Love Telling ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Chủ đề: Năm Đức Tin

  1. #1
    Vinam's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2007
    Tên Thánh: Giuse
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 4,507
    Cám ơn
    5,558
    Được cám ơn 12,853 lần trong 2,816 bài viết

    Default Năm Đức Tin

    Bộ Giáo lý Đức Tin ra thông cáo về Bản Hướng dẫn mục vụ
    trong Năm Đức Tin

    WHĐ/VIS (6.01.2012) – Hôm qua 5-01, tại Vatican, Bộ Giáo lý Đức Tin đã ra thông cáo về Bản hướng dẫn mục vụ trong Năm Đức Tin 2012-2013.
    Thông cáo cho biết, văn kiện hướng dẫn mục vụ trong Năm Đức Tin sẽ được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ký vào ngày lễ Hiển Linh 6-01, và được ban hành ngày 7-01.
    Cũng trong thông cáo này, Bộ Giáo lý Đức Tin cho biết việc soạn thảo văn kiện đã được sự cộng tác của nhiều Bộ và Hội đồng trong Giáo triều, cũng như của Ủy ban chuẩn bị Năm Đức Tin.
    Năm Đức Tin được ĐTC công bố qua Tự sắc Porta Fidei (Cánh cửa Đức Tin) ngày 11-10-2011, sẽ khai mạc vào ngày 11-10 năm nay, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Khai mạc Công đồng chung Vatican II, và sẽ bế mạc vào ngày 24-11-2013, lễ Chúa Kitô Vua Vũ trụ.
    Năm Đức Tin được cử hành nhằm “góp phần làm sống lại nơi các tín hữu sự gắn bó với Chúa và đào sâu đức Tin, nhờ đó họ trở nên những chứng nhân đáng tin về Đấng Phục sinh, có thể chỉ cho mọi người biết cánh cửa dẫn vào đức Tin”.
    Việc khai mạc Năm Đức Tin trùng với việc kỷ niệm hai sự kiện lớn trong lịch sử Giáo Hội: khai mạc Vatican II (11-10-1962), một công đồng từng được Chân phước Gioan XXIII mong muốn, và Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (11-10-1992), vốn là ước nguyện của Chân phước Gioan Phaolô II.
    Theo thông cáo này, những hướng dẫn mục vụ hướng vào việc giúp cho “cuộc gặp gỡ Đức Kitô, nhờ những chứng nhân đức Tin đích thực, là sự hiểu biết tốt nhất về nội dung đức Tin”. Những hướng dẫn này không loại trừ những đề nghị được Chúa Thánh Thần khơi dậy trong lòng các mục tử và tín hữu khắp nơi. Những hướng dẫn gồm bốn phần: Giáo Hội phổ quát; Hội đồng Giám mục; Giáo phận; Giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn và phong trào.
    Cùng với lễ khai mạc trọng thể Năm Đức Tin và những sự kiện khác được đặt dưới sự chủ tọa của ĐTC, như Thượng Hội đồng Giám mục 2012, Đại hội Giới trẻ Thế giới 2013, còn có những sáng kiến đại kết hướng đến việc tái lập sự hiệp nhất các Kitô hữu. Do đó, một nghi lễ mang tính đại kết sẽ được tổ chức trọng thể để khẳng định lại niềm tin vào Đức Kitô của mọi người đã chịu phép Rửa tội.
    Các Hội đồng Giám mục được đề nghị nâng cao phẩm chất việc huấn luyện giáo lý phổ quát cũng như giáo lý và các thủ bản địa phương, sao cho phù hợp với sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo. Cũng cần chú ý đến việc sử dụng công nghệ thông tin và các loại hình nghệ thuật như: phát thanh, truyền hình, điện ảnh, sách báo viết về đức Tin và những nội dung đức Tin, về những giá trị Công đồng Vatican II mang lại cho Giáo Hội và xã hội.
    Tiếp theo, ở cấp giáo phận, Năm Đức Tin phải trở thành một cơ hội làm cho đức Tin và lý trí có được sự tương tác mang tính tích cực, thông qua các hội nghị, các buổi trao đổi nghiên cứu, nhất là tại các trường đại học Công giáo. Cũng cần phải tổ chức các buổi cử hành nghi thức thống hối, đặc biệt xét mình về các tội nghịch lại đức Tin.
    Cuối cùng, tại các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, cần chú trọng vào việc cử hành đức Tin trong Phụng vụ, nhất là Phụng vụ Thánh Thể, bởi vì “Đức Tin của Hội Thánh được loan báo, cử hành và được ban thêm sức mạnh trong Bí tích Thánh thể là mầu nhiệm đức Tin và là nguồn phát sinh tân Phúc âm hóa”. Từ những khởi xướng này, cần đề ra, phát triển và phổ biến những đề nghị khác, nhất là những sáng kiến của những cộng đoàn và phong trào mới trong Giáo Hội.
    Ngoài ra, bên cạnh Hội đồng Tòa Thánh về tân Phúc âm hóa, cũng sẽ thiết lập một Ủy ban Thư ký cho Năm Đức Tin nhằm phối hợp những sáng kiến của các Bộ trong Giáo triều Rôma cũng như của Giáo Hội tại khắp nơi trên thế giới. Sẽ có một trang web dành riêng cho việc thông tin về Năm Đức Tin. Bản Hướng dẫn mục vụ trong Năm Đức Tin của Bộ Giáo lý Đức Tin đưa ra lời mời gọi các tín hữu dấn thân trong Năm Đức Tin để “chia sẻ về Chúa Giêsu Kitô, ơn quý giá nhất đối với người Kitô hữu. Người là Đấng Cứu chuộc nhân loại, là Vua vũ trụ, là nguyên lý và là cùng đích của đức Tin”.
    ( VIS , 5-1-2012)
    ( hdgmvietnam.org)
    Chữ ký của Vinam
    Ngài là gia nghiệp đời con
    Ngài là hạnh phúc của con

  2. Có 4 người cám ơn Vinam vì bài này:


  3. #2
    hongbinh's Avatar

    Tham gia ngày: Sep 2010
    Tên Thánh: Gioan Baotixita
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Gx Thổ Hoàng
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 7,378
    Cám ơn
    9,536
    Được cám ơn 28,019 lần trong 5,096 bài viết

    Default Tông thư "Porta Fidei” (Cánh Cửa Đức Tin):

    Tông thư "Porta Fidei” (Cánh Cửa Đức Tin):

    1. ”Cánh cửa đức tin” (Xc Cv 14,27) dẫn vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và để cho tâm hồn được ân thánh biến đổi. Việc bước qua cánh cửa ấy kèm theo sự dấn thân trong một hành trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu với bí tích Rửa Tội (Xc Rm 6,4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và kết thúc với sự tiến qua cái chết đi vào sự sống đời đời, thành quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã muốn cho tất cả những người tin nơi Ngài (Xc Ga 17,22) được tham dự cùng vinh quang của Ngài, nhờ hồng ân của Thánh Linh. Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi - Cha, Con và Thánh Linh - cũng có nghĩa là tin nơi một Thiên Chúa duy nhất là Tình Thương (Xc 1 Ga 4,8): Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến, khi thời gian viên mãn, để cứu độ chúng ta; Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần thế trong mầu nhiệm cái chết và sống lại của Ngài; Chúa Thánh Linh dẫn đưa Giáo Hội qua dòng thời gian trong khi chờ đợi Chúa tái lâm trong vinh quang.

    2. Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ như Người Kế Vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc nhở về sự cần thiết phải tái khám phá hành trình đức tin để ngày càng làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say phấn khởi được đổi mới nhờ được gặp gỡ Chúa Giêsu. Trong bài giảng Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng, tôi đã nói: ”Giáo Hội nói chung và các vị Mục Tử trong Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, phải lên đường, để dẫn đưa con người ra khỏi sa mạc, tiến đến sự sống, hướng về tình bạn với Con Thiên Chúa, về Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn” (1). Nhưng xảy ra là nhiều khi các tín hữu Kitô bận tâm nhiều hơn tới những hậu quả xã hội, văn hóa và chính trị trong sự dấn thân của họ, họ tiếp tục nghĩ tới đức tin như một điều giả thiết hiển nhiên của cuộc sống chung. Trong thực tế, giả thiết ấy không còn hiển nhiên như vậy nữa, nhưng thậm chí nhiều khi còn bị phủ nhận (2). Trong quá khứ người ta có thể nhận ra một hệ thống văn hóa nhất thống, được đa số chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức tin và các giá trị được đức tin gợi hứng, nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội không còn như thế nữa, vì có cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều người.

