anh em đi xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa! 27Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến! 28"Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông. 29Nghe ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. 30Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông.


    Suy niệm:
    Đoạn Tin Mừng này nối tiếp đoạn hôm qua. Khi các môn đệ của Gioan Tẩy giả ra đi rồi, Đức Giêsu nhận xét về ông này:

    - Gioan không là một người nhu nhược như cây sậy phất phơ trước gió, trái lại ông rất can đảm dám vạch tội vua Hêrôđê.


    - Gioan không phải là một người tìm sống một cuộc sống tiện nghi ăn sung mặc sướng, trái lại ông sống rất thanh đạm và kham khổ.


    - Gioan chính là một ngôn sứ, và còn hơn ngôn sứ, Gioan là dọn đường cho Đấng Messia.


    Nếu Gioan chịu làm một cây sậy gió thổi chiều nào uốn theo chiều đó thì cuộc đời Gioan đã không bị gãy đổ, Hêrôđê sẽ ủng hộ Gioan, mọi người quý trọng Gioan và coi Gioan là chính Đấng Messia. Tóm lại Gioan sẽ được tất cả. Nhưng sứ mạng Gioan không hoàn thành.


    Nhưng vì Gioan can đảm thi hành sứ mạng bất chấp những phong ba bão táp, nên ngài đã bị cầm tù, bị chém đầu và kết thúc đời mình trong ngục tù tăm tối, dưới tay một đứa con gái. Tuy nhiên chính vì thế mà Gioan trở thành “người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ.” Xin cho con can đảm trung thành với sứ mạng của con.


    Để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, Gioan chỉ cần giảng cho dân nghe thôi là đủ, tội gì phải vào sống trong hoang địa, tội gì phải ăn uống kham khổ bằng châu chấu và mật ong rừng, tội gì phải mặc áo bằng da thú thô sơ nhám nhúa? Thưa vì Gioan không muốn giảng chỉ bằng lời mà còn bằng cách sống. Gioan giảng về sự sám hối, hoán cải, cho nên Gioan cần phải sống kham khổ như thế.


    “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn Gioan”: một vị ngôn sứ cực nhọc dọn đường cho Đấng Cứu Thế, chịu sống kham khổ trong sa mạc, và chịu chết thê thảm vì sứ mạng của mình, thế mà còn không có phúc bằng tôi, một người sống thời Tân Ước!



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sống mẫu mực của Gioan. Gioan không chịu khuất phục trước tội lỗi của kẻ quyền quý còn chúng con lại tìm thoả hiệp để được yên thân; Gioan đã sống một đời khắc khổ còn chúng con lại mải mê tìm thoả mãn cái bụng của mình. Xin tha thứ cho lối sống lệch lạc của chúng con. Xin giúp chúng con can đảm làm chứng cho Chúa bằng đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương của chúng con.

    http://tgpsaigon.net/


    _______________________



    Xin Một Chút Ánh Sáng

    Triết gia Diogène nổi tiếng là người hạnh phúc nhất trên đời, thế nhưng cuộc sống của ông lại rất đơn sơ nghèo nàn. Ông sống trong một cái thùng, ngày ngày nằm đọc sách nhờ ánh sáng qua lỗ hỏng ở vách thùng. Cơ nghiệp của ông vỏn vẹn chỉ có một cái bát gỗ dùng để múc nước sông mà uống. Thế nhưng, một hôm ra sông để lấy nước, ông thấy có một em bé chăn cừu dùng hai tay để vục nước mà uống. Thế là ông ném cái bát đi và từ đó chỉ dùng tay mà uống nước.

    Vua Hy Lạp nghe biết ông là người hạnh phúc nhất đời bèn tìm đến tận nơi để thăm. Thấy ông đang nằm đọc sách, nhà vua lại gần để hỏi xem ông có cần gì không. Diogène không trả lời. Nhà vua hỏi vặn nhiều lần, ông điềm tĩnh trả lời như sau: "Hạ thần chỉ xin bệ hạ một điều và chỉ một điều mà thôi: xin bệ hạ tránh ra để hạ thần có đủ ánh sáng mà đọc sách". Diogène đã đuổi khéo nhà vua vì sợ bị sa vào tròng danh lợi mà mất cái niềm vui thảnh thơi trong cuộc đời thanh bần đơn sơ.


    Ai trong chúng ta cũng muốn giàu có. Thế nhưng giàu có không hẳn đem lại hạnh phúc thật sự cho chúng ta. Chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, chỉ có những ai không coi tiền của như cứu cánh của cuộc đời, những người đó mới thực sự có hạnh phúc.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  26. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  27. #14
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    16/12

    Làm chứng cho sự thật


    Thứ Sáu sau Chúa Nhật III Mùa Vọng

    Lời Chúa:
    Ga 5,33-36

    33Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. 36Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi.



    Suy niệm:
    Bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa nói về Gioan Tẩy Giả, người làm chứng cho chân lý, làm chứng về Ðức Giêsu.

    Sau khi Chúa ca tụng Gioan Tiền Hô, Ngài bảo cho dân chúng biết Gioan là ngọn đèn cháy sáng. Chúa đề cao cuộc sống thánh thiện và gương mẫu của Gioan.


    Gioan là ngọn đèn cháy sáng: ngài được sinh ra như một ơn lộc lớn lao, là quả phúc hiếm muộn của gia đình Dacaria và Êlisabét, được thánh hiến cho Thiên Chúa và được đầy tràn Thánh Linh. Càng lớn lên ngài càng thêm khôn ngoan và nhân đức. Cuộc đời của ngài là một cuộc tiến lên không ngừng về đường nhân đức. Cùng với sự trưởng thành về thể xác, ngài cũng khôn lớn và vững mạnh trong tinh thần. Gioan thi hành nhiệm vụ vị tiền hô, rao giảng sự thống hối và làm phép rửa ăn năn. Càng ngày ngài càng gây được nhiều ảnh hưởng và đưa nhiều người đến với Đấng Cứu Thế. Còn chúng ta, chúng ta đã làm gì, chúng ta đã sống vai trò giới thiệu Đức Kitô cho người khác như thế nào?


    Ngoài nhân chứng của phàm nhân, Ðức Giêsu còn một nhân chứng khác cao trọng hơn rất nhiều: Ðó là Thiên Chúa Cha, chính Cha đã trao sứ mệnh cho Ðức Giêsu và việc Ðức Giêsu hoàn thành sứ mệnh Cha trao là một chứng từ sống động làm chứng cho Ngài. Cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn khao khát thi hành Thánh Ý Cha. Ngài sống vì tình yêu, trao ban vì tình yêu và chết vì tình yêu cứu độ. Một cuộc đời không ngừng trao ban vì hạnh phúc của người khác. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Ngài bằng việc sống và làm chứng cho sự thật và tình yêu.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, suốt cuộc đời Chúa, lúc nào "sứ mệnh" cũng là một mối quan tâm, lo lắng nhất. Xin cho chúng con cũng biết mau mắn đón nhận trách nhiệm của mình và thi hành trọn hảo. Ðể nhờ đó chúng con đóng góp được phần nào vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    ____________________


    Hơi Ấm Của Tình Người

    Một vị linh đạo Ấn Giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra... Nhưng bỗng chốc, vị linh đạo già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: "Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi".

    Trong cơn thổn thức, vị linh đạo già cố gắng nói từng tiếng: "Lửa và sức nóng trong căn phòng này quá đủ cho ta... Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập".


    Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh... Họ đưa người đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo già cũng trút bớt được nỗi rét run của mình.


    Câu chuyện được trích từ kho tàng khôn ngoan của người Ấn Ðộ trên đây có lẽ gợi lại cho chúng ta lời của thánh Giacôbê tông đồ: "Ðức Tin không có việc làm là một Ðức Tin chết". Vị linh đạo già trên đây đã cảm thấy rét run là bởi vì sự ấm áp của thầy trò đang có với nhau chưa được chia sẻ cho người khác. Ông chỉ cảm thấy thật sự ấm lòng, khi hơi ấm của sự quây quần ấy được san sẻ cho người khác.


    Vị linh đạo này là hình ảnh của đời sống Ðức Tin của chúng ta. Dù có sốt sắng bao nhiêu trong việc cầu nguyện, trong các nghi thức phụng tự, nếu tâm hồn chúng ta không được nuôi dưỡng bằng lòng mến đối với tha nhân, thì hơi ấm của lòng đạo đức nơi chúng ta chỉ là một thứ hơi ấm giả hiệu...

    Một Ðức Tin nhiệt thành, một Ðức Tin có hơi ấm thật sự cần phải được nuôi dướng bằng lòn mến.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  28. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  29. #15
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    17/12

    Từ Bà Đức Giêsu được sinh ra


    Thứ Bảy ngày 17.12.2011

    Lời Chúa:
    Mt 1,1-17

    1Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Ápraham:
    2Ông Ápraham sinh Ixaác; Ixaác sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em ông này; 3Giuđa ăn ở với Tama sinh Perét và Derác; Perét sinh Khétxơron; Khétxơron sinh Aram; 4Aram sinh Amminađáp; Amminađáp sinh Nácson; Nácson sinh Xanmôn; 5Xanmôn lấy Rakháp sinh Bôát; Bôát lấy Rút sinh Ôvết; Ôvết sinh Giesê; 6ông Giesê sinh Đavít. 7Vua Đavít lấy vợ ông Urigia sinh Salômôn7 Salômôn sinh Rơkhápam; Rơkhápam sinh Avigia; Avigia sinh Axa; 8Axa sinh Giơhôsaphát; Giơhôsaphát sinh Giôram; Giôram sinh Útdigia; 9Útdigia sinh Giotham; Giotham sinh Akhát; Akhát sinh Khítkigia; 10Khítkigia sinh Mơnase; Mơnase sinh Amôn; Amôn sinh Giôsigia; 11Giôsigia sinh Giơkhongia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon. 12Sau thời lưu đày ở Babylon, Giơkhongia sinh Santiên; Santiên sinh Dơrúpbaven; 13Dơrúpbaven sinh Avihút; Avihút sinh Engiakim; Engiakim sinh Ado; 14Ado sinh Xađốc; Xađốc sinh Akhin; Akhin sinh Êlihút; 15Êlihút sinh Elada; Elada sinh Mátthan; Mátthan sinh Giacóp; 16Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô.
    17 Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn đời; từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.



    Suy niệm:
    Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh,
    mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.


    Làm người là có một gia phả. Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Matthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của tổ phụ Abraham, và cuộc đời Ngài gắn kết với Itraen, dân được tuyển chọn. Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.


    Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Mátthêu chia lịch sử dân Do Thái làm ba thời kỳ. Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a), thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11), và thời kỳ sau lưu đày, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16). Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bảy, một con số linh thánh. Đức Kitô đã đắm mình trong dòng lịch sử này. Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Itraen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.


    Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ. Đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này. Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.


    Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường. Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít. Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên. Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình. Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã. Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.



    Cầu nguyện:
    Lạy Cha từ ái, đây là niềm tin của con. Con tin Cha là Tình yêu, và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con. Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa, cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt, cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân, con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái. Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại, chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

    Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất cũng có một đốm lửa của sự thiện, được vùi sâu dưới những lớp tro. Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ. Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích, thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.


    Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng. Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu. Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ đang chuyển mình tiến về với Cha, qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần. Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn. Lạy Cha, đó là niềm tin của con. Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.


    http://tgpsaigon.net/

    ___________________


    17 Tháng Mười Hai
    Thánh Lagiarô






    Lagiarô, người bạn của Ðức Giêsu, là anh em của bà Mácta và Maria, được các người Do Thái thời ấy nói rằng, "Kìa xem ngài quý mến ông là chừng nào." Và trước sự chứng kiến của họ, Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại sau ba ngày nằm trong mộ. Sau khi Ðức Giêsu chết và sống lại, có nhiều truyền thuyết về cuộc đời Thánh Lagiarô. Người ta nói rằng ngài đã viết lại những gì được thấy ở bên kia thế giới trước khi được Ðức Giêsu cho sống lại. Có truyền thuyết cho rằng ngài theo Thánh Phêrô đến Syria. Truyền thuyết khác lại nói rằng mặc dù người Do Thái ở Jaffa đã ép buộc ngài và các chị em của ngài lên một chiếc thuyền bị đâm thủng, nhưng họ đã cập Cyrus một cách an toàn. Ở đây, sau khi làm giám mục trong 30 năm, ngài đã từ trần cách bình an.

    Một nhà thờ được xây cất để tôn kính ngài ở Constantinople và một số thánh tích được đưa về từ Cyrus vào năm 890. Truyền thuyết Tây Phương lại nói rằng có một chiếc thuyền không mái chèo cập bến nước Gaul (nước Pháp bây giờ). Ở đây, ngài làm giám mục của Marseilles, bị tử đạo sau khi đã hoán cải nhiều người, và được chôn cất trong một cái hang. Thánh tích của ngài được đưa về một vương cung thánh đường mới ở Autun năm 1146.


    Có một điều chắc chắn là trước đây người ta đã sùng kính thánh nhân. Khoảng năm 390, vào thứ Bảy trước Chúa Nhật Lễ Lá, người ta thường rước kiệu ngay tại ngôi mộ mà Lagiarô đã được sống lại từ cõi chết. Ở Tây Phương, Chúa Nhật Thương Khó trước đây được gọi là "Dominica de Lazaro" (Chúa Nhật Lagiarô), và Thánh Augustine cho chúng ta biết ở Phi Châu, phúc âm về đoạn Lagiarô sống lại được đọc trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá.


    Trích NguoiTinHuu.com

    ____________________________

    Ðôi Vai Của Người Cha

    Tháng 11 năm 1958, ngay chính ngày đăng quang, khi nói chuyện với khách hành hương, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã kể lại một giai thoại trong cuộc đời của ngài như sau: "Khi tôi lên 7, một hôm cha tôi đưa tôi đến một làng bên cạnh, nơi đang tổ chức một buổi lễ của Công Giáo tiến hành trong giáo phận. Phải đi bộ nhiều cây số, tôi cảm thấy mệt mỏi. Cha tôi đã phải đặt tôi trên vai của người. Ðến nơi, tôi cảm thấy thất vọng, bởi vì dân chúng qúa đông, mà tôi thì bé nhỏ. Mất hút trong chợ người, tôi không thể nhìn đoàn người đang diễn hành... Thế là một lần nữa, cha tôi lại bồng tôi trên vai của người. Từ trên cao, tôi có thể xem thấy tất cả mọi sự".

    Và vị Giáo Hoàng được mệnh danh "nhân lành" đã kết luận như sau: "70 năm qua, nhưng tôi vẫn còn ghi nhớ trong tâm trí tôi cử chỉ của cha tôi. Nó đã trở thành một biểu trưng kỳ diệu. Ngày nay, mỗi khi mệt mỏi, mỗi khi tôi không còn thấy gì nữa, tôi nài xin vị Cha trên trời nâng tôi lên đôi cánh của Người".


    Chỉ từ trên đỉnh cao, chúng ta mới có thể thấy rõ mọi sự. Chính Chúa là đỉnh cao của chúng ta. Nơi Người, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của cuộc sống... Những lúc chán sống, những lúc hầu như không còn thấy gì nữa, chúng ta hãy chạy đến với Người.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  30. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  31. #16
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    19/12

    Chúa đã làm cho tôi


    Thứ Hai ngày 19.12.2012

    Lời Chúa:
    Lc 1,5-25

    5Thời vua Hêrôđê cai trị miền Giuđê, có một vị tư tế thuộc nhóm Avigia, tên là Dacaria; vợ ông là Êlisabét cũng thuộc dòng tộc tư tế Aha-ron. 6Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7Nhưng họ lại không có con, vì bà Êlisabét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên. 8Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: 9Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. 11Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12Thấy vậy, ông Dacaria bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần.16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ítraen về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." 18Ông Dacaria thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." 19Sứ thần đáp: "Tôi là Gáprien, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi." 21Dân chúng đợi ông Dacaria, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm. 23Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24Ít lâu sau, bà Êlisabét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời."


    Suy niệm:
    Trong bài đọc I, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với Zacharia, là chồng của Élizabeth thuộc hi họ Dan, và nói với ông rằng: "Người son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson".

    Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:

    "Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được". Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: "Nữ thập tam, nam thập lục". Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: "Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được".

    Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: "Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch". Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.


    Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: "Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đùng quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết quyền năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng Chúa đã ban cho mỗi người để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    ________________________


    Hợp Tác Là An Toàn

    Ngày nay, khi đi trên các nẻo đường của nước Thụy Sĩ, người ta lại nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó trình bày hai chiếc xe hơi, một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều, những người ngồi trên hai xe đang chào nhau, cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.

    Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Ðiều này muốn nói lên rằng giúp đỡ lẫn nhau, đối sử với nhau như người cộng sự, bằng tình bằng hữu là một đảm bảo cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.


    Tinh thần hợp tác không những chỉ đảm bảo cho một cuộc sống bình yên trên các lộ trình, mà cũng còn là một đảm bảo cho một cuộc sống bình yên ở mọi vị trí trong xã hội. Có tinh thần hợp tác là đặt kẻ khác vào chính vị trí của mình, quan tâm tới họ như quan tâm tới chính mình, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ họ như kính trọng, yêu mến giúp đỡ chính mình vậy.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  32. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  33. #17
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default GIÁNG SINH KHÔNG LỄ VẬT

    Khi những cơn gió bấc tràn về mang theo cái lạnh se se của mùa đông, ông mặt trời cũng lười thức dậy để chiếu những tia nắng ấm áp xuống nhân gian. Đường phố tấp nập người mua,kẻ bán.Những đồ trang trí, những cây thông, những ánh đèn, những bản thánh ca rộn ràng vang lên khắp nơi báo hiệu một mùa Giáng sinh lại về.
    Mỗi mùa giáng sinh đến rồi đi đều để lai trong tôi những trải nghiệm khác nhau, thiêng liêng và sâu sắc hơn. Khi còn nhỏ, tôi mong giáng sinh đến chỉ để được đi chơi, được mặc quần áo mới, được ngắm những ánh đèn lấp lánh, những hang đá được trang hoàng lộng lẫy…Nhưng càng lớn lên, tôi càng nhận ra rằng: đón giáng sinh không phải chỉ để chiêm ngắm đèn hoa rực rỡ hay những hang đá đẹp mắt thôi, mà còn phải chuẩn bị tâm hồn mình thật trong sạch, ấm áp để đón Con Thiên Chúa ngự đến.
    Ngày xưa, mùa giáng sinh nào cũng vậy, mỗi lần đi học về, tôi đều mở cửa nhà thờ vào ghé thăm Chúa Hài Đồng một chút, tâm sự với Ngài và thích thú hôn lên đôi chân bé nhỏ thơm phức mùi nước hoa. Tôi rất thích quỳ bên máng cỏ, lặng lẽ nhìn Chúa Hài Đồng nằm đó với nụ cười bình an, thanh thản, giang rộng vòng tay để đón nhận tất cả nhân loại. Ngài giáng thế là để chấp nhận trở thành một con người như bao con người trên thế gian này: bé nhỏ, nghèo nàn- cái nghèo của sự tự hạ đến tận cùng. Càng chiêm ngắm Chúa, tôi càng cảm thấy mình trơ trọi, nghèo nàn, một cảm giác chông chênh, bấp bênh trong kiếp làm người. Mỗi lần đến với Ngài, tôi muốn mình giống như Ba Vua ngày xưa là đem tặng Ngài những lễ vật quý giá. Nhưng nhìn lại mình, tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi không có gì cả: vàng tôi không có, nhủ hương cũng không, mộc dược cũng không. Nhưng có trước mặt Ngài là một con người đầy yếu đuối, lỗi lầm, hoàn tòan không có công trạng gì. Tôi lặng lẽ gục đầu bên máng cỏ. Và cũng trong giây phút ấy, hình ảnh của cậu bé trước máng cỏ mà tôi có dịp đọc được trong một câu chuyện đã làm tôi thay đổi.
    “Khi các ngöôøi chaên chieân ñi roài vaø sự yên tĩnh đã trở lại, Caäu Beù trong máng cỏ ngẩng đầu leân vaø nhìn ra ngoaøi. Một bé trai nhút nhát đang đứng vừa run vừa sợ. Hài Nhi Giêsu khẽ nói:
    - Hãy đến gần Ta, sao con run sợ thế?
    Cậu bé trả lời:
    - Con không dám, con không có gì để dâng cho Chúa cả.
    Hài Nhi đáp:
    - Ta rất muốn con cho Ta món quà!
    Đứa bé đỏ mặt vì xấu hổ:
    - Con thực sự không có gì cả, chẳng có gì thuộc về con. Phải chi con có được cái gì, con sẽ dâng cho Ngài ngay.
    - Ta muốn con tặng cho Ta ba món quà!
    - Con muốn lắm, nhưng con có thể làm gì được cho Ngài đây?
    - Hãy cho Ta bức tranh mà con vừa vẽ.
    Cậu bé đỏ mặt, lúng túng:
    - Không thể được, bức tranh của con quá tệ...không ai muốn xem nó cả.
    - Đúng vậy! Hài Nhi trong máng cỏ đáp. Chính vì vậy mà Ta muốn nó. Con phải luôn cho Ta những gì mà người khác từ chối và những gì mà họ không thích nơi con.
    - Kế đến, Ta muốn con cho Ta cái đĩa ăn của con!
    - Nhưng...con đã làm bể cái đĩa hồi sáng nay rồi. Cậu bé ngập ngừng nói.
    - Chính vì vậy mà Ta muốn nó. Con phải dâng cho Ta những đổ vỡ trong cuộc sống, Ta muốn hàn gắn nó lại.
    - Và bây giờ con hãy lặp lại cho Ta câu mà con đã trả lời với ba mẹ con khi họ hỏi con : "Con đã làm bể cái đĩa của con như thế nào?"
    Cậu bé thì thầm cách buồn bã:
    - Con đã dối ba mẹ con....con nói là con trượt tay làm bể cái đĩa... nhưng thực ra là không phải như vậy.... mà vì con đã giận dữ và đập bể cái đĩa trên bàn.
    - Chính vì vậy mà Ta muốn nghe con nói hết cho Ta nghe đó! Hài Nhi nói. Con hãy luôn cho Ta những gì làm tổn thương con , những lời con nói dối, những hèn nhát, buông thả của con, những sự nghèo nàn, những giới hạn của con...Ta muốn tháo cởi, cất gánh nặng cho con. Con không cần phải chất đầy những thứ đó trên con. Ta muốn con được hạnh phúc và Ta thương yêu con như chính con là. Kể từ hôm nay, Ta muốn con đến với Ta mỗi ngày nhé!”

    Thật vậy, thường thì chúng ta nghĩ rằng khi đến với Chúa chúng ta phải đem theo thứ này, thứ nọ để dâng cho Ngài: những thành công, những niềm vui hay những công đức…Nhưng chúng ta quên rằng: những thứ đó không làm tăng thêm vinh quang cho Thiên Chúa hay làm vui lòng Ngài. Nhưng Ngài muốn ta đến với Ngài bằng chính con người hiện tại với tất cả những khuyết điểm, những gánh nặng của công việc, những đổ vỡ trong các mối quan hệ, những mệt mỏi, chán nản vì bị hiểu lầm, bị chỉ trích, bị loại trừ, bị quên lãng. Những buông thả, những giới hạn, những tổn thương mà người khác đã làm cho ta và cả những tội lỗi chồng chất của ta nữa. Chúng ta không cần phải xấu hổ về những điều đó, bởi vì Thiên Chúa yêu chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng vì chúng ta bất xứng, đáng thương. Thiên Chúa yêu chúng ta không phải với tình yêu “vì” hay “nếu”, nhưng với tình yêu “mặc dù”. Chỉ với tình yêu “mặc dù” chúng ta mới cảm thấy “ tự tin” ngụp lặn trong niềm vui được làm con Thiên Chúa. Bởi, nếu cần điều kiện: “vì” hay “nếu” thì chúng ta mãi mãi không đủ “ tiêu chuẩn” để được Chúa yêu, vì chúng ta luôn giới hạn, mà giới hạn lớn nhất đó là tội lỗi.

    Người ta thường nói: “ Tình yêu không có lý lẽ và giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.” Do đó, chúng ta không bao giờ có đáp án đúng cho câu hỏi: tại sao Thiên Chúa yêu chúng ta? Chỉ biết rằng Thiên Chúa yêu chúng ta với một tình yêu vô điều kiện và Ngài đã yêu thương đến tận cùng. Giờ đây, tôi không còn cảm thấy mặc cảm với sự trơ trọi, nghèo nàn của mình khi đến trước mặt Chúa nữa, vì tôi biết rằng mình được Chúa yêu. Ngài yêu tôi với chính con người hiện tại của tôi, chỉ cần tôi đến và trao vào tay Ngài tất cả. Ngài sẽ chữa lành, băng bó, hàn gắn và làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp trong thánh ý của Ngài.

    Tôi ngước mắt ngắm nhìn Hài Nhi lần nữa, hình như Ngài đang cười với tôi. Tôi cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ tênh. Trái tim tôi bắt đầu những nhịp đập rộn ràng, hân hoan của một người được yêu: Ta yêu con như chính con là. Hãy đến máng cỏ với Ta mỗi ngày nhé! Và dường như có một giọt nước mắt đang lăn dài thấm xuống bờ môi, ngọt lịm.