    3. Chúng ta không thể chấp nhận để cho muối trở nên nhạt và ánh sáng bị che kín (Xc Mt 5,13-16). Cả con người ngày nay cũng có thể tái cảm thấy nhu cầu như người phụ nữ xứ Samaria đến giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy tin nơi Người và kín múc nơi nguồn mạch của Ngài vọt lên dòng nước sự sống (Xc Ga 4,14). Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo Hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Sự Sống, được trao ban để nâng đỡ các môn đệ của Chúa (Xc Ga 6,51). Thực vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ ngày nay như trước đây: ”Các con hãy cố gắng làm việc không phải để được lương thực mau qua, nhưng là lương thực tồn tại mãi mãi” (Ga 6,27). Câu hỏi mà những người nghe Chúa nêu lên cũng là thắc mắc đối với chúng ta ngày này: ”Chúng tôi phải làm gì thể thi hành những công việc của Thiên Chúa?” (Ga 6,28). Chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu: ”Công việc của Thiên Chúa là: Anh em hãy tin nơi Đấng mà Ngài đã sai đến” (Ga 6,29). Vì thế, tin nơi Chúa Giêsu Kitô là con đường để có thể đạt tới ơn cứu độ một cách vĩnh viễn.

    4. Dưới ánh sáng tất cả những điều đó, tôi quyết định ấn định Năm Đức Tin. Năm này sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng 10 năm 2012, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, và sẽ kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, ngày 24 tháng 11 năm 2013. Ngày 11-10-2012 chúng ta cũng kỷ niệm 20 năm ”Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo”, được vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 (3) công bố, với mục đích trình bày cho tất cả các tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin. Văn kiện này, thành quả đích thực của Công đồng chung Vatican 2, đã được Thượng HĐGM khóa đặc biệt năm 1985 mong ước như một dụng cụ để phục vụ việc huấn giáo (4) và được thực hiện với sự cộng tác của toàn thể hàng Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo. Và chính Thượng HĐGM đã được tôi triệu tập vào tháng 10 năm 2012 về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin Kitô”. Đó sẽ là một dịp thích hợp để dẫn đưa toàn thể cộng đoàn Giáo Hội tiến vào một thời điểm để đặc biệt suy tư và tái khám phá đức tin. Đây không phải lần đầu tiên Giáo Hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 cũng đã ấn định Năm Đức Tin như thế hồi năm 1967, để tưởng niệm 1900 năm cuộc tử đạo của thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ khi làm chứng tá tột đỉnh. Người đã nghĩ đến năm đó như một thời điểm long trọng để trong toàn thể Giáo Hội có ”một sự tuyên xưng cùng đức tin ấy một cách đích thực và chân thành”; ngoài ra, Người muốn rằng đức tin được củng cố ”cá nhân và tập thể, tự do và ý thức, trong nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” (5). Qua đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã nghĩ rằng toàn thể Giáo Hội có thể ”tái ý thức chính xác về đức tin của mình, để làm cho đức tin được tái sinh động, thanh tẩy, củng cố, để tuyên xứng đức tin” (6). Những đảo lộn lớn xảy ra trong năm Đức Tin ấy, càng làm cho sự cần thiết cử hành như thế trở nên hiển nhiên hơn. Việc cử hành Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với ”Bản tuyên xưng Đức Tin của Dân Chúa” (7), để làm chứng rằng các nội dung thiết yếu từ bao thế kỷ vốn là gia sản của mọi tín hữu, đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ để làm chứng tá hợp với cuộc sống trong những hoàn cảnh lịch sử khác với quá khứ.

    5. Dưới một số khía cạnh, vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi đã coi Năm Đức Tin ấy như ”một hệ luận và là một đòi hỏi sau Công đồng” (8), Ngài ý thức rõ về những khó khăn lớn của thời ấy, nhất là về việc tuyên xưng đức tin chân thực và giải thích đúng đắn. Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 có thể là một cơ hội thích hợp để hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị Phụ để lại như gia sản, ”không bị mất giá trị, cũng như vẻ tươi sáng”. Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội.. Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nêu cao Công đồng như ”hồng ân lớn lao mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20”: trong đó chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trong con đường của thế kỷ đang mở ra” (9). Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả quyết về Công đồng vài tháng sau khi tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng: ”Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết” (10).

    6. Sự canh tân Giáo Hội cũng tiến hành qua chứng tá cuộc sống của các tín hữu, qua chính cuộc sống giữa trần thế, các tín hữu được mời gọi làm cho Lời Chân lý mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta được chiếu sáng rạng ngời. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen gentium, Ánh sáng muôn dân, đã quả quyết: ”Trong khi Chúa Kitô, 'là đấng thánh, vô tội, không tỳ ố' (Dt 7,26) không hề biết tội (Xc 2 Cr 5,21), đã đến để đền tội bù tội lỗi của dân (Dt 2,17), thì Giáo Hội, có cả những người tội lỗi trong cộng đoàn của mình, và vì thế Giáo Hội vừa thánh thiện đồng thời cũng luôn cần được thanh tẩy, vẫn liên tục tiến bước trên con đường thống hối và canh tân. Giáo Hội ”tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan bao cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến (Xc 1 Cr 11,26). Từ sức mạnh của Chúa phục sinh, Giáo Hội kín múc năng lực để kiên trì và yêu thương khắc phục những sầu muộn và khó khăn, đến từ bên trong cũng như bên ngoài, và để tỏ lộ mầu nhiệm về Chúa, giữa lòng thế giới, một cách trung thực, tuy không hoàn hảo, cho đến khi mầu nhiệm ấy được tỏ lộ trong ánh sáng sung mãn vào cuối thời gian” (11).

    Trong viễn tượng đó, Năm Đức Tin là một lời mời gọi thực hiện một cuộc trở về cùng Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới, một cách chân thực và mới mẻ. Trong mầu nhiệm sự chết và sống lại, Thiên Chúa đã biểu lộ trọn vẹn Tình Thương cứu độ và kêu gọi con người hoán cải cuộc sống nhờ ơn tha thứ tội lỗi (Xc Cv 5,31). Đối với thánh Phaolô Tông Đồ, Tình Thương ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: ”Nhờ phép rửa, chúng ta cùng được chôn táng với Chúa trong cái chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, cả chúng ta cũng có thể bước đi trong sự sống mới” (Rm 6,4). Nhờ đức tin, sự sống mới này hình thành toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ tự nguyện sẵn sàng, các tư tưởng và tình cảm, tâm thức và thái độ của con người dần dần được thanh tẩy và biến đổi, trên con đường không bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức tin ”được năng động nhờ đức mến” (Gl 5,6) trở thành một tiêu chuẩn mới để hiểu biết và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống của con người (Xc Rm 12,2; Cl 3,9-10; Ep 4,20-29; 2 Cr 5,17).

    7. ”Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14): chính tình yêu Chúa Kitô làm đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên các nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Ngài cho mọi dân tộc trên trái đất (Xc Mt 28,19). Chúa Giêsu Kitô yêu thương, lôi kéo con người thuộc mọi thế hệ đến với Ngài: trong mọi thời đại, Ngài triệu tập Giáo Hội, ủy thác cho Giáo Hội việc loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay cũng cần có một sự dấn thân xác tín hơn nữa của Giáo Hội, thực hiện công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng để tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu - vốn là điều không thể thiếu - kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá hằng ngày tình yêu của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui. Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong niềm hy vọng và giúp mang lại một chứng tá có khả năng sinh sản: nó mở rộng tâm trí của những người lắng nghe và đón nhận lời Chúa mời gọi gắn bó với Lời Ngài để trở thành môn đệ của Ngài. Thánh Augustino làm chứng rằng các tín hữu ”trở nên vững mạnh hơn nhờ tin tưởng” (12). Thánh Giám Mục thành Hippone đã có lý khi nói như vậy. Như chúng ta biết, cuộc sống của thánh nhân là một cuộc không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp của đức tin cho đến khi tâm hồn ngài được nghỉ an trong Thiên Chúa (13). Nhiều tác phẩm của Người, trong đó có giải thích tầm quan trọng của đức tin và chân lý đức tin, cho đến nay vẫn còn là một gia sản phong phú khôn sánh và giúp bao nhiêu người tìm kiếm Thiên Chúa thấy được hành trình đúng đắn để tiến tới ”cánh cửa đức tin”.

    Vì vậy, chỉ nhờ tin tưởng mà đức tin tăng trưởng và vững mạnh; không có cách khác để đạt tới sự chắc chắn về chính cuộc sống của mình nếu không liên tục phó thác trong tay của một tình yêu ngày càng được cảm nghiệm lớn lao hơn vì bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.

    8. Trong dịp kỷ niệm tốt đẹp này, tôi muốn mời gọi các anh em GM trên toàn thế giới hãy hiệp với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng mà Chúa ban cho chúng ta, để tưởng niệm hồng ân đức tin quí giá. Chúng ta hãy cử hành Năm Đức Tin này một cách xứng đáng và phong phú. Cần gia tăng suy tư về đức tin để giúp tất cả các tín hữu của Chúa Kitô ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là trong lúc có những thay đổi sâu xa mà nhân loại đang trải qua như hiện nay. Chúng ta sẽ có dịp tuyên xưng đức tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa của chúng ta và các thánh đường trên toàn thế giới; trong các gia cư và gia đình chúng ta, để mỗi người mạnh mẽ cảm thấy nhu cầu cần biết rõ hơn về đức tin ngàn đời và thông truyền cho các thế hệ trẻ. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể các tổ chức Giáo Hội cũ cũng như mới, hãy tìm cách làm cho việc tuyên xưng Kinh Tin Kính một cách công khai trong Năm Đức Tin này.

    9. Chúng ta mong muốn rằng Năm Đức Tin khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thích hợp để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh Thể, vốn là 'tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng tới và đồng thời cũng là nguồn mạch từ đó phát sinh toàn thể năng lực của Giáo Hội” (14). Đồng thời, chúng ta mong muốn rằng cuộc sống chứng tá của các tín hữu tăng trưởng trong sự đáng tín nhiệm. Tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện (15), và suy tư về chính hành động đức tin, đó là một sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình, nhất là trong Năm Đức Tin này.

    Không phải tình cờ mà trong những thế kỷ đầu tiên, các tín hữu Kitô phải học thuộc lòng kinh Tin Kính. Kinh này được dùng như kinh nguyện hằng ngày của họ để không quên quyết tâm đã nhận khi chịu phép rửa. Với những lời xúc tích đầy ý nghĩa, thánh Augustino nhắc nhở điều đó khi ngài nói trong một bài giảng về việc trao Kinh Tinh Kính: ”Kinh Tin Kính về mầu nhiệm thánh mà tất cả anh chị em cùng nhận lãnh nhận và ngày nay anh chị em từng người đọc lên, là những lời đức tin của Mẹ Giáo Hội được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Chúa Kitô.. Vì vậy, anh em đã nhận lãnh và đọc Kinh ấy, nhưng trong tâm trí anh chị em phải luôn giữ cho Kinh ấy hiện diện, anh chị em phải lập lại Kinh này trên giường, nghĩ đến Kinh này nơi đường phố và đừng quên Kinh này khi ăn; cả khi anh chị em ngủ, con tim của anh chị em vẫn phải tỉnh thức trong Kinh này” (16).

    10. Đến đây, tôi muốn vạch ra một hành trình giúp hiểu một cách sâu xa hơn nội dung đức tin, nhưng cùng với nội dung này còn có hành động qua đó chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, trong tự do trọn vẹn. Thực vậy, có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào thực tại này khi ngài viết: ”Với con tim.. ta tin, và bằng miệng ta tuyên xưng đức tin” (Rm 10,10). Con tim chỉ rằng hình vi đầu tiên ta đạt đến đức tin la một hồng ân của Thiên Chúa và tác động của ơn thánh hành động và biến đổi con người ngay từ nội tâm.

    Tấm gương của bà Lidia về vấn đề này hùng hồn hơn bao giờ hết. Thánh Luca kể lại rằng Thánh Phaolô, trong lúc ở thành Philiphê, vào ngày thứ bẩy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số họ có bà Lidia và Chúa ”mở lòng cho bà tin lời thánh Phaolô” (Cv 16,14). Ý nghĩa cô đọng trong câu ngày thực là quan trọng. Thánh Luca dạy rằng việc hiểu biết nội dung đức tin không đủ nếu con tim, - vốn là cung thánh đích thực của con người,- không cởi mở đối với ơn thánh, giúp ta có đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu rằng điều được loan báo chính là Lời Chúa.

    Rồi việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm việc làm chứng và dấn thân công khai. Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài. Và thành ngữ ”ở với Chúa” giúp hiểu biết những lý do tại sao ta tin. Chính vì đức tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi hỏi một trách nhiệm xã hội về những gì ta tin. Giáo Hội, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, đã chứng tỏ rõ ràng chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mỗi người. Đó là một hồng ân của Chúa Thánh Linh làm cho ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng cố việc làm chứng tá của chúng ta, biến chứng tá ấy thành điều thẳng thắn và can đảm.

    Chính việc tuyên xưng đức tin là một hành vi bản thân và đồng thời cũng có tính chất cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của đức tin. Trong đức tin của cộng đoàn Kitô, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ hữu hiệu về sự gia nhập cộng đoàn các tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo làm chứng: ”Tôi tin”; là đức tin của Giáo hội được mỗi tín hữu tuyên xưng cá nhân, nhất là trong lúc chịu phép Rửa tội. ”Chúng tôi tin” là đức tin của Giáo hội được các Giám Mục họp nhau trong Công đồng, hoặc tổng quát hơn, được cộng đồng phụng vụ các tín hữu tuyên xưng. ”Tôi tin” cũng là Giáo Hội Mẹ chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức tin của mình và dạy chúng ta nói ”Tôi tin”, ”Chúng tôi tin” (17).

    Như ta có thể nhận xét, việc hiểu biết nội dung đức tin là điều thiết yếu để chấp nhận tin, nghĩa là hoàn toàn gắn bó trong tâm trí với những gì Giáo Hội đề nghị. Việc hiểu biết đức tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mạc khải. Vì vậy sự chấp nhận ấy được biểu lộ bao hàm điều này là, khi ta tin, ta tự nguyện chấp nhất toàn thể mầu nhiệm đức tin, vì vị bảo đảm tính chất xác thực của điều ta tin là chính Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải và cho phép được biết mầu nhiệm tình thương của Ngài (18).

    Đàng khác, chúng ta không thể quên rằng trong bối cảnh văn hóa của chúng ta ngày nay, bao nhiêu người, tuy không nhìn nhận hồng ân đức tin nơi mình, nhưng họ chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới. Sự tìm kiếm này thực là một ”tiền đề” của đức tin, vì nó thúc đẩy con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Thực thế, chính lý trí con người mang trong mình một đòi hỏi về ”điều có giá trị và tồn tại mãi mãi” (19). Đòi hỏi ấy là một lời mời gọi trường kỳ, được ghi khắc không hề phai mờ trong tâm hồn con người, kêu gọi con người lên đường để tìm thấy Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Ngài đã không đến gặp chúng ta (20). Chính đức tin mời chúng ta đi tới cuộc gặp gỡ ấy và mở cho chúng ta sự viên mãn.

    11. Để hiểu biết một cách hệ thống về nội dung đức tin, tất cả mọi người đều có thể tìm thấy trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo một trợ lực quí giá và không thể thiếu được. Sách này là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công Đồng chung Vatican 2. Trong Tông Hiến ”Fidei depositum” (Kho tàng đức tin), không phải tình cờ được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Sách Giáo lý nà sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công trình canh tân toàn thể đời sống Giáo Hội.. Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục vụ tình hiệp thông của Giáo Hội và như một qui luật chắc chắn để giảng dạy đức tin” (21).

    Trong viễn tượng đó, Năm Đức Tin phải biểu lộ sự dấn thân chung tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức tin ở trong Sách Giáo Lý này, trong đó có một tổng hợp có hệ thống. Thực vậy, ở đây, ta thấy nổi bật sự phong phú của giáo huấn mà Giáo Hội đã đón nhận, gìn giữ và trao tặng trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh Thánh tới các Giáo Phụ, từ các vị Tôn Sư thần học cho đến cách Thánh qua các thế kỷ, Sách Giáo Lý cống hiến một ký ức trường kỳ về bao nhiêu cách thức Giáo Hội suy niệm về đức tin và tạo nên sự tiến triển trong đạo lý để mang lại sự chắc chắn cho các tín hữu trong đời sống đức tin của họ.

    Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, qua cấu trúc của mình, trình bày sự phát triển đức tin và đề cập đến cả những đề tài chính của đời sống hằng ngày. Trang này sang trang khác, chúng ta khám phá thấy rằng điều được trình bày trong Sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với Đấng sống trong Giáo Hội. Thực vậy, sau khi tuyên xưng đức tin, Sách này đi đến phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên xưng đức tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ơn thánh nâng đỡ chứng tá của các tín hữu Kitô. Cũng vậy, giáo huấn của Sách Giáo Lý về đời sống luân lý có một ý nghĩa quan trọng nếu được đặt trong tương quan với đức tin, phụng vụ và kinh nguyện.

    12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo có thể là một dụng cụ đích thực nâng đỡ đức tin, nhất là những người quan tâm đến việc huấn luyện các tín hữu Kitô, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích đó, tôi đã mời gọi Bộ giáo lý đức tin, thỏa thuận với các Cơ quan trung ương khác của Tòa Thánh, soạn một Văn kiện, để cống hiến cho Giáo Hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ sự tin tưởng và rao giảng Tin Mừng.

    ”Thực vậy, so với quá khứ, đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là ngày nay não trạng này thu hẹp lãnh vực những điều chắc chắn hợp lý vào lãnh vực những chinh phục của khoa học và kỹ thuật. Nhưng Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự thật, tuy là bằng những con đường khác nhau (22).

    13. Một điều quan trọng trong Năm Đức tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp tất cả mọi người.

    Trong thời điểm này, chúng ta hãy luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, ”là nguồn gốc và là tận điểm của đức tin” (Dt 12,2): nơi Ngài mọi sóng gió và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui của tình yêu, lời đáp trả thảm trạng đau khổ, sức mạnh của tha thứ trước sự xúc phạm phải chịu, và chiến thắng của sự sống trước cái trống rỗng của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng sự phục sinh của Ngài. Trong Ngài, là Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta, những tấm gương đức tin được tràn đầy ánh sáng, những tấm gương đã ghi dấu 2 ngàn năm lịch sử cứu độ chúng ta.

    Nhờ đức tin Mẹ Maria đã đón nhận lời thiên thần và tin nơi lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa trong sự tuân phục tận tụy của Mẹ (Xc Lc 1,38). Khi viếng thăm bà Elisabeth, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài (Xc Lc 1,46-55). Mẹ vui mừng và hồi hộp sinh hạ Con duy nhất, mà vẫn giữ nguyên sự đồng trinh (...) (Xc Lc 2,6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse hôn phu, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (Xc Mt 2,13-15). Với cùng đức tin Mẹ theo Chúa trong thời gian giảng đạo và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgota (Xc Ga 19,25-27). Với đức tin, Mẹ Maria niếm hưởng những thành quả đầu tiên của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và cẩn giữ mọi kỷ niệm trong lòng (Xc Lc 2,19.51), Mẹ thông truyền kỷ niệm ấy cho 12 Tông Đồ tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc Ly để lãnh nhận Thánh Linh.

    Nhờ đức tin, các Tông Đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (Xc Mc 10,28). Các vị tin nơi lời Chúa loan báo Nước Trời hiện diện và thể hiện nơi bản thân Ngài (Xc Lc 11,20. Các Tông đồ sống hiệp thông với Chúa Giêsu Đấng dạy dỗ các vị qua lời giáo huấn, để lại cho các vị qui luật sống mới mẻ qua đó người ta nhận ra họ là môn đệ của Ngài sau khi Ngài qua đời (Cx Ga 13,34-35). Nhờ đức tin, các vị đi các nơi trên thế giới, theo mệnh lệnh mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xc Mc 16,15) và không chút sợ hãi, các vị loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà các vị đã chứng kiến.

    Nhờ đức tin các môn đệ họp thành cộng đoàn đầu tiên, tụ tập quanh giáo huấn của các Tông Đồ, trong kinh nguyện, trong việc cử hành Thánh Thể, để làm của chung những gì họ sở hữu để cứu giúp những anh chị em túng thiếu (Xc Cv 2,42-47).

    Nhờ đức tin các vị tử đạo hiến mạng sống của mình để làm chứng về chân lý Phúc Âm đã biến cải và làm cho họ có khả năng đi tới hồng ân tính yêu lớn nhất với việc tha thứ cho những kẻ bách hại họ.

    Nhờ đức tin những người nam nữ đã dâng hiến cuộc sống mình cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống, trong sự đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, sự vâng phục, thanh bần và khiết tịnh, những dấu chỉ cụ thể về sự chờ đợi Chúa sắp đến. Nhờ đức tin bao nhiêu Kitô hữu đã thăng tiến những hoạt động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến để loan báo sự giải thoát khỏi sự áp bức và năm hồng ân cho mọi người (Cx Lc 4,18-19).

    Nhờ đức tin qua các thế kỷ, những người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi, và tên họ được ghi trong Sách Sự Sống (Xc Kh 7,9; 13,8), đã tuyên xưng vẻ đẹp của sự theo Chúa Giêsu tại nơi họ được kêu gọi làm chứng về cuộc sống Kitô của họ: trong gia đình, nghề nghiệp, trong đời sống công khai, trong việc thi hành các đoàn sủng và sứ vụ mà họ được kêu gọi thi hành.

    Nhờ đức tin cả chúng ta cũng đang sống: để nhìn nhận Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong lịch sử.

    14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: ”Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: ”Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: ”Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: ”Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).

    Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. ”Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi ”trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13; Xc Kh 21,1).

    15. Vào cuối đời, thánh Phaolô tông đồ yêu cầu môn đệ Timôthê hãy ”tìm kiếm đức tin” (Xc 1 Tm 2,22), với cùng một sự bền chí như hồi còn nhỏ (Xc 2 Tm 3,15). Chúng ta cảm thấy lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta, để không ai trong chúng ta trở nên lười biếng trong đức tin. Đức tin là bạn đồng hành trong cuộc sống, giúp nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta. Đức tin nhắm đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử, và thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng tá đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng trong tâm trí, có khả năng mở tâm trí của bao nhiêu người mong ước Thiên Chúa và sự sống chân thực, sự sống không tàn lụi.

    ”Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình và được tôn vinh” (2 Ts 3,1): ước gì Năm Đức Tin này làm cho quan hệ với Chúa Kitô ngày càng vững chắc hơn, vì chỉ trong Ngài mới có sự chắc chắn để hướng nhìn về tương lai và bảo đảm một tình yêu chân thực và lâu bền. Những lời thánh Phêrô Tông đồ chiếu dọi một tia sáng cuối cùng trên đức tin: ”Vì thế, anh chị em tràn đầy vui mừng, cho dù hiện nay anh chị em còn phải chịu ưu sầu ít lâu, bị nhiều thử thách, để đức tin của anh chị em được tôi luyện, quí hơn vàng, vàng là thứ sẽ phải hư nát mà còn được thanh luyện bằng lửa, mang lại lời ngợi khen, vinh quang và vinh dự cho anh em khi Chúa Giêsu Kitô tỏ hiện. Tuy không thấy Ngài, nhưng anh chị em vẫn yêu mến Ngài, và tuy không thấy Ngài, anh chị em vẫn tin nơi Ngài. Vì thế, anh chị em hãy vui mừng khôn tả và vinh quang, trong khi đạt tới mục đích đức tin của anh chị em là ơn cứu độ các linh hồn” (1 Pr 1,6-9). Cuộc sống của các tín hữu Kitô cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Bao nhiêu vị thánh đã sống nỗi cô đơn! Bao nhiêu tín hữu, kể cả ngày nay, bị thử thách vì sự im lặng của Thiên chúa trong khi họ muốn nghe lời an ủi của Ngài! Những thử thách của cuộc sống, trong khi giúp hiểu mầu nhiệm Thập Giá, và tham gia vào đau khổ của Chúa Kitô (Xc Cl 1,24), là tiền đề báo trước niềm vui và hy vọng mà đức tin dẫn đến: ”Khi tôi yếu đuối, đó là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cr 12,10). Chúng ta mạnh mẽ tin chắc rằng Chúa Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Với niềm tín thác chắc chắn ấy, chúng ta tín thác nơi Ngài: Chúa hiện diện giữa chúng ta, chiến thắng quyền lực của ác thần (Xc Lc 11,20) và Giáo Hội, cộng đồng hữu hình của lòng từ bi Chúa, ở lại trong Chúa như dấu hiệu hòa giải chung kết với Chúa Cha.

    Chúng ta hãy phó thác thời điểm hồng phúc này cho Mẹ Thiên Chúa, được tuyên xưng là ”người có phúc” vì Mẹ 'đã tin' (Lc 1,45).