    Sr.Ter. Trúc Băng
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  34. Có 3 người cám ơn repentir vì bài này:


  35. #18
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default GIÁNG SINH BUỒN

    Noel năm ấy, trời Đàlạt rét sớm. Chui vào khu chợ mới, rảo qua các hàng quán, rồi từ tầng trệt bước lên lầu, gã nhìn thấy một cô gái nhỏ người người Thượng, đang co ro nơi góc cầu thang tăm tối. Ánh mắt van xin. Đôi tay run rẩy giơ ra như đợi chờ những đồng tiền lẻ bố thí. Hình ảnh này khiến gã nhớ tới câu chuyện “Cô bé bán diêm” của Andersen, mà gã đã say mê đọc. Câu chuyện đại khái như thế này:

    Buổi chiều ngày hai mươi bốn tháng mười hai, trời thật lạnh. Cô bé lảo đảo bước đi trong gió rét. Làm sao cô bé có thể bán hết những bao diêm trong một buổi chiều mà mọi người đều đang vội vã chuẩn bị cho một ngày lễ lớn. Nhớ tới những bao diêm còn tồn đọng, cô bé không dám trở về nhà vì sợ bà dì ghẻ đay nghiến. Cô bé tìm một nơi ẩn khuất để ngồi nghỉ chân. Từng cơn gió lạnh thổi qua. Cô bé thầm nghĩ: Bây giờ mình thử quẹt một que diêm để sưởi ấm tí chút đôi lòng bàn tay. Thế rồi, que diêm thứ nhất được quẹt lên. Cô bé thấy mình đang ngồi trong một căn phòng rộng lớn. Củi nơi lò sưởi cháy bừng bừng và tỏa ra hơi ấm. Thế nhưng, chỉ thoáng chốc, que diên lại vội tắt. Chung quanh cô bé chỉ là một màn đêm dày đặc. Với que diêm thứ hai, cô bé thấy mình đang ngồi trước một bàn ăn thịnh soạn, được dọn sẵn cho cô bé trong đêm Giáng sinh. Nhưng rồi que diêm chợt tắt, trước mặt cô bé chỉ còn là băng giá. Que diêm thứ ba được quẹt lên, cô bé thấy mình đang đứng trước một cây Noel với những món quà xinh đẹp. Giữa lúc cô bé đưa tay ra để ngắt lấy, thì que diêm lại tắt ngấm. Chỉ còn lại đường phố tấp nập, kẻ đến người đi. Và cô bé vẫn ngồi đấy, lập cập trước từng cơn gió lạnh thổi tới. Một que diêm nữa, rồi lại một que diêm nữa. Bao nhiêu ước mơ êm đềm nhất lần lượt xuất hiện, rồi lại tan biến theo ánh lửa yếu ớt của que diêm. Cuối cùng cô bé thấy mẹ đến bên mình và cô bé đã van xin cho mình được đi theo mẹ. Hình như mẹ đã mỉm cười với cô bé. Sáng hôm sau, người ta nhận ra cô bé đã chết vì giá lạnh giữa những que diêm đã cháy. Người ta chép miệng thở dài: - Thật tội nghiệp. Hẳn là cô bé muốn sưởi ấm cho mình đây, nhưng rồi lại chết, chết trong đêm Giáng sinh.

    Hình ảnh cô gái nhỏ người Thượng và hình cảnh cô bé bán diêm khiến gã liên tưởng tới lễ Giáng sinh đầu tiên được diễn ra nơi máng cỏ và gã thầm nghĩ: Đây hẳn phải là một lễ Giáng sinh nghèo, thật nghèo. Đúng thế, Hài Nhi Giêsu đã được sinh ra trong cảnh thiếu thốn. Không nhung lụa êm ấm. Không hoàng cung rực rỡ. Mẹ Maria đã phải lấy tã bọc Hài Nhi và đặt nằm trong máng cỏ. Rồi những người khách đầu tiên đến viếng thăm là ai? Họ là những người chăn chiên, hạng cùng đinh trong xã hội. Tuy nghèo về tiền bạc, nhưng họ lại giàu về tình bác ái yêu thương. Phải chăng chính tình bác ái yêu thương này đã sưởi ấm cho Hài Nhi Giêsu?

    Hình ảnh cô gái nhỏ người Thượng và hình cảnh cô bé bán diêm, cũng như hình ảnh máng cỏ tại Bêlem thật khác biệt với bầu khi Noel hôm nay. Đúng thế, hôm nay người ta đã đón mừng lễ Giáng sinh một cách tưng bừng và lộng lẫy. Người ta đã quốc tế hóa, thương mại hóa và tục hóa ngày lễ thánh thiện này.

    Trước hết, người ta đã quốc tế hóa ngày lễ thánh thiện này.
    Thực vậy, Không phải chỉ người có đạo tin theo Đức Kitô mới mừng, mà hầu như bàn dân thiên hạ đều mừng. Từ người già cho đến người trẻ, từ người phương Tây cho đến người phương Đông, từ người dân ở thành thị cho đến người dân ở hóc bà tó, đèo heo hút gió. Tất cả đều mừng biến cố trọng đại Chúa sinh ra đời.

    Tiếp đến, người ta đã thương mại hóa ngày lễ thánh thiện này.
    Thực vậy, ngay từ đầu tháng mười hai, những cây thông Noel, những hang đá Noel và những ông già Noel đã được dùng để trang trí khắp nơi khắp chốn. Rồi những cửa tiệm bán thiệp Giáng sinh, bán đồ chơi cho trẻ em và bán quà tặng cho người lớn được mọc lên như nấm, nhất là tại các thành phố lớn. Đây là dịp để bàn dân thiên hạ mua sắm sau một năm vất vả kéo cày và cực nhọc lao động. Đây cũng là dịp béo bở để cho con buôn hốt bạc. Mỗi năm mới có một lần, làm sao mà chẳng mong chẳng đợi, còn hơn cả người có đạo sống tâm tình mùa Vọng vậy.

    Và sau cùng, người ta đã tục hóa ngày lễ thánh thiện này.
    Thực vậy, đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để gửi cho nhau những tấm thiệp với lời mừng chúc: Một mùa Giáng sinh vui vẻ và một năm mới bình an! A merry Christmas and a happy new year! Un joyeux Noel et une heureuse année! Đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để trao cho nhau những món quà. Cha mẹ tặng quà cho con cái để thưởng công chúng đã ngoan ngoãn, chăm chỉ và vâng lời đã đành, mà hơn thế nữa các nhân viên cấp dưới còn có bổn phận biếu xén cho các xếp lớn của mình, để cầu ơn mưa móc, để tạo được những ấn tượng tốt cũng như để tránh không bị trù dập. Chuyện đời là thế. Đồng tiền đi trước đồng tiền khôn. Nếu không biết điều, thì hãy liệu hồn đấy.

    Đối với nhiều người, Noel chỉ là một lễ hội để ăn nhậu và nhảy nhót, nhất là đối với giới trẻ. Thực vậy, ngay từ chiều ngày hai mươi bốn, người ta đã nhốn nháo đổ xuống đường phố, không phải là để tới nhà thờ tham dự thánh lễ, mà là để khoe khoang quần áo mốt miếc. Thiện chí lắm là làm một vòng, rảo qua mấy ngôi nhà thờ để ngó những kiểu cọ hang đá. Thấy người ta đi thì mình cũng đi, mà chẳng biết đi để làm gì?

    Tại những ngôi nhà thờ, hang đá hôm nay không còn phải là một hang hôi hám và tăm tối cho chiên bò ngủ đêm, nhưng là một cảnh tượng huy hoàng và rực rỡ với muôn ngàn bóng điện màu chớp nhá. Thế nhưng, cõi lòng người tin Chúa thì sao? Có lẽ nó cũng hôi hám và tăm tối như hang chiên bò ngày xưa?

    Sau khi chen chúc ngoài đường phố, tạo nên cảnh tượng kẹt cứng trên các trục lộ giao thông, người ta kéo nhau về nhà mình hay đi tới những nhà hàng để ăn nhậu. Nào là những chai rượu đắt tiền đổ ra như nước lã. Nào là những món ăn quí hiếm mắc mỏ thừa ứa.

    Khi đã sừng sừng thì kéo nhau ra sàn gỗ để nhảy nhót và để lắc tới lắc lui, tơi bời hoa lá, quay cuồng trong tiếng nhạc xập xình. Nhảy nhót chán thì lại ăn nhậu tiếp cho tới sáng, khiến nhiều chiến binh đã phải gục ngã, cho chó ăn chè ngay tại bàn nhậu. Một số khác khi đã sừng sừng thì nhảy lên xe, phóng bạt mạng như những hung thần ngoài xa lộ, tạo nên những cái chết thật oan uổng và đau đớn trong đêm cực thánh này.

    Tất cả lễ Giáng sinh chỉ có vậy mà thôi: mua sắm, ăn nhậu, nhảy nhót… Người ta chẳng cần biết đến giây phút trọng đại nhất của lịch sử loài người. Giây phút Con Thiên Chúa xuống thế làm người để giải thoát nhân loại đang ngồi trong tăm tối và đang bị trói buộc dưới gông cùm tội lỗi, giây phút giao hòa đất với trời. Thậm chí người ta cũng chẳng biết đến Hài Nhi Giêsu là ai. Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu chuyện của Gibran. Gã xin kể lại như một kết thúc:

    Vào một đêm giáng sinh, đường phố ngập tràn muôn ánh đèn màu và từng lớp người mừng vui bước đi. Tôi muốn lẩn tránh những âm thanh ồn ào, tìm kiếm một vài phút giây thinh lặng để suy tưởng về con người vĩ đại nhất mà thiên hạ đang tôn kính. Con người ấy đã sinh ra làm thân trẻ nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, đã chết một cách ô nhục như một tên tội phạm với khổ hình thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Tôi dừng chân và ngồi trên chiếc ghế đá công viên, để mặc cho những tâm tư trào dâng. Một lúc thật lâu, tôi bỗng giật mình vì có một người đã ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết. Người đó đang cầm một cành cây khô và vạch những đường nét bâng quơ trên đất. Tôi nghĩ rằng: Hẳn ông ta cũng là một kẻ cô đơn. Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, người ấy nói:

    - Chào anh.
    Tôi thận trọng đáp lễ :
    - Dạ, xin chào ông.
    Rồi tôi gợi chuyện :
    -Hẳn ông là một kẻ xa lạ trong thành phố này ?
    Người ấy đáp :
    -Phải, tôi chỉ là một kẻ xa lạ trong thành phố này cũng như trong mọi thành phố khác.
    Tôi hỏi tiếp :
    - Chắc ông cũng cảm thấy vui trong bầu khí tưng bừng của ngày lễ Giáng sinh hôm nay chứ?
    Người ấy đáp :
    - Vào những ngày như thế này, tôi lại càng cảm thấy xa lạ và cô đơn hơn bao giờ hết.
    Tôi nói tiếp :
    - Dường như ông đang cần một sự giúp đỡ? Vậy xin ông vui lòng nhận lấy mấy đồng bạc này.
    Tôi mở bóp và đưa tiền. Thế nhưng, người ấy vội xua tay, lắc đầu với nét mặt chán ngán:
    - Tôi rất cần một sự giúp đỡ, nhưng không phải là tiền bạc.
    Tôi đề nghị:
    - Hay là ông về nhà tôi để chúng ta cùng nghỉ ngơi ?
    Người ấy đáp :
    - Tôi cần một nơi để nghỉ ngơi, một chỗ để tựa đầu, một mái nhà cho tâm tư chìm lắng. Tôi đã cố gắng đến mọi lữ quán, đã gõ cửa mọi căn nhà, nhưng tất cả đều chối từ. Tôi mệt mỏi nhưng không thất vọng. Đúng ra tôi không tìm một ngôi nhà, nhưng tìm một tâm hồn, tìm một nơi nghỉ ngơi trong lòng người.

    Tôi nhìn thấy một giọt nước mắt rơi xuống trên gò má người ấy. Nói rồi, người ấy đứng lên, giơ hai tay ra phía trước. Tôi bỗng nhìn thấy những dấu đinh nơi lòng bàn tay. Tôi bàng hoàng phủ phục và kêu lên :
    - Ôi! Lạy Chúa Giêsu.

    Lúc bấy giờ Chúa nói tiếp :
    - Mọi người đang tôn vinh Ta, đang thêu dệt chung quanh Ta những hào quang rực rỡ. Còn về phần Ta, Ta mãi mãi vẫn chỉ là một kẻ xa lạ và cô đơn trên mặt đất này. Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy được một hòn đá để tựa đầu.

    Đúng thế, Hài nhi Giêsu vẫn còn cô đơn trong chính ngày lễ thiên hạ mừng kính Ngài. Ngài vẫn còn âm thầm khổ đau giữa cảnh tưng bừng của ngày Ngài giáng sinh. Ngài vẫn còn xa lạ ngay cả đối với những người đã tin nhận Ngài. Và hơn thế nữa, nếu Ngài thực sự hiện diện nơi người khác, thì chính Ngài cũng đang bị hắt hủi nơi những cô gái nghèo hèn người Thượng, Ngài cũng đang bị chết dần chết mòn nơi những cô bé bán diêm túng thiếu, Ngài cũng đang bị quằn quại trong đau đớn nơi những em nhỏ lây nhiễm HIV ở Phi Châu, Ngài cũng đang bị vất ra ngoài đường nơi những người lâm cảnh màn trời chiếu đất tại những nơi đang xảy ra chiến tranh. Nếu những chủ quán ngày xưa tại Bêlem đã không dành cho Ngài một chỗ cư ngụ, thì hôm nay biết bao nhiêu người cũng đã đóng kín cõi lòng và xua đuổi Ngài, để Ngài phải vất vưởng cùng giá rét. Và rồi một giọng hát quen thuộc vang lên nơi quán cà phê bên đường:


    - Rồi những đêm thánh thường đón Noel,


    Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.


    Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,


    Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.


    Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi.

    (Chuyện phiếm của Gã Siêu)
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  36. Có 3 người cám ơn repentir vì bài này:


  37. #19
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    20/12

    Mừng vui lên


    Thứ Ba ngày 20.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 1,26-38

    26Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, 27gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. 28Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." 29Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. 32Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." 34Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" 35Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." 38Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.



    Suy niệm:
    Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm này đã bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Ðức Maria ở Nadarét. Sau tiếng xin vâng ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi, lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời. Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một người mẹ. Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đã thành một người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội. Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người. Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài. Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa. Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem, vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.

    Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao, nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống. Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được gìn giữ cho thanh khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.


    Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của mình. Có lắm người dễ dàng tìm đến cái chết vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa. Mảnh đời của Ðức Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến cùng, vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.


    Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.


    Noel đem lại cho ta sự bình an sâu thẳm. Bình an cho trái đất đang bị tàn phá. Bình an cho những người đang sống trong ngõ cụt. Bình an cho chúng ta, cho mọi người. Bình an của Giêsu.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con ơn khao khát Chúa, biết mở lòng ra đón Chúa đến ngự trị và điều khiển cuộc đời chúng con. Có Chúa chúng con có được niềm vui, sự bình an không ai lấy mất được.

    http://tgpsaigon.net/
    ________________________


    Không Nhà Không Cửa

    Hiện nay trên thế giới có khoảng một trăm triệu người không có nhà để ở. Riêng tại Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 20 triệu trẻ em đang ngủ đầu đường xó chợ. Nhìn chung, có một tỷ người trên thế giới không có được một nơi ở tươm tất.

    Trên đây là kết quả của một cuộc điều tra dựa trên những con số do các Hội Ðồng Giám Mục và các Giáo Hội Công Giáo địa phương cung cấp. Cuộc điều tra này do Ủy ban công lý và hòa bình của tòa thánh thực hiện và ấn hành thành lập một tập tài liệu vào dịp cuối năm quốc tế những người không nhà không cửa do Liên Hiệp Quốc khởi xướng năm 1988 vừa qua.


    Theo tập tài liệu này thì vấn đề nhà ở chắc chắn là một trong những vấn đề trầm trọng nhất của thế giới ngày nay. Tài liệu cho thấy những kẻ không nhà là những người nghèo nhất trong số những người nghèo và tố cáo những người chủ nhà chỉ vì tính toán thủ lợi mà thà bỏ trống những căn nhà hơn là hạ giá để nâng đỡ những kẻ không nhà.


    Chúa Giêsu đã chào đời như một con người không nhà không cửa.


    Ngài đến là để cho con người được sống và sống một cách sung mãn. Tiếng kêu khóc chào đời của Ngài giữa khung cảnh cùng cực của hang lừa máng cỏ, là tiếng kêu than của hàng triệu triệu trẻ em đang bị tước đoạt quyền sống, đang bị từ chối những điều kiện cơ bản nhất để được sống như con người.


    Máng cỏ mà chúng ta đang chuẩn bị ở nhà thờ hay trong gia đình phải là một nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện và tiếng van xin của không biết bao nhiêu người không nhà, không cửa xung quanh chúng ta. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta đang nhìn thấy tận, mắt thế nào là cảnh lang thang đầu đường xó chợ.


    Chúng ta chuẩn bị một trú ngụ cho Hài Nhi Giêsu, chúng ta có nghĩ đến những người cùng khổ xung quanh chúng ta không?


    Chúng ta có biết rằng khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước đau khổ của người anh em chúng ta là chính lúc chúng ta khước từ Chúa Giêsu không?

    Chúng ta có biết rằng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu cũng là ngày Giáng Sinh của những con người cùng khổ nhất không?

    Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ đến trong máng cỏ hào nhoáng của chúng ta, nếu chúng ta xua đuổi những người khốn khổ xung quanh chúng ta.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  38. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  39. #20
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default Các nhà chiêm tinh đến bái lậy Hài Nhi Giêsu

    Các nhà chiêm tinh đến bái lậy Hài Nhi Giêsu
    Lm PX Vũ Phan Long

    Phúc Ám Mátthêu 2, 1-12 – Hiển Linh

    1.- Ngữ cảnh

    Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?

    Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.

    2.- Bố cục

    Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một câu Mở và một câu Kết:

    1) Mở (c. 1): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh.
    2) Phần 1 (cc. 2-8): Tại đền vua Hêrôđê. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
    3) Phần 2 (cc. 9-11): Tại nhà của Hài Nhi. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
    4) Kết (c. 12): Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương.

    3.- Vài điểm chú giải

    - Bêlem (Bêthlehem) (1), có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.

    - Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tr CG). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa hy-lạp, nên ông bị người Do-thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.

    - Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy-lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tr CG), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tr CG), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các ki-tô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 sau CG), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ VI (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tr CG.

    - mấy nhà chiêm tinh (hl magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do-thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do-thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (tk V), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (tk 8). Sang tk XIV, ông Gaspar được coi là một người da đen...

    - chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do- thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.

    - xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.

    - chúng tôi đến bái lạy (hl proskyneô): Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là thái độ con người tùng phục Thiên Chúa.

    - Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do-thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do-thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).

    - Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy-lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!

    - mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).

    - Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.

    - hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).

    - lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.

    4.- Ý nghĩa của bản văn

    * Tại đền vua Hêrôđê (1-8)

    Có thể nói chương 2 của Tin Mừng Mt mở ra một cuộc “tìm kiếm” xuất xứ của Đấng Mêsia. Câu hỏi của các nhà chiêm tinh: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh ra, hiện ở đâu?” (c. 2) chính là đề tài của toàn thể bản văn. Điều đang lưu ý là cuộc tìm kiếm này lại được thực hiện bởi những người ngoại quốc, còn xa ơn cứu độ, nhưng chẳng bao lâu họ sẽ thế chỗ cho Dân Thiên Chúa tuyển chọn. Sự kiện họ có mặt ngay từ câu đầu tiên đã tiên báo sự đảo lộn xảy ra vào cuối bản văn (c. 11).

    Cac nhân vật chính: trước tiên, đó là “Đức Giêsu” (x. 1,21.23), “vua dân Do-thái”, cho dù còn đang được bọc tã. Ở 1,18, tác giả đả kể lại việc Người chào đời, nay chỉ nhắc lại là Người “đã ra đời”. Người xuất hiện một mình, nhưng sau này tác giả nói rằng bên cạnh Hài Nhi có bà Maria là thân mẫu Người. Trước mặt Người, nhưng ngự tại Giêrusalem, là Hêrôđê Đại Đế, gương mặt gian ác nhất mà tác giả có thể nhắc lại từ lịch sử Do-thái thời ngài. Giữa hai dung mạo này, có những dung mạo phụ: bên Đức Giêsu, đó là các nhà chiêm tinh; phía Hêrôđê, đó là các thượng tế và kinh sư.

    Các nhà chiêm tinh được loan báo nhưng không được giới thiệu. Các vị cũng sẽ không xuất hiện nữa trong Tin Mừng. Rất có thể đây là những vật nổi tiếng trong thời Thượng Cổ: là các nhà chiêm tinh hoặc các nhà thông thái đến từ phương Đông. Các nhà chú giải đã tìm các xác định căn cước của các vị này, nhưng rất có thể là vô ích. Các vị ấy chỉ là những hình ảnh biểu tượng của thế giới ngoại giáo. Các vị này đã được thúc đẩy (và “dẫn đường”: c. 9) bởi một ngôi sao lạ, được giải thích như là dấu chỉ loan báo “vua người Do-thái” chào đời, mà danh xưng này là danh xưng của Đấng Mêsia. Một “ngôi sao” xuất hiện với cuộc chào đời và hành trình vào đời của mỗi con người, nhất là của những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử, thì không thể thiếu được trong cuộc đời của Đấng Mêsia. Rất có thể tác giả đã lấy hình ảnh ngôi sao từ Ds 24,17, nhưng cũng có thể ngài nghĩ đến đám mây sáng dẫn đường cho dân Do-thái đi trong sa mạc (x. Xh 13,21; 33,9). Lời tuyên xưng của các nhà chiêm tinh, “chúng tôi đến bái lạy Người”, rõ ràng có một tầm mức châm biếm và biện giáo chứ không chỉ là mục vụ. Sự “khôn ngoan” ngoại giáo mà người Do-thái vẫn khinh bỉ và loại trừ cũng có khả năng dẫn đưa người ta đến với Đức Kitô. Tác giả không mô tả tâm trạng của các nhà chiêm tinh, mà chỉ nêu bật sự mau mắn và can đảm của các vị ấy ngược lại với sự lãnh đạm của dân Do-thái; tuy nhiên ngài lại phác vẽ cho thấy phản ứng của vua Hêrôđê và của dân thành Giêrusalem (“bối rối”, “xôn xao”: c. 3). Ghi chú này khiến có thể nghĩ rằng tác giả đang gợi lại các hoàn cảnh thuộc quá khứ trong lịch sử cứu độ và hơn nữa đang nghĩ đến các biến cố tương lai trong truyện Đức Kitô (Thương Khó). Hêrôđê mang những đường nét của các kẻ bách hại dân Thiên Chúa, nhưng chính ông cũng không thực hiện được các kế hoạch của ông. Thật ra, ghi nhận này là để nâng đỡ tinh thần cho các Kitô hữu đang sống trong hoàn cảnh bị áp bức. Riêng sự khôn ngoan Đông phương đã tìm được sự trợ giúp trong lời “ngôn sứ” Do-thái để đi đến tận nơi Đức Kitô đang ở (cc. 4.9). Quang cảnh ở đền vua Hêrôđê như báo trước cảnh ở dinh tổng trấn Philatô (x. Mt 27,11-14). Nhưng ngay ở đó, họ cũng không yên tâm về các biện pháp họ lấy.

    Khi tra cứu Kinh Thánh, giới lãnh đạo Do-thái giáo đã khám phá ra rằng Đấng Mêsia có xuất xứ là Bêlem. Thật ra tác giả đã ép bản văn Mk 5,1 để đi đến chỗ đồng hóa “Bêlem miền Giuđa” với “miền Giuđê” (c. 1) và bổ túc bằng một lời trích lấy từ 2 Sm 5,2 nói về vị thủ lãnh “sẽ chăn dắt Israel dân Ta”. Đây là kiểu chú giải quyen thuộc thời ấy. Kinh Thánh không nói rằng Đấng Mêsia xuất thân từ Bêlem, nhưng nếu Người là “con cháu Đavít” (Mt 1,1.20), thí cũng có thể kết luận rằng, giống nhu vị vua oai phong ấy, Người cũng là một người Bêlem. Việc chào đời trong một ngôi làng của miền Giuđê không chỉ là một sự kiện lịch sử, vì thật ra chỉ là phụ thuộc, mà là một dữ kiện thần học. Xuất xứ này xác nhận rằng Đức Giêsu là con cháu vua Đavít và là Đấng Mêsia. Tính cách biện giáo của bản văn thật rõ: những người ngoại giáo đã biết lên đường đi tìm Đức Kitô và một ông vua gian ác và ngoại quốc (Iđumê) biết làm trung gian cho tin vui, trong khi dân Giêrusalem chẳng những đã không đến với Người, mà còn chống lại Người.

    Không bao giờ là một liên minh của Đấng Mêsia, vua Hêrôđê đã lên kế hoạch để loại trừ Người. Kế hoạch của ông đi ngược lại với chương trình của Thiên Chúa. Ông là “vua” trần thế, ông sợ các đối thủ. Sự quan tâm ông bày tỏ với các nhà chiêm tinh chỉ là mánh lới, mưu mô (cc. 7-8).

    * Tại nhà của Hài Nhi (9-11)

    Chuyến đi của các nhà chiêm tinh đã phải dừng lại, bây giờ lại được tiếp tục (c. 9). Các vị không phải là khách du lịch, nhưng là những khách hành hương được hướng dẫn bởi lời và ánh sáng của Thiên Chúa. Đến đây tác giả mới cho thấy tâm trạng của các vị này (“mừng rỡ vô cùng”: c. 10). Một cách gián tiếp, tác giả cho hiểu rằng trước đây, các vị tiến đi trong sự khắc khoải âu lo. Hành trình đức tin không bao giờ thoải mái. Chuyến đi hành hương cuối cùng đã đưa những người ngoại đến tận nơi ở của Đấng Mêsia (c. 11).

    Các nhà chiêm tinh được tiếp đón “vào nhà”, chứ không phải là vào đến vua. Và các vị thấy một hài nhi với bà mẹ. Các vị không tỏ ra chán nản thất vọng. Dân Do-thái không chấp nhận Đức Kitô do Người sinh ra trong hoàn cảnh thấp hèn (Mt 13,55-58); là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, các nhà chiêm tinh đã phủ phục trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh nhỏ bé yếu ớt. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy. Các lễ vật cho thấy các lời sấm của các ngôn sứ đã nên hiện thực và cho thấy Đấng Mêsia được nhận biết; đây là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.

    * Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương (12)

    Đã chân thành lên đường theo tiếng gọi của sự khôn ngoan của mình, các hiền sĩ đã chân thành lên đường tiếp tục hành trình theo lời chỉ vẽ của Lời Chúa và của ngôi sao. Chính sự chân thành tìm kiếm chân lý này đã giúp các ngài gặp được chân lý và được chân lý gìn giữ bình an. Các ngài đã được báo mộng nên “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Câu này còn có nghĩa là khi gặp được Đấng Mêsia rồi, các vị phải xác định đường lối mới phải theo trong đời mình.

    + Kết luận

    Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong hoàn cảnh chính trị xã hội. Người không đến để tranh dành quyền lực với bất cứ lực lượng nào, vì Người là nguồn ban mọi quyền lực cho loài người. Nhưng sự hiện diện của Người vẫn đặt lại vấn đề về tính hợp pháp và về cách hành xử các quyền lực trong thế giới hôm nay.

    Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

    5.- Gợi ý suy niệm

    1. Các hiền sĩ và giới lãnh đạo Israel

    Cuộc tiến bước trong hân hoan của cúac nhà chiêm tinh tiến về máng cỏ không ngăn cản tác giả nhận ra rằng có một cuộc tiến bước theo chiều ngược lại của quốc gia Israel, tượng trưng bằng các thủ lãnh đạo đời, khi nghe loan báo về cuộc chào đời của Đấng Cứu thế. Các nhà chiêm tinh hết sức mừng rỡ, dân thành Giêrusalem lại xôn xao lo sợ. Người Do-thái có thể nghiên cứu Sách Thánh để khám phá ra nơi vị ngôn sứ đã báo trước rằng vị thủ lãnh Thiên Sai sẽ chào đời, nhưng họ không bước một bước nào để đến gặp Người, ít ra để bước theo các người thờ lạy ngoại quốc kia. Cuộc quy tụ của họ với vua Hêrôđê trong đền vua dường như là một nội các chiến tranh hơn là một cuộc hội họp bình thản để tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa.

    2. Hình ảnh của Hội Thánh

    Sự sa sút của dân Do-thái tưởng chừng có thể làm hỏng tương lai của ơn cứu độ, nhưng hiện tượng dân ngoại tuốn đến lại làm bừng lên các niềm hy vọng vào Hội Thánh phôi thai. Các nhà chiêm tinh vây quanh Đức Maria và Đức Giêsu là một bản phác thảo lý tưởng về Hội Thánh gồm những người ngoại nay làm thành các cộng đoàn Kitô hữu. Sự hiện diện của Đức Giêsu vẫn mang một dáng vẻ giới hạn và nghèo nàn, dù Người đúng là Đấng Phục Sinh, là Chúa Tể muôn loài muôn vật. Mẹ Người cũng hiện diện ở đó để làm chứng về điều này. Tuy nhiên, chấp nhận được Người là Đấng Mêsia, là Đấng Phục Sinh, là một vấn đề của lòng tin chứ không phải là chuyện chứng minh bằng toán học hay bằng lý luận theo kiểu tam đoạn luận. Ở trong Hội Thánh, mỗi người, mỗi nhóm, tùy nghi dùng những gì cao quý nhất mình có (của cải và sự khôn ngoan) để bày tỏ lòng tin và sự tùng phục của mình.

    3. Những người ở gần và những người ở xa

    Truyện này cho thấy rằng những người ở xa thì lại đến gần được với ơn cứu độ, với Thiên Chúa, còn những người ở gần thì lại đi xa dần, để rồi cuối cùng chuồi vào bóng tối. Vấn đề không phải là khoảng cách về không gian hay về thời gian, bởi vì tình yêu toàn năng của Thiên Chúa vượt thắng tất cả mọi trở ngại về không gian cũng như về thời gian. Vấn đề là lòng tin của con người. Con người cần phải thấy rằng mình không đủ cho chính mình, mình không phải là nguồn mạch của chính mình, để tìm mọi cách đi ra khỏi mình như là trung tâm, nhận lấy trung tâm mới là Đấng Cứu thế, làThiên Chúa, để có thể thoát khỏi mọi căng thẳng, xung đột, mâu thuẫn do thân phận thụ tạo giới hạn, và hiểu được hướng phải theo mà tìm ra ý nghĩa cho đời mình.!
    thay đổi nội dung bởi: repentir, 20-12-2011 lúc 11:50 AM
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  40. Được cám ơn bởi:


  41. #21
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default 3 VUA ĐI TÌM BÌNH AN

    BA VUA ĐI TÌM CHÚA BÌNH AN

    TÔI SỐNG HOÀ HỢP TRONG GIA ĐÌNH

    (Mt 2, 1-12)

    Ba Vua là các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã quyết đi tìm Chúa: Đức Vua dân Do thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. (câu 2)

    Thật đúng như lời chúc Bình an của Thiên Chúa gởi nhân loại đêm Giáng sinh: Vinh danh Thiên Chúa trên Trời,

    Bình an dưới thế cho người thiện tâm (Lc 2, 14)

    1- Ba Vua đã thực tâm tìm Chúa là nguồn Bình an, nên Người đã cho gặp, vì các ông đã bỏ hết thì giờ, sức khỏe, của cải để tìm Chúa, đã khiêm tốn đi tìm gặp Người, họ đã có bình an thật sự: Họ vào nhà thấy hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (câu 11). Họ là mẫu gương tìm Chúa cho mọi Tín hữu noi theo.

    2- Chúa ban Bình An: Sau này Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi Ngài về trời như sau: Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. (Ga 14, 27). Thế nhưng con người hôm nay có thực tâm đón nhận lời chúc bình an này cho bản thân, gia đình và xã hội mình không? Đấy là điều làm tôi phải suy nghĩ và thực hành.

    3-Tôi cần thực tâm tìm Chúa: Thay vì dùng thì giờ làm việc bác ái, tu luyện tâm hồn, thì tôi lại chạy theo tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, tình dục, nhưng đuổi theo mãi cũng không thấy thoả mãn, chỉ thấy yên vui tạm thời, rồi chuốc lấy bao thất bại, làm khổ cho bản thân với những bệnh hoạn, mất niềm tin và chán chường. Thánh Phaolô quả quyết: Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an. (Rm 8, 6). Là Chúa Thánh Thần.

    4- Gia đình tôi cần bình an: Thay vì mỗi buổi tối Gia đình tôi quây quần trước bàn thờ Chúa cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, thì tôi lại lợi dụng những ly rượu để bới móc, la rầy những thiếu sót của vợ con. Khi có điều gì không vừa ý, bạn cũng đã đem những chuyện cũ của chồng vợ, cha mẹ ra chì chiết, đay nghiến, làm cho mái ấm gia đình vợ chồng con cháu đau khổ, mất bình an của Chúa.

    5- Bình an trong Xã hội: Bình an trong Cộng đoàn, xả hội và cả thế giới hôm nay cần tiến lên trong sư hợp nhất yêu thương, thì lại bị thoái hoá, thiếu tương trợ. Khi người ta nhiều tiền lắm của để phát triển thì lại sinh ra đầu tư, bóc lột. Khi có nhiều thuốc men, thì bệnh tật lại càng tăng. Khi đêm ngày lo kiếm tiền thì đời sống lại phân tán. Khi thu nhập nhiều, nhà xe đẹp thì lại nhiều ly thân, ly dị…

    6- Thế giới cần Hoà bình- Công chính: Càng văn minh càng mất bình an: Những phương tiện khoa học tiến bộ, vũ khí tối tân giúp con người yên tâm, nhưng lại làm cho nhiều người mất an, lo lắng. Cụ thể là những vụ khủng bố đẫm máu mới đây ở Ấn độ, và những cuộc oanh tạc và bắn Rocket tàn bạo giữa Do thái và Hamas, v..v… do những người đã từ chối bình an, hoà bình để chuốc lâý bao thảm hoạ tàn khốc hiện nay.. để người dân phải gánh chịu.

    Lạy Cha, Đức Giêsu Con Cha, đã đến để dạy cho con một bài học yêu thương và khiêm tốn. Xin giúp con noi gương Thánh Gia khiêm nhường trong hang đá nghèo hèn, và bắt chước ba vua, quyết bỏ mọi vinh hoa, của cải và cái tôi để tìm gặp Chúa là Vua Bình an của con.


    Phó tế: JB.Maria Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
    thay đổi nội dung bởi: repentir, 20-12-2011 lúc 11:21 AM
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  42. Được cám ơn bởi:


  43. #22
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default CANH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN...

    Canh thức chờ Chúa đến


    Lm Bùi Thượng Lưu


    Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới, cùng với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Maccô: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ "(Mc 13, 33, 35-36).
    Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ Giáng sinh cũng đã gần kề. Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đình. Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...
    Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.
    Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3). Kể từ Biến Cố này, Trời giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ. Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.
    Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người “đang tỉnh thức chờ đợi”, không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến... sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.
    Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài. Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).
    Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt). Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác, không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa. Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục... quyết không để “ba cái lăng nhăng” nó quấy ta!
    Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ. Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1P 5,8). Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy... những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.
    Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế...
    Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc. Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài... đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội!
    Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu. Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối. Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc lòng suy. Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật... Tất cả những hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những “thánh chỉ” của Chúa.
    Canh thức để trung tín giữ luật Chúa:luật yêu thương, luật công bằng. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của mình.
    Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương. Đời sống gia đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất. Vợ chồng kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém nay mắn hơn trên khắp thế giới. Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.
    Canh thức để đón chờ Chúa đến. Tín hữu Chúa Kitô biết rõ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giã cõi đời tạm này. Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu? Chẳng có ai biết được. Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
    Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình...
    thay đổi nội dung bởi: repentir, 20-12-2011 lúc 07:41 PM
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  44. Được cám ơn bởi:


  45. #23
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default MỞ RỘNG TÂM HỒN ĐÓN CHÚA

    “Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
    Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
    Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng”. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
    Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
    Trời vẫn ban mưa. Cứu Tinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
    Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. “Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
    Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
    Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?




    Lm Nguyễn Bình An
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  46. Được cám ơn bởi:


  47. #24
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

    Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc - Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc - Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
    Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
    Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.
    Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
    Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
    Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.
    Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
    Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
    Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
    Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
    Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.
    Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.
    Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.
    Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.
    Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.

    Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.
    ĐTGM. Ngô quang Kiệt
    thay đổi nội dung bởi: repentir, 20-12-2011 lúc 08:24 PM
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  48. Được cám ơn bởi:


  49. #25
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    21/12

    Yêu thương và phục vụ


    Thứ Tư ngày 21.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 1,39-45

    39Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. 40Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. 41Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."


    Suy niệm:
    Bài Tin Mừng hôm nay cho biết thêm về Mẹ Đấng Cứu Thế sắp sinh ra.
    Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2Sm, 6) để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết:

    a. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.


    b. Đavít đã “kêu lên” rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên”: làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.


    c. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà kể cả thai nhi được chúc phúc.


    d. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng.


    Sau khi đã đón nhận Chúa vào lòng, sau khi đầy tràn Chúa, giờ đây mẹ Maria đem Chúa đến cho tha nhân: Một người quen sống quảng đại với Chúa thì cũng dễ sống bác ái quảng đại với tha nhân.


    Khi lần chuỗi, chúng ta thường đọc “thứ hai, Đức Bà đi viếng bà thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người.” Ta không xin cho được lòng ‘yêu mình’, hoặc cho được lòng ‘ghét người’, nhưng ta vẫn dễ có khuynh hướng sống như vậy. Noi gương Mẹ Maria ta đem niềm vui cho người khác. “Niềm vui nếu biết đem chia sẻ sẽ tăng gấp đôi, nỗi buồn nếu được chia sẻ sẽ vơi một nửa.”


    Chiêm ngưỡng cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét, khung cảnh thật cảm động. Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy Giả đang được hưởng những ngày êm ấm nhất, trong lòng mẹ, phủ đầy yêu thương. Và tai các ngài được nghe hai người mẹ trao đổi những lời thánh thiện, thân ái thấm đầy những lời Thánh Kinh đã thuộc nằm lòng.


    “Bà Maria vội vã lên đường đến miền núi… vào nhà ông Dacaria và chào hỏi vợ ông là bà Êlidabét” (Lc 1,39-40)


    Trời nắng như thiêu đốt, ngồi trong căn gác nóng nực của nhà trọ, tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc, nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang nhà. Đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi dịu bớt đi, nhưng vẫn nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…


    Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ.


    Mẹ Maria đến để phục vụ người bà con, bà Elisabeth. Bà Elisabeth nhận ra Mẹ là người được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ Thiên Chúa và là người phúc đức vì có đức tin, biết phó thác mình vào Chúa.


    Điều bí nhiệm của chuyến viếng thăm, đó là bí nhiệm về phương diện thông giao giữa hai người thiếu phụ khác nhau về tuổi tác, phận vụ, cảnh sống, đặc tính cá nhân, nhưng cả hai lại cùng chung nhau bắt đầu kiến tạo lịch sử cứu độ.


    Cả hai thiếu phụ đều mang con trong dạ và thay vì bàn bạc về nhau, theo thói quen thông thường của người đời, nhất là của các phụ nữ với nhau, các bà lại nói về Thiên Chúa, về sự cao cả của Người, về những điều Người can thiệp một cách lạ lùng.


    Cả hai là những người mẹ biết vinh danh, cảm tạ Chúa và vui mừng về những gì Người đã làm cho mình.


    Nhờ cuộc gặp gỡ của hai bà, hai người mẹ mang con trong dạ, mà cuộc gặp gỡ đã làm cho hai cậu con đang được cưu mang có dịp gặp nhau. Thánh Luca chỉ đề cập sơ qua bối cảnh và các lời trao đổi trong cuộc gặp gỡ, nhưng ngụ ý thần học hàm chứa bên dưới thật sâu đậm: cậu Gioan nhận ra được Thiên Chúa hiện diện, cậu liền nhảy mừng, diễn tả lòng hân hoan của mình được tiếp xúc với ơn cứu rỗi.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, năm xưa Chúa đã cùng với Mẹ Maria mang niềm vui của chia sẻ, của yêu thương phục vụ đến cho gia đình Giacaira. Xin Chúa cùng đồng hành với chúng con trong cuộc sống hôm nay. Trước những khó khăn của tha nhân, xin cho chúng con đừng bao giờ giả điếc không nghe, giả mù không thấy. Xin cho từng bước chân chúng con đi luôn để lại những dấu ấn của yêu thương, của tình người cảm thông và chia sẻ.

    http://tgpsaigon.net/
    _______________________


    Rạn Nứt Trong Tâm Hồn

    Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.

    Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được".


    Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.


    Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người". Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.


    Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.


    Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay".


    Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.


    Người Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào "đổi mới", nhưng đâu vẫn vào đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ vẫn còn đó... Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì người ta không bao giờ nghĩ tới.


    "Ðổi mới" là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng". Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải tư duy, hoán cải cái nhìn.


    Sự hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.


    Sự hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.



    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  50. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  51. #26
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    22/12

    Magnificat


    Thứ Năm ngày 22.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 1,46-56

    46Bấy giờ bà Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 48Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. 49Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! 50Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. 51Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. 52Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 53Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. 54Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, 55như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời." 56Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.


    Suy niệm:
    1. Bấy giờ Maria nói:
    “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
    Thần trí tôi hớn hở vui mừng
    Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 46-47)


    Tin Mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:


    Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:


    “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
    Thần trí tôi hớn hở vui mừng
    Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,
    Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả.”


    Thực vậy, Đức Maria nhận biết Thiên Chúa đã yêu thương mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa tuôn đổ trên mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy.”


    Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.


    Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.


    Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài… tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Ápraham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.

    2. Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin Mừng.

    Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Mẹ cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Mẹ đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Mẹ đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.


    Trong Giáo Hội và cùng với Giáo Hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi,” đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.


    Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con khi được Chúa viếng thăm. Chúa là Thiên Chúa cao cả nhưng lại đến cư ngụ giữa những người phàm hèn chúng con. Chúa là Thiên Chúa chí thánh nhưng lại ngự vào tâm hồn yếu đuối của chúng con. Chúng con xin được chúc tụng, tạ ơn Chúa. Xin ban cho chúng con tâm hồn đơn sơ luôn biết ngỡ ngàng trước ân ban của Chúa, để có thể cất lên lời tạ ơn Chúa, tạ ơn đời trong mỗi ngày sống của cuộc đời chúng con. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    ______________________



    Mùa Của Gửi Thiệp Tặng Quà

    Người Anh thường nói: "Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng trơ trụi". Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.

    Ngày nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau.

    Trong một cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.


    Trước đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc xây dựng xã hội.


    Ðáp lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống".


    Ðó là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.


    Riêng với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.


    Mùa Vọng là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.


    Chúng ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen biết... Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết, cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến, cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?


    Hãy nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.


    Ðó là những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  52. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  53. #27
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default EMMANUEL

    John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, cha đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như "nước đổ lá môn."
    Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: “Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn”. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
    Ngay hôm ấy, trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào:
    - Alô, Cha John! Con muốn xưng tội với cha.
    Vị linh mục tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình để ra đi. Ngài lên tiếng hỏi.
    - Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?
    Nhưng anh ta trả lời:
    - Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.
    Vị linh mục ngạc nhiên hỏi thêm:
    - Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?
    - Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: "Chúa ở với các con."
    Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:
    - Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?
    Anh thanh niên chậm rãi giải thích:
    -Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.
    ***
    Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
    Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: "Chúa ở cùng anh chị em," nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?
    Nếu thấu hiểu được thế nào là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
    Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Ai-cập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai cập để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Môisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh 3:12).
    Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: "Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con." Nhưng Chúa nói: "Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi" (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
    Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: "Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
    Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa "ở cùng người yêu", và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được "sống chung với người yêu". Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: "Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này...", nhưng nếu không có lời hứa "ở cùng em" thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa "ở cùng nhau suốt đời."
    Một linh mục đã nhận xét: "ở cùng" chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến "ở cùng."
    Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến "ở cùng" con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
    Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
    ***
    Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.
    Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi "ở cùng" tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
    LM. Bùi Quang Tuấn, CSsR.
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  54. Có 2 người cám ơn repentir vì bài này:


  55. #28
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default THIÊN CHÚA ĐÓNG VAI TRÒ GÌ TRONG ĐAU KHỔ

    2.1. Tại sao Thiên Chúa không luôn luôn can thiệp ?
    2.1.1 Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên
    Thiên Chúa đã sáng tạo định luật tự nhiên để vũ trụ nhờ đó mà được vận hành có trật tự. Thiên Chúa đã thiết lập chúng thì Người cũng tôn trọng chúng, nghĩa là Thiên Chúa không thể lúc nào cũng cho mình nhúng tay can thiệp vào sự diễn tiến của thiên nhiên, dù là thiên tai, khổ ải. Bởi vậy Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của đau khổ tai ương vì Người không trực tiếp gây ra chúng. Có thể sẽ có ý kiến rằng: vậy thì Thiên Chúa là nguyên nhân gián tiếp của đau khổ vì đã tạo ra các định luật tự nhiên. Nói như thế thì cũng giống như lên án các phát minh của con người: giá mà không có điện thì con tôi đâu có bị giật, nếu không có máy vi tính thì con tôi chẳng bị thi rớt vì ham chơi computer game. Hãy nghĩ tới lợi ích lớn lao của điện và máy vi tính.
    Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên để con người phát huy quyền và vị thế làm chủ của mình. Nếu lúc nào Thiên Chúa cũng can thiệp vào làm thay đổi các quy luật tự nhiên một cách bừa bãi thì con người hoặc sẽ không biết phải hoạch định công việc thế nào hoặc sẽ bỏ mặc buông xuôi cho cuộc đời muốn ra sao thì ra, ỷ lại cho Thiên Chúa mọi sự. Nói cách khác, con người sẽ mất hết tự do để lựa chọn và quyết định cho vận mạng của mình.
    Như đã trình bày, định luật tự nhiên là thực tại gồm có hai mặt nên tôn trọng định luật tự nhiên một cách nghiêm túc là chấp nhận mọi diễn biến, cả có lợi lẫn bất lợi của chúng. Nếu lửa có công dụng sưởi ấm, nấu chín thức ăn, rèn đúc công cụ,… thì nó cũng có thể gây cháy nhà cháy cửa; nếu nước là thứ không thể thiếu đối với sinh vật và cho con người có thể giải khát tắm giặt, tẩy rửa,… thì nó cũng là nguyên nhân của mục nát, lũ lụt,…; nếu sấm sét tạo ra khí Nitrogen giúp cây cối xanh tươi thì nó cũng có thể đánh gẫy cây, làm cháy nhà,… có thể sẽ có người lý luận rằng: ‘nếu Thiên Chúa toàn năng và tôn trọng định luật tự nhiên thì ít ra Người cũng ra tay bảo vệ những ai lương thiện chứ, việc ấy đâu có khó khăn gì với Chúa đâu.’ Ðúng là Thiên Chúa có thể làm được mọi sự và thay đổi các định luật tự nhiên bất cứ lúc nào Người muốn. Ðã có nhiều phép lạ xảy ra minh chứng có lúc Thiên Chúa đã ra tay can thiệp vào các định luật thiên nhiên. Tuy nhiên, chúng ta thử lấy một vài ví dụ thực tế để thấy vấn đề không đơn giản chút nào. Giả sử tôi là một con chiên ngoan đạo, trung tín trong việc giữ luật yêu thương đối với Chúa và tha nhân, và nhờ vậy, Thiên Chúa bảo vệ tôi tuyệt đối. Mùa đông trời lạnh tôi cứ nhong nhong cởi trần mà không bị bệnh, tôi đi qua đường khi thiên hạ ào ào phóng xe mà không bị đụng, tôi tỉnh bơ đi giữa chiến trường mà không bị trúng đạn, chờ thang máy lâu quá, tôi nhảy đại từ lầu mười xuống mà không hề hấn gì,… Còn những kẻ tội lỗi thì Chúa mặc xác tụi nó cho xe tông, cho bệnh tật, cho đạn bom,… Nếu thế giới này có những “con ông cháu cha” được hưởng đặc quyền đặc lợi như thế, liệu rằng chúng ta còn muốn tôn thờ một Thiên Chúa thiên vị tư riêng như vậy không? Nếu thế giới này tồn tại hai đẳng cấp quá khác biệt như vậy thì tình hình sẽ tốt hơn hay tồi tệ hơn?
    Ðịnh luật tự nhiên có tính chất trung lập hay tình cờ. Nó không phân biệt người tốt với kẻ xấu, người lương thiện với kẻ bất chính. Tất cả đều chịu chi phối như nhau. ‘Tình cờ là điều kiện tiên quyết để có được tự do đích thực và mức độ trưởng thành con người, và rằng bởi tự do là thiết yếu để con người có được một đời sống phong phú đầy đủ trong Chúa, là đời sống dành cho tất cả chúng ta, nên không thể nào tránh cho khỏi các biến cố bất trắc được…. Cái nhìn của chúng ta về vũ trụ cho phép chúng ta ghi nhận cùng một lúc hai sự kiện sau đây: một đàng Thiên Chúa đặt định mục tiêu và luật điều hoà cho vũ trụ vĩ mô, nhưng đàng khác trong thế giới vi mô (ở mức độ những thực kiện riêng rẽ, ADN) lại thấy có những hiện tượng bất tất định… Nếu không ngại nhấn mạnh đến một điều đã quá rõ ràng, thì chúng ta có thể lặp lại rằng vấn đề sự dữ hầu như không thể giải quyết được trong một thế giới tất định, vì lúc đó Thiên Chúa sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về từng biến cố riêng rẽ…’ Lm Bửu Dưỡng cũng phân biệt hai hạn từ ‘muốn chung’ và ‘muốn riêng’ của Thiên Chúa. ‘Muốn chung’ tức là các định luật phổ quát, ví dụ như lửa thì cháy, nước thì ướt; ‘Muốn riêng’ như muốn cho cái gì bị cháy, cái gì bị ướt. Người ta không thể biết được ý muốn riêng từng việc, từng người, từng cơ hội, từng trường hợp như thế. Cho nên, khi thấy một ngôi nhà bị cháy, không thể nói đó là Chúa muốn nó cháy vì một lý do suy diễn như để phạt chủ nhà hay bất cứ một lý do nào khác vì lửa đụng vào vật gì thì làm cháy vật ấy, đó là định luật chung. Vẫn biết rằng Thiên Chúa có quyền làm tất cả, kể cả việc phạt người ta nhưng tại sao Chúa không thể tách riêng người có tội ra để phạt mà phạt oan cả những người khác trong đán cháy ấy. Nói gì thì nói, không ai có thể khẳng định một trường hợp đau khổ nào là do ý Chúa vì không ai là Chúa cả.
    Chính Chúa Giêsu cũng thể hiện sự tôn trọng của Người đối với các định luật tự nhiên. Trước khi bước vào cuộc đời công khai rao giảng, trong sa mạc, Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để phá vỡ các quy luật tự nhiên. Sau 40 ngày đêm Chúa Giêsu ăn chay ròng rã, quỷ lợi dụng cơn đói mà thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi !” Chúa Giêsu không những không rơi vào cơn cám dỗ để biến đá thánh bánh mà còn đưa ra một ‘định luật tự nhiên’ khác: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời Thiên Chúa phán ra”. Quỷ liền bày ra cơn cám dỗ thứ hai. Nó mang Chúa Giêsu lên nóc đền thờ và dùng chính Kinh Thánh để cám dỗ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vập chân vào đá.” Ở đời, người ta vẫn hay thử thách quyền năng Thiên Chúa bằng cách đòi Người phải thực hiện những chuyện ngoạn mục thì họ mới tin: Nếu Chúa là Thiên Chúa thì hãy ban cho con trúng số; hãy ban cho con thi đậu; hãy ban cho con thành công hơn thằng cha ấy; …. Thậm chí, xin Chúa hãy phạt cho nó trắng mắt ra nếu Ngài là Thiên Chúa công bằng. Ðây là não trạng vẫn gặp đâu đó trong Cựu Ước: (Tv). Ngay cả các tông đồ cũng còn não trạng ấy mặc dầu đã ở với Chúa Giêsu một thời gian dài: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9, 54). Ðức Giêsu đã dùng chính Kinh Thánh để dẹp tan thái độ này và cho thấy một quy luật khác cao hơn: “Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Thiên Chúa không cần phải làm theo yêu cầu của bất cứ ai để trở thành Thiên Chúa.
    Sau đó, quỷ biết con người vẫn là những kẻ hay chạy theo quyền lực mà thờ ngẫu tượng nên tung ra cám dỗ thứ ba. Nó chỉ cho Ðức Giêsu trong thân phận con người tất cả những vinh hoa lợi lộc của các nước thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi.” Chúa Giêsu đã nổi giận quát nó “Satan, hãy xéo đi !” vì có một định luật tối thượng là: “Ngươi phải tôn thờ Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.”. Ngoài Thiên Chúa, không ai xứng đáng được thờ lạy.
    Chỗ khác, Chúa Giêsu cho biết Thiên Chúa “Ðấng ngự trên trời cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5: 45). Thiên Chúa tôn trọng trật tự Người đã thiết lập trong thiên nhiên khi để mặt trời chiếu sáng trên tất cả mọi người và tôn trọng tự do đã trao ban cho con người khi để cho họ tuỳ ý lựa chọn sống công chính hay là bất chính. Một dụ ngôn khác mạc khải sự tôn trọng của Thiên Chúa là dụ ngôn cỏ lùng. Các đầy tớ trong dụ ngôn đại diện cho con người: “Ông có muốn chúng tôi đi gom cỏ lùng lại không?”. Ông chủ lại đáp: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.” Như thế, Thiên Chúa chấp nhận sự khác biệt của thiên nhiên, thậm chí có khi trở thành đối kháng trong mắt con người. Xét về mặt hữu thể, lúa và cỏ lùng hoàn toàn bình đẳng trong thiên nhiên. Chúng là hai loài thực vật hoàn toàn tốt đẹp. Lúa được coi là hơn cỏ lùng khi cả hai được đặt vào mối quan hệ với lợi ích của con người. Trong vai trò ‘đặt tên’ cho muôn loài, con người đã “chiếu ánh sáng hữu thể của mình vào các sự vật” (Heidegger), từ đó đưa ra tiêu chuẩn và ‘định giá’ chúng. Như thế, trong thực tế có những trường hợp rất bình thường trong thiên nhiên đã bị xem là sự dữ, là đau khổ không phải vì giá trị tự thân của sự vật nhưng vì mâu thuẫn với lợi ích của con người.