    Ban hành tại Roma, nơi Thánh Phêrô, ngày 11 tháng 10 năm 2011, năm thứ 7 triều đại Giáo Hoàng.

    Biển Đức 16, Giáo Hoàng

    G. Trần Đức Anh OP chuyển ý từ nguyên bản tiếng Ý
    www.giaophankontum.com
    Chữ ký của hongbinh
    Đạm bạc dĩ minh chí
    Ninh tĩnh nhi chí viễn

  4. Có 4 người cám ơn hongbinh vì bài này:


  5. #3
    hongbinh's Avatar

    Tham gia ngày: Sep 2010
    Tên Thánh: Gioan Baotixita
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Gx Thổ Hoàng
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 7,378
    Cám ơn
    9,536
    Được cám ơn 28,019 lần trong 5,096 bài viết

    Default

    Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin” và Việc Canh Tân Đức Tin


    I. DẪN NHẬP

    Loan báo Năm đức tin là một biến cố thách thức toàn thể Giáo Hội, kêu gọi liên tục khám phá và canh tân việc tuyên xưng đức tin trong bối cảnh văn hoá xã hội hiện nay và trước một Kitô giáo bị tục hoá nặng nề. Trong Tự sắc “Cánh cửa đức tin”, Đức Bênêđictô XVI nhận xét rằng: “Trong quá khứ người ta có thể nhận ra một hệ thống văn hóa nhất thống, được đa số chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức tin và các giá trị được đức tin gợi hứng, nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội không còn như thế nữa, vì có cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều người”[1].

    Chính vì thế, với mục tiêu đào sâu những nền tảng thần học, thiêng liêng và mục vụ của đức tin Công giáo, sau năm Thánh Phaolô và Năm Linh Mục, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin bắt đầu từ ngày 11/10/2012 và kết thúc vào ngày 24/11/2013, lễ Kitô Vua. Ngày mở đầu Năm Đức Tin không phải là một chọn lựa ngẫu nhiên. Ngày 11/12/2012 là ngày kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, mời gọi chúng ta tiếp tục đào sâu và suy tư những văn kiện Công Đồng. Đây cũng là ngày kỷ niệm 20 năm ban hành sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, một bộ sách trung thành với Công Đồng, nói lên đức tin của người Công Giáo cách đầy đủ, mạch lạc và rõ ràng nhất. Ngày khai mạc Năm Đức Tin cũng nằm trong thời gian Thượng Hội Đồng Giám Mục họp về đề tài: “Tân Phúc Âm hoá” được tổ chức ở Roma từ ngày 7 đến 28/10/2012, là dịp để những xứ đã được đón nhận Tin Mừng đào sâu đức tin trong một thế giới ngày càng không biết đến Chúa, một thế giới mà Đức Bênêđictô XVI gọi là «éclipse de Dieu», “Thiên thực”, nghĩa là Thiên Chúa đã biến mất vì bị che khuất như mặt trời trong ngày nhật thực hay mặt trăng trong ngày nguyệt thực: “Trong xã hội hiện nay, chúng ta phải nhìn nhận có một thứ “Thiên thực” nào đấy, một chứng bệnh mất trí nhớ nào đấy hay hơn thế nữa đó là sự phủ nhận Kitô giáo, sự từ chối kho tàng đức tin đã lãnh nhận làm cho chúng ta đánh mất những đặc tính sâu xa nhất của chúng ta”[2].

    Trong bối cảnh này, canh tân đức tin là điều cần thiết. Tuy nhiên, việc canh tân cần phải có một định hướng rõ ràng để khỏi bị lạc hướng như lịch sử Giáo Hội đã từng cho thấy. Chính vì thế mà Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra một đường hướng rõ ràng: giải thích đúng giáo huấn của Giáo Hội trong sự nối tiếp với truyền thống.

    II. BỐI CẢNH CỦA TIÊU ĐỀ TỰ SẮC: “CÁNH CỬA ĐỨC TIN” (Cv 14, 27)

    “Khi tới nơi, hai ông tập họp Giáo Hội và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cùng với hai ông, và việc Người đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại như thế nào” (Cv 14, 27)

    Hai năm trước, Giáo Hội ở Antiokia đã uỷ thác cho Thánh Phaolô và Barnaba đi truyền giáo. Mối liên hệ giữa Thánh Phaolô và Barnaba với Giáo Hội Antiokia khá phức tạp. Trước đây họ được Giáo Hội này sai đi truyền giáo, nhưng giờ đây họ thi hành quyền lãnh đạo bằng cách tụ tập mọi người lại để nghe báo cáo (sau khi các ngài đã qua các tỉnh thành xứ Pisidia, Pamphylia và Perga; cf. Cv 13, 13-14). Lưu ý rằng Thánh Luca dùng từ Hy Lạp ekklēsia (εκκλησία) để chỉ một Giáo Hội tổng thể, nghĩa là toàn thể Kitô hữu (cf. 1 Cr 14, 4), chứ không phải một vài cá nhân hoặc vài giáo hội tại gia. Ở đây nói lên tính thống nhất của Giáo Hội, và cả tính liên đới của các giáo hội địa phương với nhau vì những Kitô hữu ở Antiokia muốn nghe nói về việc bành trướng những giáo hội giống như mình ở các nơi khác. Thánh Luca dùng động từ “kể lại” ở thì chưa hoàn thành (imparfait), điều đó muốn nói lên rằng câu chuyện của các ngài dài lắm, không thể kể hết chỉ trong một ngày một buổi. Thêm vào đó, Luca còn nói rằng các ngài thuật lại tất cả những gì đã làm, nghĩa là thuật lại chi tiết đường đi nước bước để đem Tin Mừng đến với dân ngoại. Và khi mọi người đã tụ tập lại, các ngài thuật lại không phải công trình của các ngài mà là những việc Thiên Chúa đã làm qua bàn tay của họ. Đây là lối nói mà các Tông Đồ thường dùng[3].

    Điều Thiên Chúa cùng làm với Thánh Phaolô và Barnaba được khẳng định trong câu cuối cùng, muốn nói đến sự trở lại của dân ngoại: Thiên Chúa đã mở cho dân ngoại “cánh cửa đức tin”. Thành ngữ “mở cửa” có lẽ là một trong những lối nói yêu thích của Thánh Phaolô. Trong các thư, ít nhất ngài đã sử dụng 3 lần[4]. Qua “cánh cửa” này giờ đây dân ngoại có thể bước vào ngôi nhà của đức tin và trở nên thành viên của gia đình Thiên Chúa.

    Theo nguyên bản, “Cánh cửa đức tin” (θύραν πίστεως) là hai danh từ đi liền kề với nhau. Khi phân tích từ ngữ ta mới có thể thấy hết ý nghĩa thâm sâu của hai từ này bởi vì khi đi cạnh nhau chúng không đơn giản chỉ có một ý nghĩa. Từ sở hữu (génitif) πίστεως - đức tin - có thể được hiểu theo nghĩa là đối tượng (cánh cửa dẫn tới đức tin) hoặc chủ thể (cánh cửa nơi đức tin đi vào). Một cách hiểu thứ ba nữa là "đức tin" là sở hữu từ chỉ chất liệu, có nghĩa là cánh cửa (đi vào ơn cứu độ) là đức tin. Không cần phải xác định kiểu dịch nào là chính xác nhất, chỉ cần hiểu rằng ở đây Thánh sử Luca muốn nói đến điều ngài đã viết ở Cv 11, 18: dân ngoại có thể hoán cải và được sống. Họ có thể tin và nhờ đó có thể nhận lãnh mọi phúc lành mà đức tin mang lại, nghĩa là cánh cửa đức tin đã mở ra cho họ, chào đón họ và nhờ đó họ có thể là người Kitô hữu. Muôn dân có thể vào được Nước Trời (cf. Cv 11, 28; 13, 47-48; 14, 22). Tóm lại, câu: “Người đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại như thế nào” thật quan trọng vì nó nói lên rằng: (a) Tin Mừng đã được mở ra cho dân ngoại. (b) Đây là một sứ điệp muốn loan báo rằng một thời mới đã mở ra, con người được công chính hoá “bởi đức tin” chứ không phải bởi việc làm của Lề Luật (Do thái giáo). (c) và điều quan trọng là chính Thiên Chúa đã mở ra cánh cửa đức tin ấy.