    Một vấn đề khác có thể được đưa ra là: nếu thụ tạo còn bất toàn sau khi được Thiên Chúa tạo dựng (lần thứ nhất) và nó có khi làm cho Thiên Chúa phải liên lụy đủ thứ thì tại sao Thiên Chúa lại không “xoá sổ” quách thế giới này đi rồi tạo dựng lại một thế giới mới hoàn hảo hơn, dễ thương hơn? Hỏi cách khác, sao Thiên Chúa không hư vô hoá thế giới này vì nó còn khiếm khuyết?
    Chúng ta dùng lập trường của Thánh Thomas Aquinas để giải quyết vấn nạn này. Có hai kết luận sau được rút ra: thứ nhất: Thiên Chúa có thể hư vô hoá mọi vật. Thứ hai: Nhưng Thiên Chúa không hề hư vô hoá vật nào cả. Ðối với kết luận thứ nhất, về mặt Thánh Kinh, sách Khôn Ngoan ghi: Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? (Kn 11,26). Như thế, vật thụ tạo được duy trì là tuỳ ý chí tự do của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tự do duy trì thì Người cũng có thể tự do hư vô hoá. Về mặt thần học, bảo tồn là tiếp tục việc tạo thành, nên Thiên Chúa đã tạo thành với tư cách nào thì Người cũng bảo tồn với tư cách ấy. Mà Người đã tạo thành cách hoàn toàn tự do nên cũng bảo tồn cách tự do. Vì thế, như Người đã có thể không tạo thành thì Người cũng có thể không bảo tồn, nghĩa là có thể hư vô hoá. Ðối với kết luận thứ hai, ta xét trên hai khía cạnh: trật tự tự nhiên và phép lạ. Theo khía cạnh thứ nhất, ta thấy có những vật thiêng liêng nên không có lý do nội tại để bị huỷ diệt (vì có tự do lựa chọn); còn các vật hữu hình, thì tồn tại mãi, ít là như chất thể đệ nhất. Vì thế, nếu Thiên Chúa hoạt động phù hợp với bản tính của vạn vật, thì không nên hư vô hoá vật gì cả. Còn theo khía cạnh thứ hai, mục đích của phép lạ là giãi bày ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. Vậy bảo tồn vạn vật thì dễ dàng đạt mục đích ấy hơn là hư vô hoá chúng: hư vô hoá là đình chỉ hoạt động của Thiên Chúa. Cho nên, theo phép lạ cũng không nên hư vô hoá chi cả. Tóm lại, Thiên Chúa không hư vô hoá vật nào.

    Như thế, có thể kết luận rằng: Thiên Chúa không muốn làm xáo trộn luật thiên nhiên, bẻ quặt lịch sử, nhưng mời gọi con người với tư cách chủ thể cùng hoàn thành nó. Chính thập giá là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa chấp nhận định luật cuộc đời.
    * Phép lạ
    Tuy Thiên Chúa tôn trọng định luật tự nhiên nhưng lịch sử cho thấy có lúc Người đã can thiệp và thậm chí thay đổi chúng khi Người muốn. Như thế là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự như Người muốn. Vấn đề là Thiên Chúa có muốn làm điều ấy hay không hay thôi. Chúng ta cùng lược qua một chút về phép lạ.
    Ðiều cần khẳng định ngay từ đầu về mục đích Thiên Chúa can thiệp vào tiến trình vận hành của định luật tự nhiên ban phép lạ là để cứu độ nhân loại. Mục đích của phép lạ là giãi bày âb sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. Cựu Ước đã có nhiều chỗ tường thuật lại những phép lạ vĩ đại Chúa làm để cứu giúp dân riêng: nước Biển Ðỏ rẽ ra làm đôi để dân do Thái đi qua, mưa rơi xuống tưới gội mùa màng theo lời cầu nguyện của Êlia (V), nước sông Jordan ngừng chảy khi Hòm Bia Giao Ước đi qua (Gs 4, 10-18),… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng làm nhiều phép lạ để tỏ mình ra cũng như để chăm sóc, chữa lành những con người sầu khổ: nước hoá thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana, bánh hoá ra nhiều cho hàng ngàn người ăn (Mt 14, 13-21; 15, 32-39), kẻ điếc được nghe người què được thấy, người bị tà thần ám được giải thoát, kẻ chết được phục sinh,… Rất nhiều những phép lạ như thế làm dấu chỉ cho quyền năng và tình thương đồng hành của Thiên Chúa, Ðấng Emmanuel, tức là Thiên Chúa ở cùng nhân loại.
    Ngày nay, các phép lạ kiểu trái luật tự nhiên tỏ tường chỉ thỉnh thoảng xảy ra đó đây, nhất là trong lĩnh vực y khoa, nhưng không còn phổ biến như xưa nữa vì “phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Ðôi mắt để nhận ra phép lạ bây giờ không còn nhất thiết là đôi mắt xác thịt nhưng đúng hơn là đôi mắt đức tin. Chính đức tin sẽ chỉ cho thấy đâu là phép lạ.
    Khi khoa học càng ngày càng phát triển, người ta bắt đầu nhìn phép lạ qua chính sự ổn định và hài hoà của định luật tự nhiên. Nhiều khoa học gia đã ngạc nhiên thốt lên ca ngợi Thiên Chúa thượng trí đã tài tình sắp đặt vạn vật cách tuyệt vời. Xuân về hoa nở, hạ đến nắng ấm, thu lại trời thanh, đông tới khí lạnh. Cứ như thế đều đặn, nhịp nhàng. Mầm sống vươn lên khi hạt giống được vãi gieo, có bình minh lên có hoàng hôn xuống, ngày hết đêm về, trên bầu trời tinh tú lấp lánh vần xoay theo từng quỹ đạo,… Tất cả cứ thế mà hoà điệu trong bản đồng ca vũ trụ. Thân xác bình thường của ta đây là cả một phép lạ vĩ đại, không phải vì nó trái luật tự nhiên mà vì nó đã tuân theo luật tự nhiên một cách tuyệt vời. Tay rụt lại khi gặp vật nóng, mồ hôi chảy khi trời đổ nóng, mắt nheo lại khi gặp ánh sáng quá mạnh, tay lái xe lập tức đổi hướng khi thấy nguy hiểm trên đường, tim tang nhịp đập khi cơ thể cần phản ứng nhanh, người mệt mỏi khi cần nghỉ ngơi, tế bào bạch cầu lập tức xung trận khi có virus lạ tấn công cơ thể,… Tất cả mọi bộ phận, dù nhỏ bé đến đâu, đều làm theo quy luật để hoàn chỉnh toàn bộ con người.
    Như thế, không chỉ những biến cố to lớn như cuộc vượt Biển Ðỏ là phép lạ nhưng còn có những sự kiện đầy tính phi thường trong những nét rất bình thường của cuộc sống vẫn là những phép lạ tỏ tường về Thiên Chúa vậy.

    2.1.2 Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người
    Con người được sáng tạo vì chính con người. Con người không là phương tiện cho bất cứ một ai hay điều gì. Thiên Chúa không sử dụng con người như một phương tiện, dù là cho mục đích cao cả nhất. (Công đồng Vaticanô II). Phẩm giá con người là tuyệt đối. Ðiều gì làm nên phẩm giá ấy? Ðó là tự do. Chỉ có tự do mới làm cho con người là nhân vị độc đáo và duy nhất.
    Trong dòng lịch sử, đã có không ít triết gia và các nhà tư tưởng cố gắng suy tư và đưa ra các lý giải về tự do. Vì tự đây là lãnh vực rất sâu và rộng nên chúng ta dành nhiều suy tư và thời gian cho nó.

    * Mở rộng vấn đề
    Chúng ta thử xem xét một vài lập trường trước khi đi vào quan điểm của Kitô giáo về vấn đề này.

    a. Một vài quan điểm về tự do
    i. Karl Jaspers cho rằng ý niệm tự do hàm ngụ ý niệm thiết yếu. Tự do trước hết bị giới hạn bởi Dasein, thân thể. Như bị kẹt vào tù ngục thể chất, người ta không làm được như ý mình muốn. Sự yếu hèn, mong manh của hình hài luôn luôn đem tự do về với thực tại…. Trong lãnh vực trí tuệ và tâm linh cũng vậy, tự do luôn luôn phải cố gắng chiến thắng sự ngu dốt của con người, đương đầu với những đòi hỏi của lý tính, lẽ phải, lương tri. Tóm lại, ở đâu có tự do là ở đấy có thiết yếu vật chất hay tinh thần. Thêm nữa, người ta phải sống trong thời gian với cả ba chiều kích quá khứ, hiện tại và tương lai. Ðó chính là nghịch lý của tự do.
    Tự do không là lựa chọn mà cũng là lựa chọn. Không là lựa chọn vì thực chất của tự do là đạt tới chân lý; người tự do là người có can đảm hướng về chân lý, quyết định đáp lại chân lý và hiến thân phục vụ chân lý. Là lựa chọn vì trong cái quyết định ấy đã hàm ngụ một lựa chọn, một dấn thân nào đó. Như thế, sống trong một thế nghịch lý ấy, tự do tự khẳng định bằng lựa chọn. Lựa chọn giữa tiếng nói của lương tâm hay buông xả theo khuynh hướng của dục vọng, lựa chọn chấp nhận một cuộc sống đơn nghèo hay lao vào bất chấp thủ đoạn để làm giàu, lựa chọn bước qua thập giá hay sẵn sàng chịu chết cho niềm tin,… Tự do này lý trí không hiểu được, và đó chính là siêu việt tính của nó.

    ii. Theo Jean Paul Sartre , chúng ta bị kết án để tự do. Tự do là một án lệnh, con người sinh ra là đã rơi vào đó. Con người có thể chọn cái này, bỏ cái kia nhưng con người không thể không chọn. Lựa chọn là một “định mệnh”, tự do là một nhà tù. Nói cách khác đó là một thứ tự do “bắt buộc” phải tự do. Ðành rằng con người hoàn toàn tự do định đoạt số mệnh của mình nhưng không thể tự do đối với việc phải lựa chọn. Ngoài ra, Sartre cho rằng không có cứu cánh nào của tự do, nếu có thì đó là chính tự do. Tự do của Sartre là một thứ tự do không mục đích, hay mục đích của nó là chính nó. Tự do ấy chẳng dẫn con người tới con đường giải thoát nào cả vì nó chỉ dành cho cuộc hiện sinh này mà thôi, một cuộc hiện sinh không có mục đích hay cứu cánh. Chính vì thế nên nó phi lý và đáng “buồn nôn” .
    Thêm nữa, tự do của tôi không phải là tự do của kẻ khác tạo ra, nhưng tự do của kẻ khác là một lý do, một hoàn cảnh để tôi chứng tỏ tự do của mình. Do đó, phủ nhận ý kiến và cách sống của kẻ khác làm cho tôi biết chọn lựa và khẳng định tự do của mình. Tự do chính thức và cao độ là tự do chống lại một tự do khác. Ðối với vấn đề Thượng đế, Sartre không chần chừ tìm cách ‘chứng minh’ lập trường vô thần của mình. Ông chỉ việc nhân danh một quan điểmvề con người để phủ nhận Thượng đế, và coi đó là đủ. Nếu có Thượng đế thì Thượng đế là một kẻ độc tài, sáng tạo ra thế giới hoàn toàn lệ thuộc vào Người, thiếu hẳn sự tự do, tức là mọi sự nằm gọn trong tay Thượng đế cho Người xoay xở. Như thế, Thượng đế đương nhiên tiêu diệt tự do của con người. Ðó chính là lý do khiến con người phải phủ nhận ngay cả cái tư tưởng có Thượng đế hiện hữu vì chẳng qua Người chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hoang đường. Tắt một lời, đối với Sartre: “Nếu Thượng đế hiện hữu, thì con người chỉ là hư vô.”

    iii. La Fonntaine diễn tả hai thái độ gắn với hai lựa chọn căn bản đối với tự do trong câu chuyện ngụ ngôn “Chó sói và Chó nhà” (Le Loup et le Chien): Sói nhìn thấy sự mập mạp của Chó mà thèm thuồng ao ước cho đến khi nhận thấy sợi dây xích nơi cổ Chó liền thắc mắc và được giải đáp:
    “Vòng buộc tôi đã để vết hằn
    khiến anh lưu ý đấy chăng?
    … Thế nhưng cái ấy, ối dào,cần chi!”
    Nhưng Sói thì nghĩ khác:
    “Cần lắm chứ! Còn gì hơn nữa?
    Còn cần hơn cả bữa cao lương!
    Tự do ta quý hơn vàng
    Chẳng thèm đổi lấy bữa sang nhà người !”

    iiii. Quan niệm Ấn Ðộ: dung hoà tự do và định mệnh. Con người hoàn toàn tự do và đồng thời cũng hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động và hậu quả của mình. Nhưng hành động sẽ ấn định kiếp sống sau đó qua nghiệp báo. Một khi đã rơi vào cái kiếp do nghiệp báo ấn định, người ta không thể còn tự do để thay đổi nữa. Nếu nghiệp báo bắt tôi phải làm chó mèo thì tôi chỉ có một cách là làm chó mèo chứ không thể khác được. Như thế, con người chỉ thực sự tự do trong lựa chọn và hành động của mình chứ không tự do đối với sự ấn định của nghiệp báo. Tuy nhiên, người ta có thể cố gắng sống chân thiện mỹ để tự giải thoát mình khỏi vòng luẩn quẩn của nghiệp báo. Tôi có thể ngoan ngoãn là chó mèo để mong kiếp sau làm người, rồi cứ thế cố gắng tiến tới để đạt đến giải thoát. Như thế, trong quan niệm luân hồi nghiệp báo của Ấn Ðộ, vẫn mãi còn một tia hy vọng giải thoát. Giải thoát khỏi vòng sanh tử hiện hiến để đạt tới trạng thái hiện sinh trong sự đồng nhất với Ðại ngã trở thành lý tưởng cao đẹp nhất. Có thể nói đây là một lý do cho người ta nỗ lực sống tốt hơn mỗi ngày, một yếu tố xây dựng và thăng tiến xã hội con người.
    b. Quan điểm tự do Kitô giáo
    Cơ bản có hai loại tự do sau: tự do khỏi và tự do để. “Tự do khỏi” là thứ tự do hiện thực, là được giải phóng khỏi những ràng buộc, giới hạn, áp bức và áp lực. Tuy nhiên, “tự do khỏi” chẳng bao giờ là tuyệt đối. Có lẽ quan điểm về tự do của các triết gia được khai thác theo hướng này. Còn “tự do để” đề cao các khía cạnh tích cực, nhất là sự dấn thân và hiến dâng. Ðây là loại tự do mà Kitô giáo hướng đến và coi là tự do đích thực.
    Nơi Ðức Giêsu ta thấy một điển hình cho loại tự do thứ hai này. Người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào tiền tài, danh vọng, vũ lực hay thế lực, thậm chí đối với ngay cả ngôi Thiên Chúa của Người. Minh chứng căn bản cho điều này được Thánh Phaolô khẳng định: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. (Pl 2,6-7). William Reiser cũng đưa ra một hình ảnh rất đẹp về việc hiến thân cho công cuộc cứu độ nhân loại: khi thấy tình trạng thê thảm và tuyệt vọng của loài người, nhất là khi thấy nỗi lòng của Cha đối với con người, thì Ngôi Hai tình nguyện xin Cha xuống thế cứu họ bằng cách trở nên như họ và sẵn sàng chịu liên luỵ với họ và vì họ, kể cả việc phải đối diện với hiểm nguy trong sứ mạng. Một hình ảnh khá độc đáo trong bộ phim The Passion of the Christ mới đây của đạo diễn Công Giáo Mel Gibson diễn tả việc hiến thân này qua giọt nước mắt của Chúa Cha từ trời rơi xuống nơi Con đang bị hành hình. Cha cùng Con bước vào cuộc khổ nạn thập giá để biểu lộ tình yêu. Như thế, Thiên Chúa đã tự do trọn vẹn hiến thân cho con người, chấp nhận đi vào giới hạn, ràng buộc, áp lực, áp bức để giải phóng con người bằng tình yêu. Tự do này khác hẳn với loại “tự do khỏi” nêu trên mà không ít người vẫn miệt mài tìm kiếm, có khi càng tìm kiếm càng vô vọng. Tự do này đối lập với thứ tự do của Sartre vì nó dựa trên căn bản sự tôn trọng tự do của người khác. Thiên Chúa đã tôn trọng con người đến độ để cho con người đóng đinh Con yêu dấu của mình vào thập giá mà giết đi.
    Tóm lại, tự do đích thực là tự do để yêu cho đến cùng. Tự do ấy chấp nhận đi vào giới hạn; và ‘giới hạn’ duy nhất của nó là yêu không giới hạn.

    c. Tự do của con người
    Dù có rất nhiều lập trường khác nhau về tự do của con người, có lẽ bản chất của tự do xét cho đến cùng vẫn phải là sự hoàn toàn tuỳ ý lựa chọn, là quyền làm tất cả những gì mình muốn (dĩ nhiên, khi lựa chọn sai lầm thì thường đưa đến hậu quả tiêu cực. Ðây cũng là một thứ quy luật vậy).
    Dù rằng ý Thiên Chúa luôn là chân lý và là lối đi, là chìa khoá của hạnh phúc (Gr 7,23), dù con người chỉ có thể trở nên hoàn thiện khi biết làm theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không bao giờ ép buộc con người lựa chọn theo kiểu độc tài quân phiệt: ý của Ta là nhất, mày không được chọn khác. ‘Ðể chúng ta được tự do, để chúng ta được quyền sống đúng ý nghĩa là một con người, Thiên Chúa phải tôn trọng sự tự do của chúng ta, không cần biết nó đúng hay sai, tốt hay xấu.’
    Tuy nhiên, Thiên Chúa không phải là một Thượng đế vô cảm theo kiểu Hy Lạp, ông không phải là thợ chế tạo đồng hồ làm ra đồng hồ rồi để mặc nó tự chạy sao thì chạy. Thiên Chúa biết con người nên không bao giờ bỏ mặc con người một mình phiêu lưu trong việc sử dụng tự do của mình. Người vẫn luôn dõi theo từng bước của con người như lời tác giả Thánh vịnh xác tín “Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì con vẫn còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27,10) để hướng dẫn, mời gọi con người. Chẳng hạn, Thiên Chúa có thể dạy bảo chúng ta biết những gì là xấu xa, tội lỗi, có hại cho cuộc sống chúng ta, Người soi sáng gợi ý cho ta biết chúng ta sẽ mất bình an khi phạm tội, … nhưng sự tác động của Người không bao giờ làm mất tự do của ta. Con người có thể sống hết sức tự do cuộc sống làm người của mình, dù vẫn xác quyết Thiên Chúa hiện hữu và hiện diện trong thế giới, một sự hiện diện tuy rất thực, nhưng cũng rất kín đáo và tôn trọng tối đa quyền tự do của con người.
    Người ta hay có khuynh hướng nhân hình hoá (anthropomorphize) Thiên Chúa, chẳng hạn ví Thiên Chúa giống như cha mẹ trần gian trong cách cư xử với con cái loài người; nhưng điều này dễ dẫn đến những sai lầm trong cách hiểu về Thiên Chúa. Cha mẹ trần gian thì hay can thiệp, ngăn cản, thậm chí cấm đoán con cái không được làm chuyện này chuyện nọ khi họ thấy không ổn. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bởi vì đã trao ban tự do cho con người, Thiên Chúa phải tuyệt đối tôn trọng những lựa chọn của họ, dù đúng hay sai, tốt hay xấu. Trường hợp của Adam và Eva là một ví dụ.
    Sự dữ và đau khổ xảy ra khi người ta lạm dụng tự do của mình để làm những điều sai quấy. Nhưng vì sao có những chuyện không phải là lỗi tại tôi mà tôi vẫn phải gánh chịu? Vì tất cả mọi người đều liên đới với nhau cách này cách khác. Tôi chẳng bao giờ đốt phá rừng nhưng vẫn chịu ảnh hưởng do việc phá rừng của người khác, chị tôi chạy xe cẩn thận ôm sát lề đường nhưng vẫn bị gã say rượu đâm vào, những đứa trẻ Việt Nam vô tội chẳng bao giờ gây ra chiến tranh nhưng vẫn phải gánh chịu hậu quả của chất độc màu da cam,… Con người tự gây đau khổ cho mình và cho anh chị em đồng loại. Họ đã lạm dụng hai chữ ‘tự do’ cao quý để hành hạ, lừa lọc, gây hận thù, chia rẽ, ức hiếp, bóc lột, hãm hại nhau. Thiên Chúa trên cao chỉ có thể nhìn xuống xót thương và đau buồn khi “gà cùng một mẹ” đá nhau túi bụi. Tệ hại hơn, người ta có khi còn lôi cả Chúa vào phe mình để chống lại nhau. Não trạng hẹp hòi “Chúa của tao, của dân tộc tao” vẫn còn nhiều ngay cả với một số Kitô hữu. Ðây là khuynh hướng có thể nói là phổ biến khi người ta chia rẽ và muốn thống trị nhau. Nó cũng là quan niệm mang đậm tính cách của vùng Trung Ðông, nơi các dân tộc nhận cho mình một vị thần nào đó để chiến đấu bảo vệ họ. Từ việc được bảo vệ, những dân tộc này không tránh khỏi cơn cám dỗ muốn thống trị các dân khác:
    “Chúa là đồng minh, là đồn lũy che chở, là thành trì bảo vệ, chính Người giải thoát tôi,
    Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144,2),
    “Nhờ danh Chúa, tôi đã trừ diệt chúng”(Tv 118)…
    Ðối với dân Do Thái, Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ nên khi thấy người Ai Cập gặp tai ương, họ liền thấy đó là những việc Thiên Chúa làm vì họ, và họ vang lời ca tụng:
    “Người sát hại các con đầu lòng Ai Cập .
    Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương…”(Tv 136)