    III. ĐỨC TIN

    1. Sự tìm kiếm đầy thiện chí của những người không tin

    “Đàng khác, chúng ta không thể quên rằng trong bối cảnh văn hóa của chúng ta ngày nay, bao nhiêu người, tuy không nhìn nhận hồng ân đức tin nơi mình, nhưng họ chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới”. Sự tìm kiếm này thực là một “tiền đề” của đức tin, vì nó thúc đẩy con người trên con đường dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Thực thế, chính lý trí con người mang trong mình một đòi hỏi về “điều có giá trị và tồn tại mãi mãi”[5]

    Đức Bênêđictô XVI luôn đề cao lý trí của con người trong việc tìm kiếm chân lý. Năm 1999 tại Sorbonne, khi còn là Hồng Y Joseph Ratzinger, ngài đã giải thích rằng khi các tác giả Kitô giáo thời kỳ đầu tiên trình bày tôn giáo của mình cho dân ngoại, họ đã sử dụng triết học (ví dụ Logos của Thánh Gioan), chứ không dùng những thần thoại hay những phạm trù tôn giáo của các tôn giáo ngoại giáo đó. Tại sao? Tại vì các tôn giáo của người ngoại giáo dù sao cũng không thoát khỏi tầm suy nghĩ của con người, trong khi triết học là một cuộc tìm kiếm chân lý gắt gao, vượt lên trên những gì thuần tuý của con người. Thiên Chúa của mạc khải luôn là một chân lý đỉnh cao và đức tin Kitô giáo giúp con người đi vào trong cuộc tìm kiếm đó. Thánh Giustinô vào thế kỷ thứ II đã không ngần ngại gọi Kitô giáo là một triết học chân chính.

    Sự vĩ đại của lý trí là tìm kiếm chân lý. Chân lý chỉ được tìm thấy qua tự do tìm kiếm, trao đổi và đối thoại, trong bầu khí tôn trọng. Chính Giáo Hội có nhiệm vụ “luôn giữ được cảm tính sống động với chân lý” và “luôn mời gọi lý trí tìm kiếm cái chân, cái thiện, và Thiên Chúa”[6]. Và “Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự thật, tuy là bằng những con đường khác nhau”[7]

    Chính vì thế mà Đức Thánh Cha đã có sáng kiến tổ chức những “Sân Dân Ngoại”[8] để những người thiện chí có thể bước qua ngưỡng cửa đã rộng mở của đức tin và mở ra những cuộc đối thoại dành cho những người không tin trên con đường “tìm kiếm điều có giá trị và tồn tại mãi mãi”[9].

    2. “Hành trình đức tin”của người tín hữu

    Đức tin có hai chiều kích luôn đồng hành với nhau: chiều kích khách thể (nội dung đức tin) và chiều kích chủ thể (hành động đức tin). Sự kết hợp giữa hai chiều kích này đã được Đức Bênêđictô nói rõ: “Có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận”[10]. Và Ngài đã dùng một kiểu nói để diễn tả sự kết hợp này: “Hành trình đức tin”[11]

    Ý nghĩa chính của “đức tin” là nội dung những điều phải tin, nhưng khi kết hợp với “hành trình” thì nó không còn đơn thuần để chỉ một nội dung bất di bất dịch nữa mà chuyển sang hành động. Nói đến “hành trình” là nói đến sự chuyển dịch, rời bỏ một nơi này để tìm đến một nơi khác. Như thế, hành trình đức tin là hành động của một cá nhân đi tìm hiểu và yêu mến Đấng là nội dung của đức tin. Và nội dung đức tin này đòi hỏi được tuyên xưng, được biểu lộ ra bên ngoài bằng những việc làm cụ thể như chính Đức Bênêđictô XVI nói:. “Chúng ta mong muốn rằng cuộc sống chứng tá của các tín hữu tăng trưởng trong sự đáng tín nhiệm. Tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu nguyện, và suy tư về chính hành động đức tin, đó là một sự quyết tâm mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình, nhất là trong Năm Đức Tin này”[12]. Và “Việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức tin bao gồm việc làm chứng và dấn thân công khai. Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài. Và thành ngữ “ở với Chúa” giúp hiểu biết những lý do tại sao ta tin”[13]

    IV. CANH TÂN ĐỨC TIN TRONG SỰ TIẾP NỐI VỚI TRUYỀN THỐNG

    1. Năm Đức Tin 1967 và “Bản tuyên xưng đức tin của Dân Chúa” năm 1968

    Không phải ngẫu nhiên mà trong Tự sắc “Porta fidei”, Đức Bênêđictô nhắc đến Năm Đức Tin 1967 và “Bản tuyên xưng đức tin của Dân Chúa” (Credo du Peuple de Dieu) của Đức Phaolô VI ban hành ngày 30 tháng 6 năm 1968. Đây có lẽ một trong những kinh Tin Kính mà chúng ta ít biết đến nhất. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã công bố “Kinh Tin Kính của Dân Chúa” như là một bản khác của kinh Tin Kính Nicée thời hậu Công Đồng Vatican II. Bản kinh này tóm tắt trọn vẹn đức tin Công giáo đáng được quan tâm. Trong Tông thư “Solemni Hac Liturgia” kèm theo bản kinh Tin Kính, Đức Phaolô VI viết rằng: “Bản kinh cơ bản lập lại những điều đã có trong kinh Tin Kính Nicée là kinh Tin Kính của truyền thống bất tử trong Giáo Hội, nhưng có vài thay đổi cho phù hợp theo đòi hỏi thiêng liêng trong thời đại chúng ta”.

    Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI, kinh Tin Kính ra đời là do “có nhiều bất ổn về niềm tin đang khuấy động”, “ảnh hưởng của một thế giới đang thay đổi sâu xa mà trong đó nhiều điều chắc chắn đang bị phản bác hay bàn thảo”, “ngay cả người Công giáo cũng bị thao túng do hấp lực muốn thay đổi và tìm những điều mới mẻ”, và “do có nhiều rối loạn và biến động trong tâm khảm của nhiều tín hữu”.

    Biến động dữ dội nào mà Đức Thánh Cha Phaolô VI nhắc đến? Thực ra, Ngài thấy bất ổn vì những quan điểm của bộ “Tân Giáo Lý” (Nieuwe Katechismus) bằng tiếng Hoà Lan xuất bản năm 1966, gọi tắt là Giáo Lý Hoà Lan, đã được các giám mục Hoà Lan chuẩn y với “imprimatur » của Đức Hồng Y Alfrink. Đức Phaolô VI quyết định cần phải phản ứng lại và giao cho nhà thần học và triết học người Pháp là Jacques Maritain soạn bản thảo của kinh Tin Kính để trả lời tất cả những nghi ngờ của bộ Giáo lý Hoà Lan cũng như của các nhà thần học về các vấn đề tín lý như tội nguyên tổ, hy tế Thánh lễ, sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, sáng tạo từ hư vô, quyền tối thượng của Thánh Phêrô, sự đồng trinh của Đức Maria, thụ thai trinh khiết và Thăng Thiên… Trong phần dẫn nhập, Đức Thánh Cha Phaolô VI viết: “Chúng tôi muốn bản kinh Tin Kính này hoàn hảo và rõ ràng ở mức độ cao nhất để có thể đáp ứng cách thích hợp cho nhu cầu tìm kiếm ánh sáng của nhiều tâm hồn tín hữu, của nhiều người trên khắp thế giới muốn tìm kiếm Chân lý, dầu thuộc gia đình thiêng liêng nào”.

    Một uỷ ban do Đức Phaolô VI lập để đánh giá bộ Giáo Lý này đã cáo buộc rằng: “Nó muốn thay đổi quan điểm chính thống trong Giáo Hội, muốn một quan điểm chính thống hiện đại thay vì truyền thống”. Có đến 20 luận điểm sai lầm trong bộ Giáo Lý có thể được gọi là “lạc giáo”, dầu rằng đây là một từ đã được xoá bỏ trong từ vựng của Giáo Hội kể từ sau Công Đồng Vatican II.

    Trong số những điều bị phê bình, Giáo Lý Hoà Lan khẳng định rằng không có những luật luân lý phổ quát áp đặt trên mọi người, phủ nhận thực tại thiêng liêng và thể lý của việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh. Giáo lý Hoà Lan đề nghị rằng chỉ cần có lương tâm tốt là đủ không cần 10 điều răn nữa bởi vì: “Luật lệ là nguyên tắc chính xác, không thể dự đoán tất cả mọi tình huống. Có những trường hợp mà người ta phải làm nhiều hơn hoặc ít hơn những gì mà luật lệ đòi buộc. Lương tâm, với bản năng biết những gì là thiện hảo và không thể để mình được hướng dẫn bởi chữ nghĩa của lề luật. Ngay cả có đôi lúc phải thoát khỏi lề luật để xác định những giá trị luân lý tối thượng trong vài trường hợp nào đó”.