    Người ta vẫn còn nhớ, trong đệ nhị thứ chiến, quân Ðức xin các tuyên uý chúc lành máy bay của họ; bên kia, quân Pháp xin các tuyên uý làm phép các khẩu pháo để bắn cho chính xác. Không biết Chúa xử trí thế nào? Ngày nay, chúng ta vẫn còn nghe những câu như: Chúa sẽ triệt hạ bọn vô thần và bảo vệ chúng ta; Ðức Mẹ tiêu diệt kẻ thù Giáo hội, … mà quên rằng chiến thắng của bên này đồng nghĩa với thất bại của bên kia, sung sướng của mình là đau khổ của người khác. Liệu rằng Cha trên trời có để cho Người dính dáng vào những chuyện phe cánh, triệt hạ lẫn nhau giữa con cái mình như thế không? Rõ ràng não trạng này không thể phù hợp với tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu: Tất cả mọi người đều là con Cha trên trời, “Ðấng cho mưa xuống trên cả người lành lẫn kẻ dữ, trên người công chính lẫn kẻ bất chính” (Mt 5,45), là anh chị em của nhau và phải “rửa chân” cho nhau: “…thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20, 25-27), “Anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 6,44), “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho k3 nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vui khống anh em… hãy làm ơn và cho vay mượn mà không hề hy vọng được đền trả”(Lc 6,27.35) và trong cơn đau đớn thập giá, hơi thở đã hầu tàn, Giêsu lại thều thào cầu xin cho những kẻ đang giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34)
    Như đã đề cập, tự do lựa chọn của con người phải được tôn trọng tuyệt đối hầu con người có thể trở thành người đúng nghĩa. Nếu thiếu mất điều này, con người sẽ bị đẩy xuống hàng thú vật hay máy móc chỉ biết làm theo bản năng hoặc chương trình đã được lập sẵn. Vì vậy, để đảm bảo cho chúng ta là người thực sự, Thiên Chúa đã chủ động tôn trọng tự do lựa chọn của họ. Ðể thực hiện điều này, Thiên Chúa chấp nhận nhận giới hạn quyền năng của mình và sẵn sàng chấp nhận bất trắc trong tương quan với con người. Khi dựng nên con người tự do giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã để mình đi vào một cuộc phiêu lưu, nơi đó con người sẽ toàn quyền tự quyết cho cuộc đời của họ. Khả năng tự quyết ấy lớn đến nỗi có thể từ chối cả sự hiện hữu của Thiên Chúa (dù thực tế không có hữu thể nào tồn tại ngoài Thiên Chúa: “trong Người chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu”), hay đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đồi Can-vê. Chấp nhận đi vào cuộc mạo hiểm này và dám tự ý đặt mình thành đối tượng cho con người nghi ngờ và đóng đinh, theo tôi, Thiên Chúa càng tỏ ra Người thật sự tự do và cao cả. Có những người vì sợ làm giảm bớt quyền năng của Thiên Chúa mà khăng khăng khẳng định rằng không có gì có thể giới hạn quyền năng ấy. Có thể hợp lý trên bình diện lý thuyết nhưng trong thực tế chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa bị giới hạn. Giới hạn không phải vì tự thân nó giới hạn nhưng vì Thiên Chúa chấp nhận để nó bị giới hạn. Ðiều gì có thể giới hạn quyền năng của Thiên Chúa? Tôi nghĩ, điều có thể giới hạn quyền năng của Thiên Chúa chính là tình yêu của Người. Vì yêu và muốn chia sẻ hạnh phúc của mình mà Thiên Chúa sáng tạo vạn vật và con người. Giovanni Martinetti nhận định: Hành động sáng tạo là một hy sinh, bởi vì khi nhường chỗ cho con người và ban cho con người tự do là Thiên Chúa đã tự giới hạn và thu hẹp mình lại. Thực trạng đau khổ [phần nào] nói lên ‘giới hạn quyền năng của Thiên Chúa’ vì “quyền năng ấy không có tính cách cưỡng bách đến độ bao giờ cũng phải tuyệt đối đạt cho được thành công. Nhìn nhận tự do của con người là quyền năng Thiên Chúa tỏ ra cho thấy tính cách thuyết phục của mình, và nếu có đề nghị điều lành thì quyền năng ấy cũng sẵn sàng chịu nhận điều dữ. Không phải Thiên Chúa ‘cho phép’, mà nói đúng hơn là Ngài đành ‘chịu nhận’ sự dữ. Quyền năng của Thiên Chúa tiến hành theo cung cách kiên nhẫn ‘chịu đựng’. Với tất cả dè dặt tế nhị, Thiên Chúa tôn trọng con người dù con người có là tội phạm, với ý nghĩa là một khi đã nhìn nhận tự do của con người, thì Thiên Chúa để nguyên trách nhiệm cho con người, ngay cả đối với sự dữ.
    Thiên Chúa dám đi đến tận cùng trong việc tôn trọng tự do của con người. Sự thật này có thể được minh chứng trong sự chuyển đổi ý niệm về Thiên Chúa: từ ý niệm một Thiên Chúa là tuyệt đối quyền năng điều khiển mọi sự theo ý của mình sang ý niệm Thiên Chúa là tình yêu sẵn sàng chấp nhận giới hạn. Sau đây là một vài phân tích chi tiết:
    Theo dòng lịch sử, đặc biệt là lịch sử cứu độ, chúng ta thấy có một cuộc cách mạng trong ý niệm Thiên Chúa. Hầu hết các nền văn hoá, nhất là thời xa xưa, xem thần linh hay Thượng đế như một nguyên lý hay một lực lượng thống trị bằng cách phạt kẻ dữ thưởng người lành ngay ở đời này. Mạc khải Kitô giáo đã làm một cuộc cách mạng thật sự khi gợi lên ý niệm cơ bản về lòng khiêm hạ của Thiên Chúa. Delumeau nhận định: “Những gì mới chỉ là trực giác trong Cựu Ước thì bây giờ đã trở thành một lời xác quyết thường kỳ trong Tân Ước: những từ ‘thần linh’, ‘khiêm hạ’, ‘mỏng dòn’ đã thực sự trở thành những lối diễn đạt trùng khớp với nhau. Con của Thiên Chúa giáng trần giữa đêm khuya trong chuồng bò lừa… thiếu điều bị giết bởi quân lính của Hêrôđê. Ngài sống 30 năm ẩn dật. Hình ảnh thường tình về Thiên Chúa đã bị đảo lộn đến cực điểm qua các biến cố cuối cùng trong cuộc đời tại thế của Ðức Giêsu: cuộc rửa chân cho các tông đồ ngày Thứ Năm Tuần Thánh, bị bắt, bị kết án và bị giết như ‘Con Chiên’ của Thiên Chúa.” Moltmann khẳng định thêm: “muốn thấu hiểu được Thiên Chúa qua hình ảnh của Người Con bị đóng đinh và bỏ rơi, thì nhất thiết phải có một cuộc cách mạng trong ý niệm về Thiên Chúa.” Emmanuel Lévinas ghi nhận: “Ý niệm về một sự thật biểu lộ trong khiêm hạ, về một sự thật bị bách hại, là hình thái duy nhất có thể có về siêu việt tính (có nghĩa là nếu Ðức Giêsu đã không bị bách hại, thì không thể nào làm chứng tá cho Thiên Chúa siêu việt được). Tỏ lòng khiêm hạ như là đồng minh của kẻ chiến bại, của người nghèo khổ, của người bị bách hại, rõ ràng là không bước theo trật tự thường tình… Lòng khiêm hạ làm đảo lộn tất cả… cảnh bị bách hại và bị hạ nhục mà kẻ khiêm hạ sẵn sàng đưa vai gánh chịu, là những thể cách hùng hồn nói lên sự thật.” Francois Varillon cũng diễn tả: “Toàn bộ lịch sử Mạc khải là một quá trình biến dạng tiệm tiến đi dần từ một Thiên Chúa được hiểu như là quyền năng để dẫn đến với một Thiên Chúa được tôn thờ như là Tình Yêu.” , “Sự toàn năng của Thiên Chúa là sự toàn năng của Tình yêu. Giữa sự toàn năng và Tình yêu toàn năng có sự khác biệt hẳn, một hố sâu ngăn cách đúng nghĩa: người Kitô hữu không nói họ tin rằng Thiên Chúa toàn năng, mà nói rằng họ tin vào một Thiên Chúa là Cha toàn năng… (Ðối với người Kitô hữu) nói: “con tin vào Ngài” là nói: con biết rằng quyền năng của Ngài không đe dọa tự do của con, mà hoàn toàn ngược lại, quyền năng ấy còn trợ giúp cho sự tự do của con”. Có thể kết luận rằng: Thiên Chúa không là gì khác ngoài Tình Yêu. Khả năng của Ngài là không gì khác ngoài khả năng của Tình Yêu. Những thuộc tính dùng để miêu tả Thiên Chúa như toàn năng, toàn thiện, khôn ngoan, tuyệt mỹ, bình an, vui mừng cả trong hy sinh, đều là những thuộc tính của Tình yêu khi Tình yêu thực sự vô biên.
    Tóm lại, Mạc khải đã chỉ ra sự chuyển đổi quan trọng trong ý niệm về Thiên Chúa: từ một Thiên Chúa quyền năng thống trị (theo cách hiểu của Sartre) đến một Thiên Chúa là tình yêu. Mà tình yêu thì có thể chấp nhận đi vào giới hạn, sẵn sàng từ bỏ uy quyền và hy sinh liên luỵ đến cùng. Chính Thánh giá Ðức Giêsu đã minh chứng quá rõ ràng sự thật ấy.




    (Còn tiếp)
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  56. Được cám ơn bởi:


  57. #29
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default THIÊN CHÚA ĐÓNG VAI TRÒ GÌ TRONG ĐAU KHỔ

    (Tiếp..)

    * Thiên Chúa tự do
    Có nhiều chiều kích và góc độ để nhìn sự tự do cũng như các tương quan tự do. Trong đó, người viết thấy có một đối tượng rất đáng lưu ý khi xem xét vấn đề này. Ðó là: sự tự do của Thiên Chúa. Xin được đưa ra suy tư của mình: Thiên Chúa tự do trong việc liên luỵ với con người. Ðây có lẽ là điểm rất đặc biệt trong Kitô Giáo, theo người viết, mà các tôn giáo khác không đạt tới được. Có thể nói, Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đã liên luỵ quá nhiều với phận người, liên luỵ đến mức phi lý, đến mức điên rồ đối với đầu óc con người. Cách thể hiện tự do như thế độc đáo quá, khủng khiếp quá. Thiên Chúa đã tỏ ra mình thật sự tự do khi tôn trọng tự do của con người một cách tuyệt đối.
    Ðây là vấn đề lớn nên xin được triển khai thêm sau này.

    a. Tự do của Thiên Chúa trong việc liên luỵ với con người
    Có một cách biểu hiện tự do đích thực được Thiên Chúa thể hiện hết sức độc đáo trong lịch sử là: tự do tôn trọng tự do của con người và tự do liên luỵ với con người đến cùng. Sở dĩ như vậy, theo tôi, là vì Người có Sự Tự Do và Tấm Lòng của một vị Thiên Chúa.

    Thử ví nhân loại này như một người sắp chết đuối đang quay cuồng, vùng vẫy trong dòng nước chảy xiết; và ví các tôn giáo, các triết thuyết, các hệ thống chính trị, tư tưởng, … như những nhân vật nỗ lực cứu vớt nhân loại. Tôi thấy có nhân vật đứng trên bờ hét to: hãy cố gắng bơi đi, bơi về phía bờ ấy; có nhân vật quẳng xuống một sợi dây, nói lớn: hãy bám vào thì tôi sẽ kéo anh lên,… Còn Thiên Chúa thì hô lên: “Có Ta đây, đừng sợ !” rồi nhảy tùm xuống nước, ôm lấy người ấy, cùng với người ấy bơi vào bờ.
    Từ khởi đầu lịch sử, Thiên Chúa đã vào cuộc với con người. Trải dài suốt hành trình từ Adam đến Abraham, Issaac, Jacob,… cho mãi đến sau này, có lẽ không nơi nào thiếu vắng hình bóng của một Thiên Chúa đang liên luỵ với con người. Thiên Chúa dạo chơi hàn huyên với họ trong Eden. Khi họ bất trung với Người, Thiên Chúa đã tìm đến để giao hoà và trao ban lời hứa cứu độ. Rồi Người chọn Abraham, xây dựng dòng dõi của ông, chăm sóc một dân tộc, kiên nhẫn chịu đựng sự phản nghịch của những kẻ “ăn cháo đá bát” không biết bao nhiêu lần. Cuối cùng, sau bao liên luỵ thăng trầm của Thiên Chuá, người ta mới nhận ra Người không chỉ là Thiên Chuá của trời cao, của vũ trụ bao la nhưng nhất là “Thiên Chúa của Abraham, của Issaac, của Jacob…”, một Thiên Chúa “bồng ẵm họ trên tay, nâng niu trên đầu gối” dù họ đã trách móc, lộng ngôn, quay lưng, phản bội. Hơn nữa, chắc chắn Thiên Chúa ấy không chỉ chăm lo cho một mình Israel mà còn tất cả các dân tộc khác trên hành tinh này và có lẽ Người cũng liên luỵ với họ không kém gì với Israel. Lịch sử các dân chẳng phải là một minh chứng về điều ấy sao?
    Tại sao Thiên Chúa không chọn một cách thức khác để đến với con người? Tôi rất tâm đắc câu khẳng định của Thánh Iraneus: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” (Gloria Dei, vivens homo). Thiên Chúa lấy việc con người được sống làm trọng hơn cả, như Ðức Giêsu xác nhận: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”(Ga 3,16). Ðó là cách thể hiện của một tấm lòng đầy tràn tự do. Ðỉnh cao của tấm lòng ấy thể hiện trọn vẹn nơi Cuộc Nhập Thể và Thánh Giá của Ngôi Hai Thiên Chúa. Thiên Chúa phải thật sự tự do thì mới có thể tôn trọng tự do của con người đến như vậy.

    b. Tự do đích thực là liên luỵ đến cùng: Nhập thể và Thập Giá – một Tấm Lòng
    Thiên Chúa chúng ta không đứng trên cao để phán, để ra lệnh nhưng nhảy xuống cùng đi với con người, nói đúng hơn là dìu con người bước đi, là cõng con người trên lưng, là bồng ẵm con người. Vì thế mà Ngôi Hai đã đi vào lịch sử loài người, chung chia kiếp sống nhân loại, bỏ lại đàng sau tất cả vinh quang của Ðấng Tạo Hoá: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8). Giêsu không dừng lại nơi một thân phận bình thường, Người “mặc lấy thân nô lệ” của chính con người vì yêu thương họ. Không có gì có thể cản trở tình yêu ấy được thể hiện, ngay cả cái chết đau đớn tủi nhục nhất của một tên tử tội bị lột sạch tất cả phẩm giá trên thập tự. Ðức Giêsu, Ngôi Lời, chắc chắn có đủ quyền năng để thay đổi tất cả cục diện lịch sử trong chớp mắt, không ai có quyền trên mạng sống của Người vì “Mạng sống tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh.”(Ga 10,18). Ðó là sự tự hiến của một tấm lòng và tấm lòng ấy chính là biểu hiện của tự do. Thiên Chúa, qua Con của mình, đã bộc lộ thứ tự do của một vị Thiên Chúa. Tự do ấy tự do đến nỗi sẵn sàng chấp nhận ‘mặc lấy thân nô lệ’, trở thành nô lệ cho con người để con người trở nên tự do như Chúa.
    Trong hàng ngàn cây thập giá đã được dựng lên, chỉ có một cây đã giương cao vì tình yêu, và chính tình yêu đã làm cho nó trở nên thánh, nên biểu tượng của dấn thân đến cùng, của tự do bằng liên luỵ. Thập giá tội ác đã được biến đổi thành Thánh Giá tình yêu khi Thiên Chúa thể hiện tự do của mình.
    Có người nhận xét: Thiên Chúa là Ðấng vẽ quỹ đạo cho muôn tinh tú, thế mà khi đi vào đời này Thiên Chúa đã để cho người ta cầm tay dắt đi. Ðâu là lý do của việc Thiên Chúa tự nguyện trở nên bất lực trong việc liên luỵ với con người nếu đó không phải là vì tấm lòng Thiên Chúa dành cho họ quá lớn? Nếu đó không phải là vì tự do Thiên Chúa quá tuyệt vời? “Ðức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;… Tội lỗi của chúng ta chính Ngừơi đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2:21-24; Is 53, 5). Một lần nữa, Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa được nhận ra và tôn thờ sau khi đã làm và hi sinh tất cả cho con người, ngay cả chấp nhận cái chết nhục nhã nhất: “Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Ðức Giêsu là Chúa’” (Pl 2,10-11).

    2.2. Trong đau khổ của con người, Ngài ở đâu?
    Như đã trình bày, Thiên Chúa toàn năng nhưng không dùng quyền năng ấy vào việc đánh gục những kẻ dữ hay miễn trừ người lành khỏi tai ương. Ðúng hơn, quyền năng Thiên Chúa hoạt động theo cung cách liên lỷ giúp con người nói chung rút tỉa ra những lợi ích tinh thần từ những con người hoặc hoàn cảnh không may lành.
    Chỉ cần nhìn sơ qua các trang nhật báo cũng đủ thấy các số liệu về đau khổ không phải là ít. Ví dụ nửa năn đầu năm 2004 (thông tin từ báo Tuổi Trẻ), người ta đã phải chịu dịch cúm gà mấy tháng liền, tháng 5 vừa qua hơn 1.950 người bi thiệt mạng tại CH Dominica và Haiti trong trận lụt, ít nhất 10 người chết và 27 người bị thương trong vụ nổ khí đốt tại thành phố Samara nước Nga ngày 4/6, mới hôm qua ngày 9/6 cây dừa đổ xuống làm chết bé Thiện và bị thương người mẹ,… Những tai nạn này không thể là hành động của Thiên Chúa nhưng là vận động của thiên nhiên hay do sự bất cẩn của con người. Hành động của Thiên Chúa không phải là tai hoạ nhưng là chính sự can đảm thúc đẩy con người dám đứng lên xây dựng lại từ đổ vỡ và chính là tinh thần biết chia sẻ của những tấm lòng nhân ái. Ðau khổ vẫn xảy ra hằng ngày trên thế giới nhưng không thể đè bẹp lòng dũng cảm vượt thắng nghịch cảnh và những vòng tay liên đới tình người. Giữa màn đêm sự dữ, Thiên Chúa hiện diện như là ánh sáng xuyên qua bóng tối để giúp con người vươn cao mãi.
    Càng đi sâu vào các biến cố sự dữ và đau khổ sẽ càng thấy lòng kiên nhẫn chịu đựng và sự khó xử của Thiên Chúa. Người là Cha của nhân loại, hằng mong muốn con cái mình sống yêu thương nhau như người đã yêu thương họ trước (Ga 13, 14-15; 34-35). Vậy mà nhìn kìa: đứa thì cầm dao, đứa thì cầm súng sẵn sàng giết nhau. Chúng ganh ghét, đố kị, hận thù, loại trừ nhau, thậm chí còn muốn lôi cả Người vào phe mình để hãm hại nhau nữa. Ắt hẳn nhân loại sẽ không bao giờ quên ngày 11/9/2001 tại New York, trên 3000 người đã chết ‘bất đắc kỳ tử’ oan ức, tức tưới, không toàn thây. Thiên Chúa không thể là người gây ra khủng bố, không thể dùng khủng bố như phương tiện để ‘thi hành công lý’ hay ‘trừng phạt tội lỗi nước Mỹ’ như có kẻ đã rêu rao. Sự dữ do việc sử dụng tự do một cách sai lầm của con người đã xảy ra và Thiên Chúa lại phải hành động để khắc phục hậu quả không do mình tạo ra. Cũng may người ta còn kịp nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự dũng cảm, hy sinh của hàng trăm lính cứu hoả, những người đã không ngại hiểm nguy lao vào đám cháy hỗn loạn. Nhiều người trong số họ vĩnh viễn không còn thấy mặt người thân nữa. Tôi nhớ không khí nước Mỹ cả năm trời sau đó còn chìm sâu trong tang tóc. Có một điều lạ là nhà thờ giáo xứ xưa nay vốn thưa thớt mấy ông bà già bỗng trở nên chật cứng. Người ta càng đau buồn vì mất mát thì càng cảm phục và trân trọng những người đã dám xả thân hy sinh cho người khác. Người ta càng phẫn uất lên án sự dữ thì đồng thời cũng rưng rưng nước mắt cảm ơn trời cao đã dấn thân cứu chữa. Thiên Chúa không gây nên sự dữ nhưng khi nó xảy ra vì bất cứ lý do gì thì Thiên Chúa là người đầu tiên vào cuộc để cứu giúp con người.
    Có một bảo chứng và niềm an ủi rất quan trọng đối với tất cả những ai đang mang gánh nặng nề khổ đau trên đường đời. Ðó là: Ðức Giêsu đứng về phía họ. Người ra tay chống lại sự dữ: cứu chữa bệnh nhân, xua trừ tà thần, tha thứ tội lỗi, phục sinh kẻ chết,… đặc biệt là cuộc tử nạn – phục sinh của Ðức Giêsu đã mở ra bầu trời hy vọng cho nhân loại đang quằn quại dưới gót giày sự dữ. Hơn hết, Ðức Giêsu trong tư cách là Thiên Chúa đã làm điều ấy khi đồng hoá mình với những con người đau khổ bị bỏ rơi, thấp cổ bé họng, cô thân cô thế, nạn nhân của bất công, bạo lực, thiên tai, … qua khẳng định “Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)

    Câu chuyện sau đây của E. Wiesel góp phần minh hoạ.
    “(Ở trong trại tập trung của Ðức quốc xã lúc ấy có) một cậu bé, người ta thường gọi tên cậu là thằng bé Hạt Tiêu… Một ngày nọ trên đường đi làm về, chúng tôi thấy ba cái cột được dựng đứng ở giữa quảng trường xử án, ba bóng ma. Còi lệnh vang lên. Bọn SS, lăm lăm chĩa những khẩu súng tiểu liên, đứng quanh chúng tôi: nghi lễ truyền thống. Ba kẻ bị kết án, tay bị trói, trong đó có thằng bé Hạt Tiêu. Tên chỉ huy đọc bản án. Mọi con mắt đổ dồn về cậu bé. Mặt nó nhợt nhạt, bình tĩnh, bậm môi lại. Bóng của cây cột phủ lấy thân hình nó… rồi ba người cùng bước lên ghế. Ba cái cổ cùng lúc bị đưa vào những giây thòng lọng…
    “Trời ơi, Chúa nhân lành ở đâu?” Một kẻ nào đó đàng sau tôi thốt lên.
    Tên chỉ huy vừa ra dấu, ba cái ghế liền đổ xuống… Hai người lớn tuổi đã chết… Nhưng sợi dây thứ ba vẫn còn động đậy: thằng bé chưa chết, vì nó nhẹ quá. Trong hơn nửa giờ đồng hồ, chúng tôi chứng kiến nó hấp hối, vật lộn giữa sống và chết. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh ấy ngay trước mắt mình. Ðàng sau lưng tôi, cũng giọng nói của người đàn ông ấy:
    “Chúa đâu rồi?”
    Tôi nghe một giọng nói bên trong tôi trả lời:
    “Chúa ở đâu ư? Người ở đây này: Người bị treo kia kìa, trên cái cột ấy”.

    Ðúc kết
    Các trường hợp xảy ra sự dữ vật lý (hiện sinh) như bệnh tật, thiên tai, cái chết tự nhiên,…, cho thấy Thiên Chúa tôn trọng và duy trì những gì Người đã tự do sáng tạo và thiết lập. Ðau khổ phát sinh từ đó là do thân phận bất toàn của thụ tạo (trong mối liên hệ với lợi ích của con người). Các trường hợp xảy ra sự dữ luân lý (tinh thần) như hận thù, chia rẽ, chiến tranh,… cho thấy Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Người đã dựng nên họ có tự do và tôn trọng tự do ấy đến cùng.. Trong cả hai trường hợp, có thể rút ra một kết luận, ít là cho những ai tin, rằng: Thiên Chúa liên đới với con người cả trong đau khổ lẫn cuộc chiến chống lại đau khổ và sự dữ. Cuộc đời của Ðức Giêsu là minh chứng sống động nhất cho điều này.

    2.3. Thiên Chúa có thể làm cho điều lành xuất phát từ trong sự dữ khi nó xảy ra.
    Thiên Chúa khắc phục đau khổ cho con người qua sự quan phòng của Người, nghĩa là bằng cách ban ý chí và sự can đảm để con người dám đứng lên chống lại nghịch cảnh. Sự quan phòng của Thiên Chúa không theo cung cách phép lạ ồn ào nhưng theo cung cách âm thầm, liên lỷ hoạt động trong lòng trí họ. Thiên Chúa đã đặt một sức năng bền bỉ trong con người để họ không ngừng vươn lên những đỉnh cao mới, đặc biệt những lúc phải đối diện với nghịch cảnh. Các thành tựu khoa học kỹ thuật đã chứng tỏ sự can trường và quyết tâm của con người trong việc chinh phục thiên nhiên, và thật là thú vị khi thấy rằng những gì con người đạt được ngày nay hầu hết đều bắt nguồn từ những nghịch cảnh: trí thông minh con người có được độ tinh vi như hôm nay là nhờ các nỗ lực giải quyết những vấn đề khó khăn, bức thiết của cuộc sống như đói kém, hạn hán, dịch bệnh, thời tiết khắc nghiệt, tai nạn, … Có thể nói tài năng đã nhờ các nhu cầu bức thiết mà trở nên sắc bén hơn. Trong gian truân, ý chí và nghị lực của con người cũng được tôi luyện và phát triển. Ngày hôm nay tôi thấy mình kiên nhẫn hơn thời chưa là sinh viên. Chính cuộc sống ở nhờ nhà người khác, phải chịu đựng lời ra tiếng vào, phải cắn răng nếm trải thất bại trong cuộc sống của một sinh viên nghèo mà tôi đã lớn lên, vững vàng hơn và biết quý trọng các giá trị cuộc đời. “Thất bại là mẹ thành công” là một nghịch lý rất hữu lý.
    Lịch sử nhân loại có những lúc thật là đen tối, tưởng chừng không lối thoát. Những lúc ấy, những hậu quả do sự dữ luân lý thật là khủng khiếp vô cùng. Nếu ta đặt mình vào vị trí của những người Do Thái trong trại tập trung Ðức quốc xã hồi Ðệ nhị thứ chiến, của người dân Rwanda trong thời kỳ thanh trừng sắc tộc, người dân Palestine, người dân Iraq, những bệnh nhân Aids đau đớn nằm chờ chết,… thì sẽ thấy bóng tối sự dữ kinh khủng đến mức nào. May thay, Thiên Chúa vẫn không ngừng hoạt động để giúp con người đẩy lui bóng tối và biết yêu mến ánh sáng. Nếu so sánh với ngày xưa, chắc chắn ngày nay con người đã biết quý trọng sự sống hơn, đề cao nhân phẩm hơn, đấu tranh cho nhân quyền nhiều hơn, chú ý các chiều kích nhân bản và tâm linh hơn.
    Con người chán ghét sự xấu và đấu tranh đẩy lui đau khổ là một dấu hiệu tốt cho thấy Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người và con người đang trung thành với ‘ơn gọi’ của mình để tiếp tục lớn lên trong tầm vóc của mình. ‘Ơn gọi’ của tất cả mọi người là đạt cho được hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn không còn bóng sự dữ hay khổ đau. Vì thế, mỗi khi khó chịu với hay muốn đẩy lui đau khổ là ta đang diễn tả ý chí muốn chế ngự sự dữ và khát vọng đạt đến hạnh phúc. Nếu cứu cánh đời ta không phải là hạnh phúc và ơn gọi của ta không phải là tìm cách đạt cho được hạnh phúc ngay từ lúc này thì có lẽ chúng ta không chán ghét sự dữ và đau khổ.
    Không ai muốn đau khổ vì nó thường gây khó chịu, ê chề, lao đao, khốn khó, thất vọng. Nhưng ý thức và kinh nghiệm đau khổ, với sự trợ giúp của ân sủng, lại làm cho con người vượt ra khỏi cấp độ thú vật và phát triển trên phương diện tri thức và đạo đức. Ông bà mình quả có lý khi nói: “Cái khó ló cái khôn”.
    Sự trung lập, tình cờ của các định luật tự nhiên có thể được coi là một khiếm khuyết bất công vì chúng không chừa ra người lương thiện mà giáng tai ương xuống trên tất cả. Ta có thể xem đây là một loại ‘sự dữ’, là một trong những nguyên nhân gây ra đau khổ. Tuy nhiên, sự trung lập lạnh lùng ấy lại là yếu tố giữ gìn tự do của con người và giúp con người hiệp thông với nhau. Thứ nhất, nó giữ gìn tự do của con người vì tránh cho họ khỏi nguy cơ làm các việc tốt vì sợ bị phạt (đồng nghĩa với nô lệ sợ hãi) mà trở thành lưu manh, chạy chọt, xu nịnh, dúm dó. Ngược lại, nhờ sự ‘vô tình’ ấy mà con người sẽ chọn Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa, chọn điều thiện vì chính điều thiện. Thứ đến, nó làm cho con người hiệp thông trọn vẹn thật lòng với nhau vì loại bỏ động cơ vụ lợi trong việc yêu thương bác ái, nghĩa là giúp con người yêu thương thật sự chứ không phải vì lợi ích vật chất do việc kính Chúa yêu người mang lại.
    Thiên Chúa đã tự do sáng tạo vũ trụ như nó đã tồn tại và vận hành lâu nay, trừ những phần đã bị phá hỏng do con người. Tại sao Thiên Chúa lại sáng tạo một thế giới có những đường nét và đặc tính nhiều khi rất khó chịu gây ra bao nhiêu khó khăn cho con người? Tất nhiên không ai biết được lý do chính xác vì không ai là Thiên Chúa cả. Nhưng tôi có một suy tư thế này: Thiên Chúa đặt con người vào một thế giới còn nhiều bất toàn (trong mối liên hệ với lợi ích của con người) như thế có lẽ để con người thể hiện vị thế làm chủ của mình bằng cách hoàn thiện nó, “đặt tên” cho nó có khi bằng chính sự vượt khó của mình. Ðể rồi kinh qua tất cả những gian lao, thử thách ấy, con người vươn tới một tầm vóc lớn hơn và cuối cùng có thể ‘đủ sức’ chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, Ðấng siêu việt. Có lẽ cũng vì thế mà Ngôi Hai đã chọn con đường Nhập thể để trợ giúp con người hoàn thành hành trình vươn cao của mình, ngang qua các nghịch cảnh.