    Không thể phủ nhận thiện chí bộ Giáo Lý Hoà Lan, muốn trình bày đức tin một cách rõ ràng cho người thời đại mình, nhưng những gì mà nó trình bày đã đi ra ngoài truyền thống của Giáo Hội.

    2. Giải thích đúng (un juste herméneutique)

    Một lần nữa, chủ đề canh tân nội dung đức tin đã thành sức mạnh trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Bênêđictô XVI khi nói rằng “các nội dung thiết yếu từ bao thế kỷ vốn là gia sản của mọi tín hữu, đang cần được củng cố, hiểu biết và đào sâu một cách ngày càng mới mẻ để làm chứng tá hợp với cuộc sống trong những hoàn cảnh lịch sử khác với quá khứ”[14].

    Nhưng không phải bất kỳ sự canh tân nào mà phải là canh tân trong sự tiếp nối chứ không chia lìa với truyền thống. Ngài khẳng định ngay sau đó rằng: “Tôi cũng muốn mạnh mẽ lập lại điều tôi đã quả quyết về Công đồng vài tháng sau khi tôi được bầu kế vị Thánh Phêrô, rằng: ‘Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng có thể và trở thành sức mạnh lớn để thực hiện sự canh tân Giáo Hội ngày càng cần thiết’”[15]

    Giải thích đúng đắn là gì? Herméneutique[16] là một nguyên tắc giải thích, nhìn và lượng định một sự việc, một bản văn như thế nào. Chúng ta phải nhìn Vatican II qua lăng kính đúng. Đức Thánh Cha cho rằng “lối giải thích gián đoạn và cắt đứt” (herméneutique de la discontinuité et de la rupture) đã phân chia Giáo Hội thành hai: Giáo Hội tiền Công Đồng và Giáo Hội hậu Công Đồng. Theo hình mẫu này, Giáo Hội hậu Công Đồng cho rằng mình nắm giữ được “tinh thần” của Vatican II, duyệt xét lại các giáo huấn, thực hành và cấu trúc của Giáo Hội để làm cho chúng trở nên thích ứng với thời đại (modernisme - duy tân thuyết, thần học giải phóng, thần học nữ quyền, gần đây là phong trào “L'appel à la désobéissance” của các linh mục Áo[17], vv…). Trái lại một số khuynh hướng khác đã phản ứng lại với việc suy giảm đức tin và những xáo trộn do áp dụng bừa bãi khuynh hướng trên, đã đi theo hướng ngược lại là trở về cách trung thành với Giáo Hội tiền Công Đồng (sự kiện nhóm của Đức Giám Mục Marcel Lefèbvre, hội Piô X của nhóm Duy Truyền thống - Traditionalisme, vv…).

    Cả hai khuynh hướng trên – cấp tiến và truyền thống – đều giải thích sai lạc. Phái cấp tiến muốn loại bỏ những điều họ không ưa thích và đưa ra những quan điểm mới mẻ theo ý thức hệ của riêng mình trong khi phái bảo thủ nhìn việc cắt đứt với quá khứ là một thảm hoạ không mang lại lợi lộc gì.

    Chính vì thế, muốn hiểu Vatican II thì Đức Giáo Hoàng đòi hỏi chúng ta phải có một lối giải thích đúng, nhìn nhận bản văn của Công Đồng Vatican II như là những văn bản chuẩn mực trong truyền thống của Giáo Hội” “Cần đọc các văn kiện ấy một cách thích hợp, cần biết rõ và hấp thụ các văn kiện ấy như những văn bản giá trị và có tính chất qui phạm của Huấn Quyền Hội Thánh, giữa lòng Truyền Thống của Giáo Hội”[18]. Đây là giải thích đúng tránh được các khuynh hướng “sáng tạo” và “ngờ vực” khi tiếp cận với Công Đồng. Ngài mời gọi chúng ta giữ lấy sự nối tiếp cần thiết và các giáo huấn truyền thống trong Giáo Hội, và đồng thời cũng phải canh tân. Dù sao, Đức Kitô vẫn luôn là một cho dù là “hôm qua, hôm nay hoặc mãi mãi” (Dt 13, 8) nhưng đồng thời Ngài cũng tiếp tục “làm mới mọi sự” (Kh 21, 5). Sống đức tin Kitô giáo là sống mâu thuẫn này.

    Sự đối lập này – tiếp nối và đứt đoạn – đã trở thành chủ đề trong nhiều phát biểu của Đức Bênêđictô XVI và là chìa khoá để hiểu tư tưởng của Ngài. Chắc hẳn rằng chiều hướng về nguồn trong cải cách phụng vụ gần đây cũng nằm trong chiều hướng này. Trở về với nghi lễ Trentô, sử dụng tiếng Latinh, cổ vũ việc rước lễ bằng miệng, rõ ràng là những dấu hiệu mà Ngài muốn nói rằng không nên từ bỏ Giáo Hội tiền Công Đồng và các kho tàng phụng vụ của nó vẫn còn có giá trị lớn lao. Ngài cổ vũ một lối giải thích đúng, là “một lối giải thích canh tân trong sự tiếp nối” (herméneutique de la réforme dans la continuité), nghĩa là canh tân trong sự tiếp nối với cùng một Giáo Hội mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. “Giáo Hội là chủ thể tăng trưởng với thời gian và phát triển, song vẫn luôn là một Giáo Hội, một chủ thể hướng dẫn Dân Chúa”[19]

    V. KẾT LUẬN

    Thật ý nghĩa khi trong hành trình đức tin này, Đức Bênêđictô XVI đã chọn thánh Augustinô, một người có thể nói một cách đặc biệt thuyết phục với con người ngày nay. Họ là những bản sao của Augustinô thời trẻ. Đối với chàng trai trẻ Augustinô thì tự do và hạnh phúc (lạc thú) là những mục đích chính trong đời mà chàng cất công tìm kiếm. Augustinô tìm kiếm đối tượng cho khát vọng tình yêu của mình nhưng không bao giờ thoả mãn. Ngài say mê nghiên cứu thơ Virgile, thuật hùng biện của Cicéron, xem Kinh Thánh là bộ sưu tập những mẫu chuyện phi lý dành cho người mê muội. Tâm hồn ngài luôn vươn lên để tìm cái chân thiện mỹ. Và như Cha Teilhard de Chardin đã nói “Tout ce qui monte converge” (Tất cả những gì vươn lên cao thì hội tụ[20]). Khát vọng truy tìm của ngài đã chạm đến Đức Kitô của đức tin Kitô giáo. Điểm hẹn trên cao của cuộc hành trình này là đức tin vào Đức Kitô mà Augustinô đã dành hết phần đời còn lại của mình để làm chứng. “Thánh Augustinô làm chứng rằng các tín hữu ‘trở nên vững mạnh hơn nhờ tin tưởng’.… cuộc sống của thánh nhân là một cuộc không ngừng tìm kiếm vẻ đẹp của đức tin cho đến khi tâm hồn ngài được nghỉ an trong Thiên Chúa. Nhiều tác phẩm của Người, trong đó có giải thích tầm quan trọng của đức tin và chân lý đức tin, cho đến nay vẫn còn là một gia sản phong phú khôn sánh và giúp bao nhiêu người tìm kiếm Thiên Chúa thấy được hành trình đúng đắn để tiến tới ‘cánh cửa đức tin’”[21]. Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đã kéo Thánh Augustinô ra khỏi vũng lầy loay hoay của cuộc tìm kiếm đức tin và dẫn đưa ngài đến nguồn sự sống. Đó cũng là bổn phận của Giáo Hội ngày hôm nay đối với “những người chân thành tìm kiếm ý nghĩa chung kết và chân lý chung cục về cuộc sống của họ và về thế giới”.

    Tự sắc Cánh Cửa Đức Tin là tấm hải đồ để điều khiển con thuyền Giáo Hội đi đúng hướng trên “hành trình đức tin”. Tái khám phá đức tin cho chính mình bằng việc canh tân trong sự nối tiếp với truyền thống Giáo Hội và Tân Phúc Âm hoá cho người thời đại: đó là nhiệm vụ kép và bất khả phân ly mà Đức Bênêđictô XVI đề nghị cho chúng ta trong Năm Đức Tin 2012 sắp đến.

    --------------------------------------------------------------------------------

    [1] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 2.