    “Tất cả là hồng ân” không phải là một câu nói lúc nào cũng có logic và dễ nghe, nhất là trong đau khổ. Tuy vậy, khi nhờ ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vẫn hằng hoạt động trong mỗi người mà ta vươn lên tầm vóc trưởng thành hơn, vững vàng hơn, thánh thiện hơn ngang qua mọi đau khổ, thì xin được xác tín rằng: TẤT CẢ CÓ HỒNG ÂN.
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  58. Có 2 người cám ơn repentir vì bài này:


  59. #30
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default VINH DANH CHÚA CẢ TRÊN TRỜI - BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

    VINH DANH CHÚA CẢ TRÊN TRỜI
    BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO LOÀI NGƯỜI.


    LS. NGUYỄN CÔNG BÌNH


    LTS: Lời Chúa là Lời Hằng Sống nhưng dịch Kinh Thánh như thế nào cho chính xác là một việc làm hết sức khó khăn. Xin giới thiệu với quý độc giả bài tìm hiểu về ý nghĩa bản kinh "Vinh Danh" của một tác giả có lòng yêu mến Lời Chúa với mong ước đây sẽ là nhịp cầu để mọi người cùng nhau tìm hiểu, chia sẻ và sống Lời Chúa mạnh mẽ hơn nữa trong cuộc đời mình.
    Mỗi năm cứ vào dịp Lễ Giáng Sinh chúng ta cùng hát chung với nhau bài hát của các thiên thần nơi máng cỏ Bêlem ngày xưa "Vinh Danh Thiên Chúa", cùng là lời cầu nguyện của chúng ta xin Chúa ban ơn an bình. Vì có nhiều bản dịch kinh Vinh Danh khác nhau cho nên có một số người thắc mắc về nguyên văn bài hát này. Chúng tôi chỉ xin ghi ra một số ý kiến thô thiển như sau:
    Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời.
    Câu này chúng ta đều hiểu được cách rõ ràng. Câu thứ 2 được dịch khác nhau:
    Bình an dưới thế cho người thiện tâm, hay Bình an dưới thế cho người Chúa thương; và: Bình an dưới thế cho loài người.
    Mọi câu dịch sau đây đều hợp lý, song lại mang những khía cạnh khác nhau:
    A. Dịch Theo Nghĩa
    Người có lòng và sống thiện tâm

    1. Gloria in excelsis Deo,
    Et in terra pax hominibus bonae voluntatis.

    Ðây là bản phổ thông latinh Vulgata của Thánh Giêrônimô - Câu hát thánh Luca viết trong Tin Mừng theo Luca tiếng Hy lạp đã được Thánh Giêrônimô dịch ra tiếng Latinh rất đúng, rất sát và rất đầy đủ. Theo chân Thánh Giêrônimô, chúng ta hát lên câu này trong mỗi thánh lễ tiếng Việt như sau:

    2. Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
    Và bình an dưới thế cho người thiện tâm.
    (Kinh Vinh Danh thánh lễ tiếng Việt)

    Khi dịch Bình An (pax) trên trái đất (in terra) cho những người (hominibus) có lòng, (hoặc thuộc về) thiện tâm (bonae voluntatis) thì ý nghĩa này giới hạn bình an của Chúa cho những kẻ ngay lành, có lòng quảng đại từ tâm, good will, thiện chí, thiện tâm và ý chí tốt để theo Chúa.
    Các câu dịch loại A rất hữu lý vì Bình An Chúa chỉ xuống cho những người đã theo Chúa, đã giữ Lời Chúa để tạo cho mình ý chí ngay lành, thiện tâm. Song tự kiểm điểm lương tâm chúng ta sẽ thấy không biết mình đã đủ sống thiện tâm chưa, đã đáng để được hưởng bình an chưa?
    Các câu dịch nói trên là lời cầu khẩn của chúng ta ngước lên cầu nguyện Chúa ban bình an xuống trái đất. Các câu dịch sau đây được nhìn theo Lòng Thương Xót của Chúa từ trên ban xuống cho chúng ta.
    B. Dịch Theo Nghĩa
    Lòng thiện tâm, sự đẹp lòng, ơn sủng, tình thương xót (favor) của Thiên Chúa.
    Nguyên bản do thánh Luca viết tay đã bị thất lạc từ lâu. Lúc đó chưa có ngành ấn loát, Phúc Âm của Ngài được chép tay để dùng trong các cộng đoàn hoặc nhóm. Bản Hy lạp Novum Testamentum Graece cho thấy thánh Luca đã dùng chữ eudokia. Chữ này dĩ nhiên có nghĩa là thiện tâm - bonae voluntatis - như Thánh Giêrônimô đã dịch song cũng có nhiều ý nghĩa khác rộng hơn bao gồm các nghĩa: (a) ý tốt, ý ngay lành, (b) thiện tâm (kindness), (c) thiện chí (good will, desire to do good thing), (d) làm đẹp lòng, hay hài lòng (favor), (e) từ tâm (benevolence, sympathy), dĩ nhiên là của Thiên Chúa; cũng có nghĩa là ơn sủng, ân trạch, giúp đỡ (support). Cũng có thể là thánh Luca đã dùng chữ eunoia, đồng nghĩa với chữ trên song nhấn mạnh về lòng tốt, lòng nhân từ thương xót, hoặc vui lòng nhẫn nại. Sự sai biệt không trầm trọng vì hai chữ cùng một ý nghĩa.
    Vì thế, theo cấu trúc của câu văn, cũng có thể dịch là Et in terra Pax hominibus Bonae Voluntatis Dei theo nghĩa "và dưới đất bình an cho nhóm người thuộc về lòng thiện tâm, lòng tốt bụng của Thiên Chúa. Các bản dịch loại B này dựa theo bản phổ thông Hy lạp:
    3. Glory to God in high heaven,
    peace on earth to those
    on whom his favor rests
    (The New American Bible).
    4. Glory to God in the highest
    and on earth peace to men
    on whom his favor rests.
    (International Bible Society).
    5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm
    và dưới đất bình an cho kẻ Người thương.
    (Tân Ước Cha Nguyễn Thế Thuấn).
    6. Glory to God in the highest
    and on earth peace among men
    with whom He is pleased.
    (Revised Standard Version - American Bible Society)
    7. Vinh danh Chúa Cả trên trời
    Bình An dưới thế cho người Chúa thương.
    (Bài hát kinh Vinh Danh của Lm. Nguyễn Văn Trinh).
    8. Glory to God in the highest
    and Peace to his people on earth
    (Kinh Vinh Danh trong thánh lễ tại Hoa Kỳ)
    Các câu dịch loại B có lẽ đã theo tinh thần Matthêu 1:21 khi thiên thần truyền tin cho Thánh Giuse là Chúa xuống để cứu "Dân" của Ngài khỏi tội lỗi, cho nên đã giới hạn ý nghĩa câu dịch, cho rằng Bình An của Chúa chỉ xuống cho những người thuộc về Chúa, được Chúa thấy hài lòng, đẹp lòng. Ðiều này không sai lầm vì không phải mọi người đều được Ơn Cứu Ðộ, mà chỉ những người được Chúa thương mời gọi thuộc về đoàn chiên Chúa, làm Dân của Chúa dĩ nhiên với điều kiện là phải tin theo và trung thành với Chúa.
    Có thể các bản dịch này cũng dựa vào Matthêu 11:20 trong lời nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Cha rằng Lậy Cha là Chúa Tể Trời Ðất, con ngợi khen Cha vì Cha đã dấu không cho người thông thái biết những điều này mà lại trình bày cho người bé mọn Vâng, Lậy Cha, vì đó là điều đẹp ý (eudokia) của Cha. Thánh Luca cũng lập lại câu này và cũng dùng chữ eudokia trong Luca 10:21. Xin cũng đọc Ephêsô 1:5 & 9 để thấy Thánh Phaolô cũng dùng chữ Eudokia, khi diễn tả lòng nhân ái, kế hoạch yêu thương của Chúa Cha ban Chúa Giêsu để mang ơn Cứu Ðộ. Ðó là ý nghĩa của Giáng Sinh. Chúa đã yêu thương chúng ta, ban con Một của mình để cứu chuộc chúng ta song Ngài cũng muốn chúng ta mang tình yêu thương nhận được từ Chúa cho tha nhân. Mặc dầu thật khó để chúng ta tạo được thiện tâm song Chúa là chủ tể lòng thương, lòng thiện tâm và chỉ có Chúa giúp chúng ta mới đạt đến lòng thiện tâm mà thôi.
    C. Dịch Theo Nghĩa
    Bình An dưới thế cho loài người
    Tuy nhiên những bản dịch sau muốn nói rộng ý nghĩa để diễn tả loài người nói chung đã là đối tượng của Tình Yêu Thương của Chúa khi Con Thiên Chúa đã đến để ở với loài người:
    9. Vinh Danh Thiên Chúa trên trời
    Bình An dưới thế cho loài người Chúa thương
    (bản dịch của Nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh)
    10. Sáng danh Chúa, trên các từng trời rất cao,
    Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người.
    (bản dịch của Thánh Kinh Hội - New York)
    11.Glory to God in the highest
    and on earth peace, goodwill toward men.
    (Holy Bible - The Gideons International).
    Người Âu châu có thói quen dùng chữ "đàn ông viết theo số nhiều" (cả cổ ngữ lẫn tiếng hiện đại homines, les hommes, men) với ý nghĩa "loài người" cách tổng quát, hoặc "một nhóm người gồm cả nam và nữ" Tiếng Việt dùng chữ "loài người" không cần nói rõ phái tính nên giản dị hơn.
    Ý nghĩa thứ nhất của chữ hominibus và anthropois / hommes, men phải được dịch là "loài người" nói cách chung. "Ý nghĩa thứ 2 mới là "một nhóm người" (ví dụ những giáo hữu đầu tiên tin theo Chúa) dĩ nhiên kể cả đàn ông đàn bà; và ý nghĩa hạn hẹp thứ 3 mới là một nhóm từ 2 người đàn ông trở lên, không có đàn bà trong nhóm đó.
    Riêng tôi tán thành các bản dịch 9, 10 & 11 này. Ðọc trọn hai bộ Tân Ước và Cựu Ước, chúng ta phải nhìn nhận Chúa yêu thương tất cả mọi người khi tạo dựng ra họ, Chúa tìm đến người có tội và đổ máu ra cho nhân loại được tha tội. Và mỗi thánh lễ chúng ta đều nhắc lại cho nhau mầu nhiệm này.
    Cùng trong ý nghĩa dịch loại C là bản dịch thứ 12 của hai nhạc sĩ Việt nam là Hoài Ðức và Vương Trinh và đồng thời hai vị phổ nhạc trong bài hát "Cùng Ði Bê Lem" vừa du dương và vừa mang ý nghĩa yêu thương:
    Giữa muôn vàn hào quang
    Với muôn ngàn hương ngát lừng
    Bao thiên thần hòa vang
    Cất ca lời cung chúng mừng:
    12. Sáng danh Thiên Chúa trên trời!
    Bình An cho khắp nhân loại.
    Sáng Danh Thiên Chúa trên trời!
    Bình An xuống cho nhân trần.
    D. MỘT VÀI NHẬN XÉT:
    Nhận xét 1: Theo tôi tóm lại, tất cả các bản dịch từ số 1 đến 12 đều đúng. Dù sao, thiển ý của tôi, thái độ chúng ta khi cầu nguyện với câu dịch loại B, cách riêng câu dịch loại A, mới là điều quan trọng.
    Người Pharisiêu nghĩ rằng mình thuộc Dân Chúa, nghĩ rằng mình đã giữ 10 điều răn, nghĩ rằng mình đã công chính, thiện tâm, nghĩ rằng Chúa thuộc về mình cho nên ngay trong lời cầu nguyện của họ đã khinh chê người thâu thuế tội lỗi. Các trẻ em chạy ồ đến Chúa đã bị các tông đồ la mắng, ngăn cản. Người mù, người què thấy Chúa đi đến đã la lên xin ơn cứu, song những người theo Chúa đã la mắng họ, quát nạt họ, bảo họ im mồm vì nghĩ rằng chỉ có họ mới có Chúa, mới được Chúa thương. Xin đọc Matthêu 7:21-23 và Luca 6:46 để thấy câu trả lời của Chúa.
    Nhìn vào bản thân, phải chăng chúng ta cũng đã ích kỷ như vậy chỉ muốn giành Chúa cho chính mình và đã la mắng ngăn cản cũng như miệt thị người khác khi họ thật sự cần đến Chúa. Bệnh độc quyền hình như không bị chúng ta phát hiện vì không có triệu chứng và nhiều khi đẵ ăn hết bộ óc chúng ta rồi. Chúa Giáng Sinh để chết cho tội lỗi của cả nhân loại để mang ơn phục sinh cho tất cả mọi người trên trái đất này, trừ những người phủ nhận Chúa. Ðặc biệt Chúa đã bỏ thì giờ lo lắng đi tìm những kẻ tội lỗi, điếm đàng, những con chiên lạc mà xã hội khinh chê ruồng bỏ để cho họ cơ hội trở về với Ngài.
    Vào thời Chúa đã có những người không theo Chúa đi rao giảng và bị các tông đồ ganh tị dèm pha. Vào thời chúng ta cũng có những người không thuộc về nhóm chúng ta, vì không đi chung nhà thờ chúng ta, hoặc cùng thuộc giáo xứ, song kém hiểu biết về Kinh thánh, hoặc bệnh hoạn vì phạm tội công khai như bỏ vợ bỏ chồng, chúng ta khinh chê họ, coi họ như đã bị mất linh hồn sa hoả ngục mà quên cầu nguyện cho họ cũng như cho chính mình... Chúng ta đã tự cao tự mãn rằng mình công chính thiện tâm, coi rằng Chúa thuộc về mình và còn nhẩy lên toà Chúa để phán xét những kẻ khác. Song nếu tự soi gương có thể sẽ thấy có lẽ chúng ta thấy rõ mình cũng chỉ là những người yếu đuối luôn cần đến lòng xót thương của Chúa.
    Nhận xét 2:12 câu dịch vừa kể dậy chúng ta bài học mỗi khi dịch và đọc Lời Chúa cần phải cẩn thận vì nếu chỉ dựa vào một câu duy nhất và theo nghĩa đen để dịch, diễn nghĩa và để hiểu thì đôi khi có thể gây tranh luận vô bổ, nhất là có thể sẽ đi đến sai lầm trầm trọng. Mỗi chữ, mỗi câu cần đọc với Ðức Tin và thành ý, chung với cả đoạn và với toàn bộ Kinh Thánh, lấy Lời của chính Chúa Giêsu làm gốc, các sách khác chỉ là bổ túc Lời Chúa thì mới hy vọng hiểu đúng.
    Chúng ta thường tự biện hộ cho rằng dù sao chuyển ngữ Lời Chúa sang một ngôn ngữ khác không là điều dễ dàng vì có những dị biệt văn hóa hay thói quen dùng chữ của bản chính và của bản dịch nhất là một số thói quen khi dùng chữ để dịch đó. Nhiều thói quen đáng trách lắm, chẳng hạn khi dịch Lời Chúa chúng ta thường tự ý thêm thắt vào một dấu chấm, dấu phẩy hay một chữ mà đôi khi có thể đưa đến những hiểu sai trầm trọng. Niềm tin chúng ta và cũng là điều răn thứ nhất là chỉ có Một Thiên Chúa, Một Thần (God) duy nhất; chúng ta không được tin và thờ thần (other gods) nào khác, vì ngoài Chúa là Thần, chẳng còn thần (god) nào khác. Chúa cũng tạo dựng nên các thiên thần (angels, spiritual beings) và họ không là thần (gods) mà chỉ thuộc giới thần thiêng thấp hơn Thiên Chúa (God) và Satan cùng bè lũ chỉ là những thiên thần sa ngã... Song một số bản dịch thư I Côrintô 15:24 (như bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ) khi gặp 3 chữ giản dị của Thánh Phaolô là đế quốc, thống trị (rule), quyền lực, quyền bính (authority) và thế lực, sức mạnh (power) đã thêm chữ "thần" vào để nói rằng đó là các quản thần, quyền thần và dũng thần. Thánh Phaolô có nói đến thần (god) nào đâu, mặc dầu nếu hiểu rõ chữ nho thì có thể hiểu chữ "thần" là một thứ quyền lực vô hình song hữu thực; song liệu rằng các em nhỏ, cũng như các anh chị tân tòng, liệu có thể hiểu được như vậy chăng vì họ đã quen thuộc với các ông thần Tài, Thần thổ địa, Thần sông, thần núi...? Ngay Chúa Giêsu cũng có bao giờ nói đến ông thần tài đâu, Chúa chỉ nói rằng chúng ta không thể cùng một lúc làm tôi Thiên Chúa và tiền bạc (wealth) song chữ mamon (tiền của) cũng có người ráng dịch là Thần Tài, thần Mamon viết với chữ hoa.
    Cũng trong thư I Côrintô này, đoạn 15: 54 và 55, sự chết đã được phong thần và được gọi là Tử Thần (God of death) viết chữ hoa. Lại thêm vài hoạ sĩ vẽ hình Tử Thần với bộ xương mang theo lưỡi liềm. Các anh chị tân tòng sẽ không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi vậy thì hoá ra có Tử Thần (God of Death) và Tử Thần đã thực sự chiến thắng Chúa Giêsu khi Ngài bị chết? Các anh chị tân tòng sẽ không khỏi tự hỏi vậy phải chăng Satan tạo ra và chỉ huy Tử Thần để mưu giết chúng ta? Thánh Phaolô chỉ đơn sơ dùng chữ sự chết, cái chết để nhắc chúng ta mầu nhiệm Giáng Sinh và Phục Sinh và Chúa đã làm người và đã chết để chúng ta được cứu khỏi sự chết và chế diễu sự chết vì nó đã bị Chúa Giêsu tiêu diệt. Sự chết không là thần thánh (god) đi đòi mạng chúng ta như ta tự tưởng tượng mà chỉ là kết quả do chính Satan và chúng ta đã tạo ra cho mình khi phạm tội...
    Ngược lại, khi đọc Lời Chúa và thơ các thánh tông đồ, trong 100 nhà thờ thì 99 nơi chúng ta chỉ nhất định dịch và đọc là "anh em thân mến" (còn các chị em hình như. không có mặt trong nhà thờ) và đổ lỗi cho Chúa Giêsu và các thánh tông đồ đã nói như vậy, viết như vậy mà quên rằng chữ "anh em" theo đúng ngôn ngữ Hy lạp và Latinh như được nói được dùng, có nghĩa là "anh và chị em trai và em gái" và ý nghĩa này cũng đúng theo ngôn ngữ của Chúa. Thêm một chữ "thần", bỏ một chữ "chị" quả gây nhiều hiểu sai khi đọc Lời Chúa.
    Ước mong tất cả chúng ta đều là những đối tượng của Lòng Yêu Thương của Chúa mãi mãi khi biết cách xin Chúa trước hết ban cho mình lòng thiện tâm và biết sống thiện tâm Yêu Thương Tha Thứ anh chị em mình như Chúa muốn. Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng: Hỡi anh chị em là những người con bé nhỏ của tôi, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi mà hãy yêu thương cách chân thật qua hành động. (Xin đọc cả Thư I Gioan 3:18-24). Xin hãy hát hay đọc kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô để thấy rằng khi đọc Lời Chúa, không nên chỉ đọc bằng miệng, xin để lỗ tai chúng ta cũng nghe, trái tim chúng ta cũng nghe và đôi tay, đôi chân chúng ta cũng nghe. Gương sáng của các bậc thánh nhân (dù chưa được tuyên phong) từ phương xa đến VN truyền đạo, gần đây nhất là các cha dòng ÐaMinh, Dòng Chúa Cứu Thế, cha Joe Devlin S.J., cha Crawford, (danh sách dài lắm)... đã yêu thương người Việt, đến ở với chúng ta. Coi như các ngài bị "câm điếc" vì chẳng nói sõi, chẳng nghe rành được tiếng Việt, song Lời Chúa được thể hiện qua Lòng Yêu Thương đã được các ngài rao truyền rõ ràng vô cùng qua trái tim, qua tay chân của các ngài.
    Nguyện chúc Bình An của Chúa Giêsu Hài Ðồng đến với tất cả mọi người chúng ta.
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  60. Có 2 người cám ơn repentir vì bài này:


  61. #31
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    23/12

    Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?


    Thứ Sáu ngày 23.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 1, 57-66

    57Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. 58Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. 59Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. 60Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải đặt tên cháu là Gioan." 61Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." 62Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. 66Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.


    Suy niệm:
    Vào trước lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, Giáo Hội cho chúng ta suy niệm về sự chào đời của Gioan Tẩy Giả.

    Có vẻ bà Êlisabét là người vui hơn cả. Bà đã mang nỗi hổ nhục từ bao năm nơi người đời (Lc 1, 25), bây giờ bà mới thấy rõ lòng thương xót bao la của Chúa (c. 58). Niềm vui của bà được tăng lên nhờ láng giềng, thân thích đến thăm. Thiên Chúa bắt bà chờ quá lâu, đến mức bà chẳng còn hy vọng. Rồi bất ngờ bà lại được tất cả những điều mình mong ước. Có một đứa con trai lúc đã cao niên, điều đó kể như một phép lạ.


    Khi bà khăng khăng đòi đặt tên cho đứa con là Gioan (c. 60), nhiều người ngăn cản, vì không ai trong dòng tộc mang tên này, vì cứ sự thường, con phải được đặt tên theo tên cha. Nhưng quyết định cuối cùng nằm trong tay ông Dacaria. Ông mới là người có quyền đặt tên cho con trai ông. Vì ông câm và điếc, nên ông cần một cái bảng nhỏ để ghi tên con. “Tên cháu là Gioan” (c. 63). Tên này trùng với tên vợ ông đề nghị. Chính lúc Dacaria vâng lời sứ thần đặt tên cho con ông là Gioan, thì lập tức miệng ông được mở ra và lưỡi ông được tháo cởi (c. 64). Giờ đây ông có thể chúc tụng Thiên Chúa sau hơn chín tháng bị câm.


    Những người thân thích, xóm giềng đi từ ngỡ ngàng đến kinh sợ. Quả thực có nhiều điều lạ lùng vây quanh sự chào đời của cậu bé. Người ta đồn thổi tin này khắp miền núi Giuđê.


    “Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao?” (c. 66). Làm sao biết tương lai của đứa trẻ mới được tám ngày tuổi. Nhưng qua những biến cố lạ lùng xảy ra: ông bà sinh con trong lúc tuổi già, ông bị câm rồi lại được khỏi, ông bà cùng nhất trí về tên của đứa con dù không trao đổi trước, người ta nhận ra bàn tay Chúa ở với em (c. 66). Em đúng là Gioan, tiếng Híp-ri nghĩa là Thiên-Chúa-tặng-ban, bởi em là quà tặng cho gia đình, dân tộc và cho cả nhân loại. Cậu bé Gioan đã từ từ lớn lên và theo một lối sống khác thường. Cậu không lập gia đình và sống khắc khổ nơi hoang địa (c. 80).


    Lễ Giáng Sinh là lễ của trẻ thơ, của niềm hy vọng. Mỗi trẻ thơ chào đời đều là một dấu hiệu của tình thương Chúa. Ngay một cuộc sinh nở bình thường cũng là một điều lạ lùng. Mỗi trẻ thơ được cha mẹ đặt tên, nhưng tên của em đã được khắc ghi từ lâu trong trái tim Thiên Chúa.

    Em nào cũng là một quà tặng cho thế giới, em nào cũng là một Gioan. Mỗi em đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp các em tìm thấy ơn gọi riêng của mình, và trưởng thành nhờ sống trọn vẹn ơn gọi đó.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Noel đã gần kề. Niềm vui Chúa Giáng sinh đang rộn rã trong tâm hồn chúng con. Chúng con muốn hòa với vạn vật, với không gian để hát khen mừng Chúa đã viếng thăm nhân trần. Chúa đã viếng thăm và lưu lại nơi trái đất này để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Chúa còn viếng thăm và ở lại từng tâm hồn chúng con để trở nên đồng hình đồng dạng với chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa.

    Chúa đã viếng thăm và ban ơn cho gia đình Dacaria. Chúa đã ban cho họ niềm vui qua việc đón nhận người con mới sinh là dấu chỉ đầy tình yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con luôn nghiệm thấy tình thương của Chúa để không ngớt lời ngợi khen và cảm tạ Chúa. Cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng con giống hình ảnh Chúa. Cám ơn Chúa đã cho chúng con nên nghĩa tử của Chúa. Cám ơn Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cuộc đời chúng con.


    Lạy Chúa, mỗi người chúng con đều là một tác phẩm đầy yêu thương của Chúa. Xin giúp chúng con biết sống một đời tri ân và cảm tạ Chúa luôn. Amen



    http://tgpsaigon.net/
    _____________________


    Một Căn Nhà Trật Tự

    Giá trị của một ngôi nhà chính là được con người cư ngụ. Một mái nhà tranh nhưng đầy ắp tiếng cười tiếng khóc của trẻ thơ vẫn đầm ấm hơn một dinh thự bỏ trống. Chúng ta có thể xác quyết rằng sự sinh sống, sự hiện diện, sự cư ngụ của con người trong căn nhà đã giữ gìn và bảo trì nó khỏi hư nát. Nhưng một khi con người bỏ đi, căn nhà sẽ trở nên tồi tàn. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự linh động, sự tồn tại của ngôi nhà chính là được cư ngụ.

    Cũng giống như thế, đời sống của chúng ta phải là một ngôi nhà được cư trú, được chiếm ngự. Nhưng cư trú ở đây không có nghĩa là chất chứa những vật dụng lỉnh kỉnh. Sự đầm ấm của một ngôi nhà còn tùy thuộc ở sự sắp xếp, sự bài trí. Ngôi nhà càng lộn xộn, càng dơ bẩn, thì càng trật trội, càng nóng nực.

    Ðời sống của chúng ta có thể là một căn nhà đầy ắp, nhưng lại thiếu trật tự, thiếu ngăn nắp, thiếu sự hiện hữu linh động và những điều kiện tinh thần để bảo trì căn nhà đời sống của chúng ta.

    Ngôi nhà của chúng ta có thể là một cao ốc với không biết bao những tầng lầu của lo lắng, đau buồn, bận bịu và sợ hãi. Chúng ta chất chứa cho cuộc sống chúng ta đầy ắp, nhưng những chất chứa ấy chỉ làm cho ngôi nhà của chúng ta ra buồn thảm, nhơ bẩn.

    Giáng Sinh sắp đến. Có lẽ gia đình nào cũng muốn cố gắng trưng bày một máng cỏ, một hang đá trên bàn thờ, trong một phòng khách. Căn nhà của chúng ta như sáng hẳn lên, như vui hẳn lên, vì sự hiện diện của Hài Nhi Giêsu.

    Trong niềm rạo rực của những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy mở rộng căn nhà cuộc đời của chúng ta để cho Chúa đến chiếm ngự. Ðã hai ngàn năm qua, Ngài đã đi tìm một chỗ trú ngụ. Ngài đến gõ cửa từng tâm hồn con người. Có còn một chỗ trống nào trong căn nhà của chúng ta không hay tất cả đều được chiếm ngự bởi không biết bao thứ lỉnh kỉnh khác như đam mê, ích kỷ, hận thù, ganh ghét và bao tâm tình bất chính khác. Hãy để cho Ngài chiếm trọn căn nhà cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ nghe được khúc nhạc du dương của các Thiên Thần: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm".

    Bình an sẽ tràn ngập căn nhà của chúng ta, niềm vui sẽ tỏa lan trong căn nhà của chúng ta, ánh sáng sẽ chan hòa căn nhà của chúng ta nếu chúng ta để cho Ngài chiếm trọn.

    Hôm nay đây, trong giờ phút này đây, Ngài cũng đang nói với chúng ta như đã từng nói với Gia Kêu: "Hôm nay đây, Ta sẽ đến và cư ngụ trong nhà ngươi".

    Cách đây 10 năm, giữa quảng trường thánh Phêrô, một con người đến từ một thế giới chỉ có đe dọa, sợ hãi đã hô lớn: "Ðừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Ðức Kitô". Hãy mở rộng cửa cho Ðức Kitô, chúng ta sẽ được niềm vui trọn vẹn trong tâm hồn.

    Ưu buồn, lo lắng vì không biết bao nhiêu khó khăn và thử thách trong cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng và vui lên vì sự cư ngụ của Chúa Giêsu chính là sức mạnh, chính là niềm tin của chúng ta.



    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  62. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  63. #32
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    24/12

    Chúa Viếng thăm


    Thứ Bảy ngày 24.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 1,67-79

    67Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: 68"Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. 69Từ dòng dõi trung thần Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, 70như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa:
    71sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; 72sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước; 73Chúa đã thề với tổ phụ Ápraham rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, 74và cho ta chẳng còn sợ hãi, 75để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. 76Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, 77bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên. 78Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, 79soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an."



    Suy niệm:
    Tin Mừng hôm nay là những lời kinh của chính ông Dacaria tán tụng Thiên Chúa trong ngày lễ cắt bì cho Gioan tại nhà ông. Thực ra, kinh này bắt nguồn từ Cựu Ước. Kinh tán tụng của Dacaria chia làm hai phần: phần thứ nhất từ câu 69-75 ông cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa là Đấng Cứu độ, phần thứ hai câu 76-79 là những lời tiên tri của đứa con ông sau này. Riêng bài Tin Mừng hôm nay chỉ trích một phần nhỏ của phần thứ nhất.

    Dacaria như đại diện gia tộc và dân Israel tán tụng lòng từ bi của Thiên Chúa bắt đầu cứu rỗi muôn dân. Sau bao nhiêu ngày tháng trông chờ ơn cứu độ, và đã tới thời gian viên mãn. Thiên Chúa đã biểu lộ lòng yêu bao la hải hà của Ngài.


    Chúng ta nhận thấy, mặc dù Thiên Chúa đã không thương xót các thiên thần sa ngã một lần, dù một lần cũng không, thế mà Thiên Chúa đã thương xót cứu vớt nhân loại tội lỗi. Thật ra, thì tất cả loài người sa ngã chứ không riêng gì một phần. Trong tội của Adam đã bao gồm cả tội chúng ta và của mọi thế hệ. Và Thiên Chúa đã thương không riêng gì ông bà nguyên tổ mà là tất cả mọi người.


    Bản tính con người dễ nhạy cảm, dễ ăn năn thống hối hơn mọi loài. Những cái yếu ấy làm Thiên Chúa mủi lòng thương xót. Cũng giống như cha mẹ thương xót con nhỏ chỉ vì chúng yếu đuối, bất lực, mong manh. Sự yếu hèn mong manh của con người cũng là lý do khiến Thiên Chúa dễ tha thứ. Ngoài ra con người sa ngã còn vì cám dỗ và gương mù quyến rũ lôi kéo. Đấy cũng là lý do khiến Thiên Chúa nguôi cơn thịnh nộ và tha thứ.


    Hơn nữa con người chiếm một địa vị trung tâm điểm trong việc tạo dựng. Vì con người là kết tinh của tinh thần và vật chất, cho nên dù họ sa ngã Thiên Chúa vẫn quyết định nâng đỡ họ đứng dậy. Thiên Chúa đã để họ những năm tháng dài, những thế kỷ đằng đẵng xa cách Thiên Chúa, để họ kinh nghiệm về vết thương trầm trọng do tội lỗi của họ gây nên, về sự yếu hèn, bất lực của mình để rồi như một người con hoang đàng họ khát khao tìm về nguồn sống. Có như thế thì Ngôi Hai đến họ mới ý thức được đó là một đại hồng ân của Thiên Chúa gửi đến.


    Thiên Chúa đã để cả một thời gian dài mới cứu độ cũng nói lên sự công bình oán phạt của Thiên Chúa đối với lòng người đã ra tối tăm chạy theo đường tà vậy (Rm 1,13-32). Nhưng đồng thời cũng nói lên lòng tốt vô cùng, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa theo dõi bóng người tội lỗi. Các thánh Giáo phụ đã diễn tả lòng Chúa thương xót tiệm tiến như một người mẹ nuôi con, răn bảo con, cho con ăn sữa, rồi khi cơ thể lớn lên mớm cơm và ăn thịt thà hay như một lương y cho thuốc chữa bệnh nhân dần dần tùy theo căn bệnh.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, nếu không gian đã được trang hoàng bởi những cây thông, những hang đá, những đèn sao lấp lánh, thì tâm hồn chúng con cũng cần được dọn dẹp cho xứng đáng để đón mừng Chúa viếng thăm. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria, biết kiên trì lắng nghe, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, để lời Chúa thực sự trở thành kim chỉ nam cho đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận ý Chúa trong mọi biến cố cuộc đời bằng hai tiếng xin vâng với trọn niềm phó thác tin yêu.

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________


    Cặp Kính Lão

    Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà, mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên, dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
    Duy chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô đơn của mình. Bà không còn một người thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà còn một người con trai, nhưng người con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh đã bị giam trong một trại khổ sai chung thân.

    Dù vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu, vẫn là một người con. Cũng như những lão ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài sản của bà chỉ là cặp kính lão còn đeo trên mắt... Người đàn bà ước ao được gửi cho người con của mình một gói thuốc lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói trọn tình thương mà bà vẫn dành cho anh.


    Bà đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có một ông lão còn một gói thuốc lá, loại thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích. Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như ai cũng sống theo nguyên tắc "có qua có lại". Lão ông chỉ trao cho bà gói thuốc với điều kiện bà cũng trao tặng cho ông một món quà nào đó.


    Người đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và trao cho ông lão. Gương mặt người đàn ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng cho con.


    Trở lại góc phòng của mình, người đàn bà làm một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được báo trong những ngày Giáng Sinh.


    Quà tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.


    Do đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát một ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong viện dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh sáng của mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng viện của bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy, chấp nhận một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để cho người khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.


    Nhưng đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.


    Ðó chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng ta càng được nhận lãnh.


    Chúng ta sẽ khám phá được nghịch lý ấy trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh. Niềm vui của Thiên Chúa, Vinh Danh của Ngài, quà tặng cao cả nhất mà Ngài đã trao tặng cho chúng ta: đó là Người Con Một của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài.


    Chúng ta đón nhận qùa tặng của Thiên Chúa với tất cả cảm mến tri ân. Nhưng mùa Giáng Sinh không chỉ là mùa của nhận quà, mà còn là mùa của tặng quà nữa. Chúng ta hãy dâng tặng Thiên Chúa tất cả con người của chúng ta.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  64. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  65. #33
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default

    "Ðó chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng ta càng được nhận lãnh."

    Mình thích nhất câu này...rất đúng..tuy nghịch lý nhưng lại là CHÂN LÝ của Kito Giao1 chúng ta! Cảm ơn Chị!



    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  66. Được cám ơn bởi:


  67. #34
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    26/12

    Vì danh Thầy


    Thứ Hai ngày 26.12.2011

    Lời Chúa:
    Mt 10,17-22

    17"Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. 18Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. 19Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: 20thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em. 21"Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.


    Suy niệm:
    Chúa Giêsu dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng: có thể họ sẽ gặp nguy hiểm (như chiên vào giữa bầy sói) và bị bách hại. Do đó

    - một mặt phải vừa đơn sơ vừa khôn ngoan.

    - mặt khác phải can đảm đừng sợ vì Chúa sẽ giúp đỡ họ.


    “Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa bầy sói” : thế gian thì hung ác và mạnh mẽ như sói còn người tông đồ của Chúa thì hiền lành và yếu ớt như chiên. Thế nhưng Nước Thiên Chúa lại được mở mang nhờ chính sự yếu ớt của Chúa Giêsu và các tông đồ của Ngài. Thánh Phaolô nói : “Sức mạnh Thiên Chúa được hoàn thành trong sự yếu ớt” (2Cr 12,2).


    “Khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu”: con rắn không vô cớ trườn mình ra chỗ nguy hiểm, trái lại nó khéo ẩn mình, và khi gặp nguy hiểm nó cũng khéo luồn lách; bồ câu thì không mưu mô, không màu mè giả đối…


    “Chính Thánh Thần nói trong các con”: người tông đồ không cậy dựa vào lời lẽ và trí thông minh của mình nhưng vào ơn soi sáng và lời của Chúa. Muốn thế họ phải luôn kết hợp với Chúa Thánh Thần.


    Ngay sau ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta mừng kính thánh Têphanô, vị Tử đạo tiên khởi của Giáo hội Công giáo. Gương tử đạo của ngài thật quý giá. Ngài đã họa lại thật rõ nét gương sống của Chúa Giêsu qua việc từ bỏ mình và sẵn sàng tha thứ cho kẻ bách hại mình, tất cả vì Danh Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã và đang làm chứng cho Chúa như thế nào trong cuộc sống hôm nay?



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, Chúa đã nói ai bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát. Xin cho chúng con ơn can đảm và bền lòng trước những thử thách gian nan, bất chấp mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống vì danh Thầy.

    http://tgpsaigon.net/
    _______________________________

    LỄ THÁNH STÊPHANÔ TỬ ĐẠO



    Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
    "Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: 'Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.' Ðề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần,..." (CVTÐ 6:1-5)

    Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.


    Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. "Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy" (CVTÐ 7:51b).


    Lời ngài nói đã làm họ tức giận. "Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, 'Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.'... Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài... Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, 'Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con... Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'" (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).

    Lời Bàn

    Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết "sung sướng" lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.

    Trích NguoiTinHuu.com
    __________________________

    Ông Già Noel



    Tháng 9 năm 1897, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho tờ báo Công Giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?
    Vài ngày sau, trên một quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau:"Virginia yêu dấu của bác. Ðiều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

    Virginia yêu dấu, tất cả mọi trí khôn của loài người, dù là của trẻ em, dù là của người lớn, tất cả đều nhỏ bé. Trong cái vũ trụ bao la này, con người chỉ là một con kiến nhỏ bé.


    Virginia ạ, ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại nhờ đó cuộc sống của cháu trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có những tâm hồn ngây thơ trong trắng của những trẻ thơ như cháu thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào? Không có một niềm tin của trẻ thơ như cháu thì không có một áng văn, một dòng thơ nào có thể làm cho cuộc sống của chúng ta đáng sống nữa. Không có một niềm tin của trẻ thơ thì ánh sáng vĩnh cửu đang lấp đầy thế giới cũng sẽ tắt dần.


    Virginia, nếu cháu không còn tin ở ông già Noel nữa, thì cháu cũng chẳng còn tin ở chuyện thần tiên nữa. Có thể cháu sẽ yêu cầu bố cho người ngồi canh ở lò sưởi, ở cuối giường để bắt cho được ông già Noel... Nhưng dù cháu không bắt được ông già Noel đi nữa, điều đó ý nghĩa gì? Chưa có ai thấy ông già Noel, nhưng cũng không ai chứng minh được là không có ông già Noel. Những điều có thực nhất trong thế giới của chúng ta đó là những điều mà trẻ con và ngay cả người lớn cũng chưa từng thấy.


    Cháu đã bao giờ thấy các nàng tiên nhảy múa trên thảm cỏ chưa? Dĩ nhiên là chưa. Nhưng có ai chứng thực được các nàng tiên không có không? Không ai có thể có khái niệm hay tưởng tượng được bao điều kỳ diệu chưa thấy hoặc không thể thấy được trong thế giới của chúng ta.


    Chỉ có Ðức Tin, chỉ có tình yêu mới có thể vén mở được bức màn bí mật của thế giới chúng ta.


    Nhờ ơn Chúa, ông già Noel vẫn sống và tiếp tục sống, cháu Virginia ạ. Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc".


    Lá thư gửi cho cô bé Virginia trên đây đưa chúng ta vào trung tâm điểm của ngày Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của nhi đồng, bởi vì nhân vật chính của ngày lễ là một Em Bé. Một Em Bé cũng như muôn nghìn em bé sinh ra trên cõi đời này. Em Bé đó chính là niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người.


    Cùng với Em Bé đó, tất cả các em bé đều mang lại niềm vui cho mọi người trong mùa Giáng Sinh. Bầu khí Giáng Sinh là bầu khí của nhi đồng. Từ hoa đèn, âm nhạc cho đến quà cáp, tất cả đều hướng về các em nhi đồng... Người cho đã vui mà người nhận còn vui hơn: chính các em bé là những người đã dạy cho người lớn biết vui với niềm vui ban phát. Bao lâu con người còn có thể mở cửa tâm hồn, bao lâu con người còn có thể mở rộng bàn tay để ban phát, để chia sẻ thì bấy lâu ông già Noel của hy vọng, của quảng đại, của hân hoan vẫn còn sống mãi trong tâm trí của trẻ em và không biết bao nhiêu người sầu khổ.


    Giáng Sinh là ngày của nhi đồng do đó cũng là lễ của hòa bình. Một em bé sinh ra là một hy vọng mới chớm nở. Hy vọng là tên mới của hòa bình. Còn hy vọng là còn muốn xây dựng. Xây dựng trên mầm sống đã đành mà còn xây dựng trên những đổ vỡ, mất mát. Qua Hài Nhi Giêsu, tất cả các em bé trên thế giới đang nhắn gửi đến từng người trong chúng ta niềm hy vọng vào thiện chí của con người. Hòa bình là hoa quả của hy vọng. Còn tin nơi con người, chúng ta còn có thể xây dựng hòa bình.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  68. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  69. #35
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    27/12

    Thấy và tin


    Thứ Ba ngày 27.12.2011

    Lời Chúa:
    Ga 20,2-8

    Bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." 3Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. 5Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.



    Suy niệm:
    “Tin Mừng hôm nay nói đến một sự trống rỗng. Được Maria Mađalêna thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ. Hai người không còn thấy xác Chúa Giêsu trong ngôi mồ nữa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, Gioan đã tuyên bố “Ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng. Đó là sứ điệp Gioan muốn gởi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ ? Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Hài nhi Giêsu đã giáng sinh ? Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa: Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy.

    Mừng lễ Thánh Gioan hôm nay, điều mà chúng ta học được ở nơi vị Tông đồ là đức đồng trinh. Sự đồng trinh cao quí của Gioan đã làm chính Chúa Giêsu yêu mến. Trong Tân ước, chúng ta thấy là Chúa Giêsu nghiêng hẳn về nhân đức này. Những người sống gần Ngài nhất đều sống đồng trinh như Chúa. Gioan tiền hô, Đức Mẹ, Gioan tông đồ. Chính Chúa Giêsu đã căn dặn giữ đức đồng trinh vì nước trời (Mt 19,10).


    Đức đồng trinh được các giáo phụ coi là bậc sống cao cả. Các Ngài gọi đức đồng trinh là “Vinh quang của thân xác Chúa Kitô”. Các Ngài đánh giá đức đồng trinh như tử đạo, là nhân đức Thiên thần, là trở về với đời sống vô tội nơi vườn địa đàng.


    Đức Piô XII trong hiến chế đào tạo linh mục số 10B đã bác bỏ một số sai lầm và Ngài quả quyết đức đồng trinh không đi ngược bản năng, không làm khô héo con tim, không ngăn cách trần gian mà ngược lại:

    Đó là phương thế tận hiến và kết hợp với Chúa cách độc nhất, không bị chia sẻ, tâm hồn hoàn toàn tự do. Đó là dấu chỉ mạnh mẽ của đức ái.

    Đức đồng trinh là dấu chỉ đời sống ngày mai sẽ phục sinh. Nó biểu trưng sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội trên trời. Đức đồng trinh mở mắt linh hồn nhận rõ hơn hạnh phúc nước trời (GH 42 c.16 LM.10. PC 12). Người giữ đức đồng trinh giúp tâm hồn tự do, hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa và các linh hồn. Thánh Phaolô viết: “Ai không lập gia đình thì chăm lo việc Chúa còn ai đã có thì chăm lo việc đời và tìm cách làm đẹp lòng mình và bị phân tâm” (Lc 7,32).


    Muốn giữ đức đồng trinh, người ta phải có hàng rào bốn phía là khiêm hạ, khổ chế, làm việc và Thánh Thể.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, Chúa đã Giáng sinh vì yêu thương chúng con và cứu độ chúng con. Suốt cuộc đời tại thế Chúa cũng đã yêu thương và huấn luyện các Tông đồ đi trên cùng một con đường: đường yêu thương; và rồi chính các Tông đồ phải biết sống niềm tin và củng cố niềm tin cho người khác. Xin cho chúng con cũng biết bám chặt vào Chúa trong tin yêu và hy vọng, niềm tin được nuôi dưỡng bằng một tình yêu trong sáng.

    http://tgpsaigon.net/
    ____________________

    Lễ Thánh Gioan Tông Đồ

    Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi ông Gioan và ông Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản, cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan "đang ở trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài" (Mátthêu 4:21b-22).

    Ðức tin của ba ngư dân -- Phêrô, Giacôbê và Gioan -- đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự sống lại của con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức Giêsu. Nhưng tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.


    Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như "người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý" (x. Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân thánh giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. "Thưa bà, đây là con bà... Ðây là mẹ con" (Gioan 19:26b, 27b).


    Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân bản. Ðức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là "con của sấm sét." Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.


    Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu -- một người bên trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả hai ông đều vô tư trả lời, "Thưa có!" Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: "Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người" (Mt 20:27-28).


    Một dịp khác, những "người con của sấm sét" hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ không đón tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã "quay lại và khiển trách họ" (x. Luca 9:51-55).


    Vào ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna "chạy đến ông Simon Phêrô và người môn đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, 'Người ta đã đem Chúa ra khỏi trong mộ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?" (Gioan 20:2). Gioan nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng "người môn đệ kia chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất" (Gioan 20:4b). Ông không bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. "Sau đó người môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin" (Gioan 20:8).


    Sau biến cố Sống Lại, ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra -- chữa một người bị tật từ bẩm sinh -- và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm nghiệm kỳ diệu của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công Vụ Tông Ðồ: "Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết rằng hai ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên, và họ nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu" (CVTÐ 4:13).


    Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.

    Lời Bàn

    Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những dòng chữ sau: "Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì anh em" (1 Gioan 3:16).

    Lời Trích

    Có câu chuyện người ta thường kể, là "các giáo dân" của Thánh Gioan quá chán chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: "Hãy yêu thương nhau." Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của Phúc Âm: "Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ" (1 Gioan 4:16).

    Trích NguoiTinHuu.com
    ____________________________

    Ngạc Nhiên

    Tại miền Provence thuộc miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Ða số các nhân vật trong máng cỏ, du khách thường để ý đến một con người nhỏ bé với hai bàn tay mở ra trống trơn, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó tả. Chính vì thế mà người ta đặt tên cho nhân vật này là "ngạc nhiên".

    Người địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên trên gương mặt của nhân vật này bằng một câu chuyện như sau: Một hôm tất cả các nhân vật trong máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa, đều tỏ ra khó chịu đối với nhân vật có tên là "ngạc nhiên" này, bởi vì anh ta không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trắng của anh. Họ sỉ vả anh như sau: "Mày không biết xấu hổ sao? Mày đến chầu Hài Nhi Giêsu mà không mang theo gì cả?".


    Nhưng con người có tên là "ngạc nhiên" ấy không để lộ một phản ứng nào, đôi mắt của anh vẫn mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.


    Những lời rủa sả cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến độ Ðức Maria phải lên tiếng để biện hộ cho anh như sau: "Quả thực anh "ngạc nhiên" đã đến với Hài Nhi Giêsu với hai bàn tay trắng. Nhưng anh đã mang đến món quà cao đẹp nhất: đó là sự ngạc nhiên của anh! Ðiều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư của anh".


    Và Ðức Mẹ kết luận như sau: "Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu luôn có những con người như anh "ngạc nhiên", biết ngây ngất vì ngạc nhiên".

    Người ta thường nói: "ngạc nhiên" là khởi đầu của khám phá. Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đặt ra giả thuyết rồi mới tìm tòi, khảo sát và khám phá... Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên.

    Trong lĩnh vực siêu nhiên cũng thế, Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên, biết chiêm ngắm để khám phá ra Tình Yêu bao la của Ngài. Cả vũ trụ là một quyển sách luôn được mở ra để mời gọi con người tìm đọc được Lời Ngỏ yêu thương của Chúa. Lịch sử của nhân loại, cuộc đời của mỗi người cũng là một kỳ công, qua đó Thiên Chúa không ngừng bày tỏ Tình Yêu của Ngài.


    Ðức Kitô Phục Sinh mang lại cho chúng ta sức sống mới với đôi mắt mới. Với đôi mắt mới ấy, chúng ta không ngừng được mời gọi để đi vào sự ngạc nhiên và ngây ngất trước Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình Yêu ấy nhiệm màu đến nỗi chúng phải vượt qua nhãn giới bình thường của chúng ta để nhìn thấy được và cảm nếm được những gì không nằm trong sự đo lường, tính toán của chúng ta. Do đó, người có cái nhìn ngạc nhiên và ngây ngất luôn phó thác cho Tình Yêu của Chúa... Trong lúc thịnh vượng, họ thốt lên lời ca chúc tụng tri ân đã đành, mà đứng trước thất bại, khổ đau, mất mát, họ vẫn có thể nhìn ra dấu ấn Tình Yêu của Chúa.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  70. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  71. #36
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Chứng nhân của Chúa Hài Nhi


    Thứ Tư ngày 28.12.2011

    Lời Chúa:
    Mt 2,13-18

    13Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! " 14Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập. 15Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Aicập. 16Bấy giờ vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. 17Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: 18"Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.
    Suy niệm:
    Như chúng ta đã biết, sau khi Hài nhi Giêsu sinh ra thì các đạo sĩ phương Đông tìm đến thờ lạy. Thờ lạy một Đấng còn là con trẻ trong máng cỏ khô nhưng cũng là Đấng thống trị trên trời dưới đất và trên chính họ nữa. Sau đó, các đạo sĩ được mộng báo trở về quê hương bằng con đường khác với Hêrôđê đã dự tính (Mt 2,12). Đồng thời thiên thần cũng hướng dẫn Giuse gấp rút đưa gia đình và hài nhi qua Ai cập cho tới khi báo lại (Mt 2,13).

    Khi vua Hêrôđê không thấy các đạo sĩ trở lại thì biết mình bị lừa nên nổi giận. Nổi giận trước một vị vua cả mới sinh ra. Ông đã đi tới một quyết định táo bạo là tru diệt Đấng mà nếu ông tin, ông sẽ được cai trị đời này và cả đời sau nữa. Hài nhi Giêsu đến trần gian chúc phúc không phải để trục xuất hay hạ bệ ông. Ngài đến để chiến thắng ma qủi, cứu lấy các linh hồn. Nhưng Hêrôđê đã không hiểu gì và ông ghen tức với một hài nhi yếu ớt vô tội. Thế là cơn giận kinh hoàng đã đổ xuống trên trẻ em vô tội. Hêrôđê trở nên hung tợn tru diệt bao nhiêu trẻ thơ khác trong miền Bêlem. Ông giận cá chém thớt. Một đời Hêrôđê toàn vấy máu.


    Theo gia phả thì Hêrôđê thuộc dòng tộc Esau, nên nơi ông hội đủ mọi mâu thuẫn. Ông giết vợ con mình, ông cướp vợ của người anh, ông giết cả tiên tri Gioan tiền hô. Và ngày hôm nay đây, ông giết các hài nhi vô tội. Trên một phạm vi, Hêrôđê là vua dân Do thái, ông tái thiết đền thờ Giêrusalem, ông xây cất cung điện nguy nga ở Tibêria. Vinh quang của ông rực sáng trước mặt mọi người. Nhưng ông đã làm vinh danh ông. Tội lỗi của ông tày trời hơn nữa khi ông quyết định tru diệt tàn sát các hài nhi mới sinh tính từ hai tuổi trở xuống. Hêrôđê tính rằng, các hài nhi mới sinh làm sao đi xa được. Sinh ra ở đâu lớn lên ở đó thôi. Nếu ông tính kỹ thì cả nước Do thái mang đại tang chứ không riêng gì Belem!


    Hêrôđê cho rằng ông giết các hài nhi như vậy để ông được sống lâu. Nhưng liệu ông có sống lâu được hay không khi ông đang đi tìm giết chính nguồn sống. Ông đã hủy diệt chính mạch hồng ân đã ban ngai báu làm vua của ông. Ông không ngờ mình đã phản bội một vị ân nhân.


    Còn đối với các em nhỏ ngây thơ đã chết cho Đức Kitô mà không biết, cha mẹ khóc thương những đứa con tử đạo. Còn Chúa, Chúa đã làm cho những em bé măng sữa chưa biết nói thành những chứng nhân của đức tin. Chúa đến để cai trị và cai trị như thế đó.


    Ơn thánh thật cao vời biết bao nhiêu. Các trẻ thơ đó khóc thét trong giây lát để cười mãi trong vĩnh cửu. Phận liễu yếu thơ nhi đã thành cột trụ của đức tin Giáo hội sơ khai và cả chúng ta hôm nay. Các em chưa biết nói gì mà đã biết tuyên xưng bằng sự sống. Các em chưa biết dùng chân tay để tự bảo vệ giao chiến mà đã giật được cành vạn tuế vinh quang.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng Emmanuel đã đến và ở cùng chúng con. Chúa đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần sự chăm sóc chở che. Chúa đang cần một chiếc nôi, Chúa cần một hơi ấm tình người, Chúa cần một gia đình để đón nhận Chúa, Chúa cần một nhu cầu cuộc sống thật bình thường như bao trẻ thơ khác. Thế mà dòng đời luôn khắc nghiệt, luôn đòi lấy đi tất cả những gì thiết yếu nhất của cuộc sống. Con người chỉ vì một chút bổng lộc mà đang tâm loại trừ Thiên Chúa. Và cho đến hôm nay, vẫn còn đó những trẻ thơ bị khước từ, bị bỏ rơi và lợi dụng; vẫn còn đó những trẻ thơ không một mái nhà, không một chiếc nôi và chẳng bao giờ được hưởng hơi ấm tình người. Xin Chúa là Đấng Emmanuel luôn gìn giữ các trẻ thơ trong tình thương quan phòng của Chúa.

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________


    Lễ Các Thánh Anh Hài

    Hêrôđê "Ðại Ðế", là vua xứ Giuđêa nhưng không được dân chúng mến chuộng vì ông làm việc cho đế quốc La Mã và ông rất dửng dưng đối với tôn giáo. Vì lý do đó ông luôn cảm thấy bất an và lo sợ bất cứ đe dọa nào đối với ngai vàng của ông. Ông là một chính trị gia giỏi và là một bạo chúa dám thi hành những việc tàn bạo. Ông giết chính vợ ông, anh của ông và hai người chồng của cô em, đó chỉ là sơ khởi.

    Phúc Âm theo Thánh Mátthêu 2:1-18 kể cho chúng ta câu chuyện sau: Hêrôđê "thật bối rối" khi các nhà chiêm tinh đến từ đông phương hỏi về "vị vua mới sinh của người Do Thái," mà họ đã thấy ngôi sao của người. Và các vị chiêm tinh được cho biết trong Sách Thánh Do Thái có đề cập đến Bêlem, là nơi Ðấng Cứu Tinh sẽ chào đời. Một cách xảo quyệt, Hêrôđê dặn họ là hãy báo cho ông biết sau khi tìm thấy vị vua ấy để ông cũng "đến thần phục." Các nhà chiêm tinh đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu, họ dâng Ngài các lễ vật, và được thiên thần báo mộng về ý định thâm độc của Hêrôđê và khuyên họ hãy thay đổi lộ trình trên đường về. Sau đó Thánh Gia trốn sang Ai Cập.


    Hêrôđê vô cùng tức giận và "ra lệnh tàn sát tất cả các con trai từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và vùng phụ cận." Vì Bêlem là một thành phố nhỏ, số trẻ bị giết có lẽ khoảng 20 hay 25. Sự kinh hoàng của việc thảm sát và sự tuyệt vọng của các cha mẹ đã khiến Thánh Mátthêu trích dẫn lời tiên tri Giêrêmia: "Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Raken khóc thương con mình..." (Mt 2:18). Bà Raken là vợ của ông Giacóp. Bà than khóc ở Rama là nơi người Do Thái bị tập trung lại sau khi bị người Assyria bắt làm tù binh.

    Lời Bàn

    Hai mươi trẻ em thì chỉ là số ít, so với sự diệt chủng và sự phá thai trong thời đại chúng ta. Nhưng dù đó chỉ là một người, chúng ta cũng phải nhớ đến tạo vật quý trọng nhất mà Thiên Chúa đã dựng trên mặt đất -- đó là con người, được tiền định để sống đời đời và được chúc phúc nhờ sự chết và sự sống lại của Ðức Giêsu.

    Lời Trích

    "Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự sống ngay cả trước khi chúng con có thể hiểu biết" (Lời Nguyện Trên Lễ Vật, Lễ Các Thánh Anh Hài).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

    _________________________



    Những Vị Thánh Vô Danh

    Có một vị thánh nọ thánh thiện đến độ, không hề dám có ý nghĩ rằng mình là một con người thánh thiện.

    Ngày kia, một thiên thần đến nói với ngài: "Chúa sai tôi đến gặp ngài. Ngài hãy xin bất cứ điều gì ngài muốn. Chúa sẽ ban cho ngài. Vậy ngài có muốn được ơn chữa bệnh không?"


    Vị thánh trả lời: "Không. Thà để cho chính Chúa chữa trị thì tốt hơn". Vị sứ thần đề nghị điều khác: "Ngài có muốn đem những người tội lỗi trở về đường công chính không?"


    Vị thánh cũng lắc đầu từ chối: "Không. Cải hóa tâm hồn không phải là việc của tôi. Ðó là công việc của các thiên thần". Vị sứ giả của Chúa mới gợi ý thêm: "Ngài có muốn trở thành một mẫu gương để thiên hạ luôn đến để bắt chước không?"


    Vị thánh cũng khiêm tốn trả lời: "Không. Bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý". Thiên thần mới hỏi: "Vậy thì ngài mong muốn điều gì?". Vị thánh trả lời: "Ơn Chúa, có ơn chúa, đó là điều tôi hằng khao khát".


    Vị thiên thần được Chúa sai đến vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nên đề nghị lần cuối cùng: "Ngài phải xin một phép lạ. Nếu không tôi đành phải để phép lạ xảy ra vậy". Vị thánh của chúng ta đành phải ưng thuận: "Vậy thì tôi xin điều này: ước gì mọi việc thiện được thực thi qua tôi mà tôi không hề hay biết". Thế là để là cho lời ước của vị thánh thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng phía sau của ngài được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có cái bóng ngài đi qua, thì nơi đó, người bệnh được lành, đất đai trở thành phì nhiêu, nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui trở lại trên những khuôn mặt sầu khổ.


    Nhưng vị thánh không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chú ý đến cái bóng đến độ quên hẳn con người.


    Hôm nay Giáo Hội kính nhớ các thánh anh hài, những vị thánh đã chết vì Ðức Kitô mà cũng không hề hay biết rằng mình phải chết vì Ngài. Các trẻ em ấy là kiểu mẫu của không biết bao nhiêu vị thánh vô danh.


    Có những Mẹ Têrêxa Calcutta, những linh mục Pierre mà thế giới không ngừng nhắc đến, nhưng cũng có không biết bao nhiêu những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ ngày ngày âm thầm hy sinh trong không biết bao nhiêu công việc vô danh, phiền toái mỗi ngày. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện của mình. Có biết bao nhiêu người âm thầm phục vụ tha nhân cách này hay cách khác mà không hề được đền đáp hay nhắc nhớ.


    Trong ánh sáng của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Bê Lem, 30 năm âm thầm của Ngià tại Nazareth: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày của chúng ta. Hài Nhi Giêsu mời gọi chúng ta nhận ra giá trị của cuộc sống ấy. Thiên Chúa thi ân tùy theo cách thế Ngài muốn. Cuộc sống âm thầm và hy sinh từng ngày của chúng ta là một trong muôn nghìn cách thế thi ân của Ngài mà chúng ta không thể đo lường được. Ngoài sự tưởng tượng và dự đoán của chúng ta, những hy sinh từng ngày của chúng ta được Chúa dùng như cái bóng vô hình nhờ đó Ngài thông ban muôn ơn lành cho người khác.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  72. Được cám ơn bởi:


  73. #37
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Ơn cứu độ cho muôn dân


    Thứ Năm ngày 29.12.2011

    Lời Chúa:
    Lc 2, 22-35

    22Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, 23như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. 27Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

    29"Muôn lạy Chúa, giờ đây
    theo lời Ngài đã hứa,
    xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
    30Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
    31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

    32Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
    là vinh quang của Ítraen Dân Ngài."


    33Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Người. 34Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."


    Suy niệm:
    Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do. Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê. Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21). Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2), nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48). Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8), phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ. Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy. Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội. Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

    Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này, dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận. Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem. Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi. Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh. Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24). Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng. Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (1 Sm 1, 22). Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào. Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.


    Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không? Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon. Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25), và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26). Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27). Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng, nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo. Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp. Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ, còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng. Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc. Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi. Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31). Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân, là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).


    Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày, cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon. Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong. Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy. Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần, chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon. Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, với niềm vui được đón rước Chúa vào lòng, xin cho chúng con cũng tràn đầy niềm vui như cụ già Simêon năm xưa để có thể thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin để tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ.” Thật, chẳng có vinh dự nào cao quý hơn vinh dự được chính Thiên Chúa viếng thăm. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con. Chúa lưu lại nơi mảnh đất tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết biến niềm vui thành một đời sống hân hoan ca tụng Chúa.

    http://tgpsaigon.net/


    _______________________



    Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo

    Văn hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng tử và cậu bé nghèo". Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.

    Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.


    Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.


    Giữa lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng thương người.


    Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.


    Mang lấy trong thân xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với từng người, nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau khổ, Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong những đau khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước Ngài.


    Thiên Ðàng là một gặp gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị bằng những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng ta khước từ tha nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa. Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.


    Nơi bàn thờ, vị linh mục đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu Ta... Khi chỉ cho chúng ta mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói: "Này là Mình Ta...".


    Thánh lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp gỡ với tha nhân... Xin Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu trong tha nhân, nhất là những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.


    Trích sách Lẽ Sống



    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  74. Được cám ơn bởi:


  75. #38
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    30/12/2011


    Thứ Sáu Mùa Giáng Sinh Năm lẻ

    LỄ THÁNH GIA THẤT

    Lời Chúa:
    Lc 2,22-40

    22Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, 23như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. 27Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

    29 "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen Dân Ngài."

    33Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Người. 34Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." 36Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.39Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. 40Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

    Suy niệm:
    Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt :

    - Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa: theo luật, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà; cũng theo luật, việc thanh tẩy người mẹ không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng cả ba đã cùng nhau lên Đền thờ.

    - Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa : “Cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu toàn Lề luật...”.

    - Một gia đình tốt là gia đình biết dâng cho Chúa những gì tốt nhất của mình: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”.

    - Gia đình tốt có thể nghèo (lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.

    Một thanh niên Scốtlen tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:

    - Có phải công việc quá cực nhọc không ?

    - Không, công việc rất nhàn.

    - Có phải lương quá ít không ?

    - Không, lương khá lắm.

    - Hay anh không thích đồ ăn ở đó ?

    - Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.

    - Vậy tại sao anh thôi việc ?

    - Vì nhà đó không có mái che.


    Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện.

    Trong khi người Ấn Độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người Do Thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu? Nhờ người cha Do Thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình Do Thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, khi nhập thể làm người, Chúa đã đón nhận thân xác hữu hạn như chúng con. Chúa đã sinh ra trong thời gian, lớn lên theo năm tháng như bao người khác. Chúa đã nêu gương cho chúng con về cách dùng thời giờ đời này để chuẩn bị cho hành trình mai sau. Chúa đã luôn chu toàn tốt bổn phận hằng ngày của mình. Khi còn nhỏ Chúa hằng vâng phục cha mẹ mình. Khi lớn lên, Chúa hằng sống hy sinh phục vụ anh em đồng loại. Chúa hằng cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Chúa vẫn sẵn lòng để ý Chúa Cha được nên trọn. Chính sự vâng phục đó đã khai mở một mùa xuân mới cho nhân loại. Sự chết đã bị đánh bại bởi sự vâng phục của Chúa. Xin cho bậc làm con cũng luôn biết vâng phục, hiếu kính cha mẹ, thầy cô và những người lớn. Đồng thời xin Chúa cũng ban cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tinh thần trách nhiệm của họ trong việc sống làm gương và giáo dục con cái. Xin cho từng gia đình chúng con luôn khao khát hướng đến sự thánh thiện và học đòi gương sống của Gia Đình Thánh.

    http://tgpsaigon.net/


    ________________________________


    “HÃY GÁNH LẤY TUỔI GIÀ CHA NGƯƠI”

    https://thanhcavietnam.net/forum/showthread.php?t=37211
    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 30-12-2011 lúc 12:33 PM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  76. Được cám ơn bởi:


  77. #39
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 47
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    Mầu Nhiệm Nhập Thể


    Thứ Bảy ngày 31.12.2011

    Lời Chúa:
    Ga 1,1-18

    1Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." 16Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Ki-tô mà có. 18Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

    Suy niệm:
    1. Ánh sáng cho nhân loại
    Mỗi dịp cuối năm, tạp chí Time có thói quen chọn một nhân vật làm người nổi bật của năm. Người được chọn cho năm 1994 là Đức Gioan Phaolô II. Trong số ra cuối năm, tạp chí Time đã đưa ra lý do chọn lựa này như sau:

    “Đức Giáo Hoàng không cảm thấy bối rối về lối sống đê hèn đang lan tràn khắp nơi. Cách đây 2 tuần, ngài đã giải thích với tạp chí Time rằng: cuốn sách bán chạy của ngài và đường lối ngoại giao không mấy được ưa thích của ngài đều có cùng một trọng tâm triết lý, đó là qui về sự thánh thiện của con người, và ngài nói thêm: “Giáo Hoàng phải là một sức mạnh tinh thần.” Trong một năm mà nhiều người than phiền về sự suy đồi của những giá trị luân lý hoặc bào chữa cho những hành động xấu, thì Đức Gioan Phaolô II đã cố gắng đề ra cái nhìn của ngài về cuộc sống tốt đẹp và thôi thúc thế giới sống theo cuộc sống đó. Chính vì sự can đảm đó, ngài được chọn làm người của năm.”


    Nhận định trên của tạp chí Time về Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn phù hợp với cái nhìn của ngài trong tác phẩm “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng.” Như tựa đề mà Đức Thánh cha chọn cho tác phẩm này đã có thể gợi lên: Hy vọng là sứ điệp mà ngài muốn nhắn gửi cho cả nhân loại trong giai đoạn này. Xuyên suốt qua cuốn sách, ngài không ngừng lặp lại câu nói ngài đã gióng lên tại quảng trường Phêrô khi được bầu làm Giáo Hoàng: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô.” Thiết tưởng đó phải là ý tưởng hướng dẫn những suy tư của chúng ta trong ngày cuối năm này.


    Nhìn lại một năm qua với bao biến động đã xảy ra cho thế giới, cho Giáo Hội, cho dân tộc, cho gia đình, cho chính bản thân, ai trong chúng ta cũng dễ bị cám dỗ buông xuôi theo đà chán nản thất vọng. Chính trong tâm trạng này mà chúng ta cần lắng nghe lời kêu gọi của Đức Thánh cha: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!” Quả thật, Chúa Kitô đang gõ cửa tâm hồn của từng người. 2000 năm qua, như thánh Gioan đã viết trong lời tựa Tin Mừng của ngài: “Chúa Kitô là ánh sáng nhân loại đang chìm ngập trong u tối của chiến tranh, hận thù chết chóc, 2000 năm qua, hận thù và chiến tranh vẫn còn đó. Nhưng nhìn chung vào lịch sử của 2000 năm qua, không ai chối cãi được rằng ánh sáng của Chúa Kitô đã thực sự chiếu dọi vào trong tăm tối. Nói như Đức Gioan Phaolô II mãi mãi con người sẽ không bao giời có thể loại bỏ được Chúa Kitô ra khỏi lịch sử của mình. “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta” Mãi mãi Chúa Kitô luôn có mặt trong lịch sử con người. Đó chính là niềm hy vọng của các Kitô hữu: Chúa Kitô đang có mặt trong cuộc sống chúng ta. Với Ngài thì cho dù sóng gió có bao phủ, chúng ta không có gì để sợ hãi. Với Ngài thì cho dù tăm tối có phủ kín, chúng ta vẫn còn thấy ánh sáng để tiến bước, với Ngài thì cho dù thử thách thất bại có ngập tràn, chúng ta vẫn tiếp tục hy vọng.

    Đó phải là tâm tình của chúng ta trong giờ phút này khi nhìn lại đất nước, gia đình, Giáo Hội, bản thân trong năm qua. Chúng ta hãy dâng lên Chúa niềm cảm mến tri ân và tin tưởng cậy trông của chúng ta.


    2. Mầu Nhiệm Nhập Thể


    Theo nhận xét của các nhà chú giải thì chương 20, 30-31 là đoạn kết sách Tin Mừng Thứ Tư. Trong c.31 tác giả nói đến mục đích của cuốn sách này là tạo điều kiện để các độc giả tin và tin mạnh hơn, nhờ đó họ nhận được sự sống đời đời. Nói khác đi, sách Tin Mừng thứ tư được viết nhằm đối tượng là những người đã có đức tin. Và nếu ta chấp nhận niên biểu tác phẩm này được viết vào cuối thế kỷ I, thì đây là một cộng đoàn đã sống đức tin từ lâu rồi.


    Như thế, bài tự ngôn trong Tin Mừng hôm nay không chỉ nhằm chứng minh Mầu Nhiệm Nhập Thể, mà còn cho những kẻ tin xác tín rằng mầu nhiệm ấy soi sáng cho đời sống đức tin của họ nữa. Trong tinh thần đó, chúng ta đưa ra một vài suy nghĩ về Mầu Nhiệm Nhập Thể.


    Thiên Chúa làm người không phải là một con người trừu tượng như định nghĩa của các triết gia: “Con người là cây sậy biết suy nghĩ,” nhưng là một con người cụ thể, liên đới với mọi thực tại của cuộc sống trên bình diện cá nhân, gia đình, xã hội; không một thực tại nào trong cuộc sống mà lại xa lạ đối với Ngài, và chính Ngài nhận lấy nó như thành phần của Ngài.


    Như thế, niềm tin vào Thiên Chúa Nhập Thể làm người không được làm chúng ta xa lạ với thực tại trần thế, trái lại phải liên kết chúng ta với thực tại trần thế một cách bền chặt hơn. Vấn đề là trong khi dấn thân vào những công việc trần thế, chúng ta có để lại dấu ấn gì của Thiên Chúa và của giá trị Tin Mừng không? Nói khác đi, chúng ta có chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, trong xã hội, trong đời sống chung hay không? Chúng ta có ý thức trách nhiệm của người Kitô hữu là làm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân không?


    Thiên Chúa làm người để nâng con người lên làm con cái Thiên Chúa. Giữa bầu khí linh thiêng của mùa Giáng Sinh, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm và tự hỏi: Tôi đã học được gì nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể làm người của Con Thiên Chúa? Tôi có đón nhận sự nghèo khó khiêm hạ của Máng cỏ như khởi điểm của một cuộc sống tăm tối, cho đến cái chết khổ nhục trên Thập Giá không? Đâu là món quà tôi có thể dâng tặng Ngài?



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng cho trần gian. Chúa đã hóa thành “Nhục thể và cư ngụ giữa chúng con.” Chúa đã mang lại cho chúng con niềm hy vọng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau những đau khổ chồng chất là chân trời hạnh phúc. Chúa đã soi sáng cho nhân loại chúng con biết đâu là thiện, là ác. Chúa soi lối cho chúng con bước đi trên con đường tìm về chân thiện mỹ vẹn tuyền. Xin cho chúng con luôn biết quý trọng và sống tâm tình tri ân vì những hồng an Chúa đã ban cho chúng con. Xin cho chúng con biết tìm đến nguồn sáng thật là chính Đức Giêsu và đồng thời cũng biết trở nên ánh sáng giúp người khác nhận ra Ngài.

    http://tgpsaigon.net/
    ___________________


    Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa

    Vai trò người mẹ siêu phàm của Ðức Maria đã triển khai tính cách đặc biệt của biến cố Giáng Sinh. Ðức Maria đóng một vai trò quan trọng trong sự Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài chấp nhận lời mời của Thiên Chúa mà đã được sứ thần đưa tin (Luca 1:26-38). Bà Êlizabét đã phải xưng tụng: "Em có phúc hơn mọi người nữ, và phúc thay người con trong lòng em. Bởi đâu tôi được người mẹ của Chúa tôi đến thăm?" (Luca 1:42- 43). Vai trò làm mẹ Thiên Chúa của Ðức Maria đã đặt ngài vào một vị trí độc đáo trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

    Tuy không nhắc đến tên Ðức Maria, Thánh Phaolô khẳng định rằng "Thiên Chúa đã sai Con Ngài, sinh bởi một phụ nữ, sinh ra dưới chế độ luật" (Galat 4:4). Thánh Phaolô còn nói thêm "Thiên Chúa đã sai thần khí Con Ngài đến trong tâm hồn chúng ta, để kêu lên 'Abba, Lạy Cha!'" giúp chúng ta nhận thức rằng Ðức Maria là mẹ của tất cả các người em Ðức Giêsu.

    Một số thần học gia còn nhấn mạnh rằng vai trò làm mẹ Ðức Giêsu của Ðức Maria là một yếu tố quan trọng trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ý tưởng "đầu tiên" của Thiên Chúa trong sự tạo dựng là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, là Ðấng có thể dâng lên Thiên Chúa tình yêu và sự thờ phượng tuyệt hảo nhất thay cho mọi tạo vật. Một khi Ðức Giêsu có trong tâm trí của Thiên Chúa "đầu tiên," thì "thứ đến" phải là Ðức Maria vì ngài đã được chọn từ thuở đời đời để làm mẹ Ðức Giêsu.


    Danh hiệu "Mẹ Thiên Chúa" đã có từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư. Từ tiếng Hy Lạp Theotokos (người mang Thiên Chúa), danh xưng ấy đã trở thành nền tảng cho giáo huấn của Giáo Hội về sự Nhập Thể. Công Ðồng Êphêsô năm 431 nhấn mạnh rằng các thánh Giáo Phụ đã có lý khi gọi đức trinh nữ rất thánh là Theotokos. Vào lúc cuối của công đồng đặc biệt này, đám đông dân chúng diễn hành trên đường phố, miệng hô lớn: "Ngợi khen đấng Theotokos!" Truyền thống ấy vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Trong chương về vai trò của Ðức Maria trong Giáo Hội, hiến chế Tín Lý về Giáo Hội của Công Ðồng Vatican II đã gọi Ðức Maria là "Mẹ Thiên Chúa" đến 12 lần.


    Lời Bàn

    Ngày lễ hôm nay còn bao gồm nhiều chủ đề khác. Ðó là Tuần Bát Nhật Lễ Giáng Sinh: Việc tưởng nhớ đến vai trò người mẹ siêu phàm của Ðức Maria đem lại một nhận thức khác về niềm vui Giáng Sinh. Ðó là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới: Ðức Maria là mẹ của Hoàng Tử Hòa Bình. Ðó là ngày đầu của năm mới: Ðức Maria tiếp tục đem lại sự sống mới cho con cái của ngài - và cũng là con cái của Thiên Chúa.

    Lời Trích

    "Từ muôn đời, Ðức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa, cùng với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo chương trình của Chúa Quan Phòng, ngài trở nên người mẹ dấu yêu của Ðấng Cứu Chuộc, một cộng sự viên đặc biệt cao quý, và tôi tớ khiêm tốn của Chúa. Ngài đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Ðức Kitô" (Tín Lý về Giáo Hội, 61).

    http://www.thanhlinh.net/

    ___________________________

    Chiếc Mốc Thời Gian

    Cứ ở mỗi cuối năm, hoặc ở khởi đầu của một năm mới, một thập niên mới, một kỷ nguyên mới, tạp chí Time có thói quen chọn một người nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại để làm một cái mốc cho thời gian.


    Lần đầu tiên, năm 1927, phi công Hoa Kỳ tên là Charles Lindbergh đã được chọn làm người của năm. Viên phi công này là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thực hiện một chuyến bay liên tục từ New York sang Paris. Người của năm không phải chỉ là một đấng mày râu, mà ngay cả phái yếu cũng được chọn vào danh dự ấy. Trước kia, có nữ hoàng Elizabeth đệ nhị, và năm 1986, tổng thống Aquino của Phi Luật Tân cũng đã đươc?chọn làm người của năm.


    Có đàn ông, có đàn bà. Có những người xây dựng Hòa bình như Mahatma Gandhi, như martin Luther King, mà cũng có những người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho nhân loại như Stalin, như Hitler, như Ðặng Tiểu Bình cũng đã từng được chọn làm người của năm.


    Gần đây, thế giới nhìn vào chủ tịch Gorbachov như gương mặt nổi bật nhất của lịch sử nhân loại. Năm 1987, ông được chọn làm người của năm vì đã xuất hiện như một biểu tượng của Hy vọng cho Liên Xô. Và với những thay đổi sâu rộng trong khối Ðông A? do chính sách đổi mới của ông mang lại, ông được chọn làm người của năm 1989. Nhưng tạp chí Time còn đi xa hơn nữa khi tặng cho ông danh hiệu "Người của thập niên 80". Trước kia, năm 1949, thủ tướng nước Anh là Winston Churchill cũng đã được chọn làm người của nửa thế kỷ.


    Thời gian sẽ vô nghĩa và trống rỗng, nếu không được liên tục bằng những cái mốc của lịch sử. Con người cần có những chiếc ấy để nhìn lại quá khứ và dự phóng cho tương lai.


    Người Kitô sống giữa thế giới không thể không dựa vào những chiếc mốc thời gian ấy. Nhưng chúng ta không nhìn vào những chiếc mốc thời gian ấy với đôi mắt bàng quan, hoặc tệ hơn nữa, bằng cái nhìn bi quan. Trong đức tin, tất cả được nhìn bằng đôi mắt lạc quan, bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa là chủ của lịch sử, Thiên Chúa luôn có mặt trong lịch sử con người. Tin vào sự hiện diện và hướng dẫn ấy của Thiên Chúa, chúng ta nhìn vào những chiếc mốc của thời gian như những dấu hiệu của Hy vọng. Ngay cả trong thất bại, rủi ro, tang tóc, thương đau, người Kitô cũng luôn nhận ra những dấu chỉ của Hy vọng. Tất cả mọi biến cố xảy đến đều phải được nhìn trong ánh sáng phục sinh của Ðức Kitô. Cái chết đau thương và nhục nhã của Ngài trên thập giá không phải là ngõ cụt, là đường cùng, là tăm tối mà là đường dẫn về A?h Sáng.


    Tin tưởng ở sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng phút giây của cuộc sống và lịch sử con người, cái mốc thời gian của chúng ta có lẽ không phải là đơn vị của năm, thập niên, mà là từng phút giây của Hiện tại. Và người được chúng ta chọn cho từng phút giây ấy phải là Thiên Chúa, chủ của thời gian, chủ của lịch sử.


    Xin chọn Người làm trung tâm điểm của cuộc sống, xin chọn Người làm Sự Sống, xin chọn Người làm Lý Tưởng, xin chọn Người làm Cảm Hứng, xin chọn Người làm cho tất cả cho cuộc đời, xin chọn Người trong từng phút giây của cuộc sống.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com