    [2] Bênêđictô XVI, Diễn văn tại tu viện Saint-Laurent-de-l’Escurial, Tây Ban Nha, 2011.

    [3] Xem thêm Cv 3, 12: “ Thánh Phêrô nói: “Thưa đồng bào Israel, sao lại ngạc nhiên về điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi đã làm cho người này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi?”; và Cv 15, 4: “Tới Giêrusalem, các ông được Hội Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông”.

    [4] Trong 1 Cr 16, 8-9: “Tôi sẽ ở lại Êphêsô cho đến lễ Ngũ Tuần, bởi vì ở đó cửa đã rộng mở cho tôi”; 2 Cr 2, 12-13: “Khi tôi đến Trôa rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đã mở cho tôi để làm việc Chúa, nhưng tôi vẫn không yên lòng”; và Cl 4, 3: “xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người”

    [5] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 10

    [6] Bênêđictô XVI, Diễn văn tại Đại Học La Sapienza, Roma, ngày 17 tháng Giêng 2008. Cuộc gặp gỡ đã bị huỷ bỏ vào ngày 15 tháng Giêng 2008

    [7] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 12

    [8] Theo cấu trúc của Đền Thờ Giêrusalem, có một gian “cực thánh” dành riêng cho Thiên Chúa. Ngoài ra còn có những gian dành riêng cho các tư tế, cho dân Israel, cho đàn ông và đàn bà. Những người không phải là dân Do Thái, những người không tin cũng có một khoảng không gian dành riêng cho họ được gọi là “Sân Dân Ngoại” (Parvis des gentils). Trong cuộc nói chuyện với Giáo triều Roma vào ngày 21 tháng 12 năm 2009, Đức Bênêđictô XVI đã dùng hình ảnh này để gợi ý rằng: “Tôi nghĩ rằng Giáo Hội ngày nay cũng nên mở một loại “Sân Dân Ngoại” để một cách nào đó con người có thể hiểu về Thiên Chúa, dầu không biết đến Ngài và trước khi đến với mầu nhiệm của Ngài. .. Ngày hôm nay, thêm vào cuộc đối thoại liên tôn, nên có những cuộc đối thoại với những người mà tôn giáo đối với họ là một điều còn xa lạ, Thiên Chúa vẫn là một đấng vô danh. ..”. Dựa vào gợi ý của Đức Bênêđictô XVI, Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hoá và Học Viện Công Giáo Paris đã kết hợp tổ chức “Sân Dân Ngoại” tại Paris từ ngày 24-25 tháng Ba 2011. Từ đó đến nay đã có nhiều “Sân Dân Ngoại” được tổ chức tại Đức, Thuỵ Điển, Bulgarie, Roumanie, Albanie …

    [9] Bênêđictô XVI, Diễn văn tại Collège des Bernardins, Paris (12 tháng Chín 2008)

    [10] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 10

    [11] Ibid., số 2

    [12] Ibid., số 9

    [13] Ibid., số 10

    [14] Ibid., số 4

    [15] Ibid., số 5

    [16] «herméneutique» (tiếng Hy Lạp là hermeneutikè (ερμηνευτική) lấy tên của vị thần Hy Lạp là Hermès, sứ giả và là người giải thích lệnh của các vị thần) là nguyên tắc đọc, cắt nghĩa và chú giải bản văn (có người dịch là "Thông diễn luận"). Ban đầu, từ «herméneutique» và «exégèse» được dùng lẫn lộn. Dần dà, người ta phân biệt: «exégèse» là chú giải chi tiết một đoạn văn.

    [17] Vào khoảng tháng 6/2011, một luồng gió phản kháng đã nổi lên tại Giáo Hội Áo. Phong trào “Kêu gọi bất tuân phục” do 329 linh mục Áo khởi xướng và cha Helmut Schüller, Tổng Đại Diện Giáo phận Vienne, làm thủ lãnh. Phong trào kêu gọi cải cách, đòi linh mục lập gia đình, phong chức cho phụ nữ, cho người ly dị tái hôn được rước lễ, giáo dân giảng lễ và điều khiển giáo xứ. Theo thăm dò của Viện Ökonsult, thì 76 % người được hỏi đã ủng hộ Cha Schüller.
    (Theo báo Le Monde tại http://www.lemonde.fr/europe/article...6020_3214.html)

    [18] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 5

    [19] Bênêđictô XVI, Diễn văn với giáo triều Roma, ngày 22 tháng 12 năm 2005.

    [20] Lm. Hoàng Xuân Nghiêm dịch ra tiếng hán Việt là “đăng giả hội”.

    [21] Bênêđictô XVI, Cánh cửa đức tin, số 7

    LM. Phaolô Nguyễn Minh Chính

    Công bố Văn kiện mục vụ về việc cử hành Năm Ðức Tin.
    Vatican (SD 5-1-2012) - Thứ bẩy 7 tháng 1 năm 2012, Bộ Giáo Lý đức tin sẽ công bố Văn kiện mục vụ về việc cử hành Năm Ðức Tin do Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 ấn định từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 đến 24 tháng 11 năm 2013.
    Trong Tông Thư "Porta fidei" (Cánh Cửa đức tin), công bố ngày 11 tháng 10 năm 2011, Ðức Thánh Cha đã ủy thác cho Bộ giáo lý đức tin soạn một Văn kiện với những chỉ dẫn mục vụ để cử hành Năm Ðức Tin. Trong thời gian qua, Bộ Giáo lý đức tin đã cộng tác với một số cơ quan trung ương của Tòa Thánh cùng với Ủy ban chuẩn bị Năm Ðức Tin để soạn thảo Văn kiện này. Ủy ban có các thành viên gồm các Hồng Y Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Bộ truyền giáo, Bộ Giám Mục, Bộ giáo sĩ, Bộ Giáo dục Công Giáo, Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, Ðức Hồng Y Bagnasco (Italia), Jean-Pierre Ricard (Pháp, Christoph Schoenborn (Áo), và 5 Giám Mục khác.
    Văn kiện đề ngày 6 tháng 1 năm 2012, lễ Chúa Hiển Linh, 2012, và sẽ được công bố ngày 7 tháng 1 năm 2012.
    - Trong phần nhập đề, Văn kiện tái khẳng định: "Năm Ðức Tin nhắm góp phần vào sự hoán cải được đổi mới, trở về cùng Chúa Giêsu và tái khám phá đức tin, để mọi thành phần Giáo Hội trở thành chứng nhân đáng tin cậy và hân hoan làm chứng về Chúa Phục Sinh, cũng như có khả năng chỉ dẫn cho bao nhiêu người khác đang tìm kiếm cánh cửa đức tin".
    Năm Ðức Tin trùng vào dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 (11 tháng 10 năm 1962) và 20 năm công bố Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo. Vì thế, Năm này là cơ hội tốt đẹp để cổ võ sự hiểu biết và phổ biến nội dung của Công Ðồng cũng như Sách Giáo Lý của Giáo Hội.
    Những chỉ dẫn mục vụ trong Văn kiện nhắm tạo điều kiện dễ dàng cho "sự gặp gỡ với Chúa Kitô, qua những chứng nhân đức tin, cũng như ngày càng hiểu biết hơn về nội dung đức tin".
    Văn kiện trình bày những đề nghị trên bình diện: Giáo Hội hoàn vũ, các Hội Ðồng Giám Mục, các giáo phận, và sau cùng là các giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và phong trào.
    - Ví dụ, bên cạnh việc cử hành trong thể để khai mạc Năm Ðức Tin và các biến cố khác có sự tham dự của Ðức Thánh Cha như Thượng Hội Ðồng Giám Mục thế giới thứ 13 năm 2012, hoặc Ngày Quốc Tế giới trẻ năm 2013 tại Brazil, nên có những sáng kiến đại kết để "kêu cầu và cổ võ sự tái lập hiệp nhất giữa tất cả các tín hữu Kitô, và nên có một buổi cử hành đại kết trong thể để tái khẳng đình niềm tin nơi Chúa Kitô của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa".
    - Ở bình diện các Hội Ðồng Giám Mục, nên khuyến khích gia tăng chất lượng việc huấn giáo và kiểm chứng các sách giáo lý ở địa phương cũng như các tài liệu giúp giảng dạy giáo lý, để các sách này được hoàn toàn phù hợp với Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo. Ngoài ra, nên cổ võ việc sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ truyền thông và nghệ thuật, các chương trình truyền hình, phát thanh, phim ảnh, sách báo, ở trình độ bình dân, về đức tin..
    - Ở cấp giáo phận, Năm Ðức Tin được coi như "cơ hội mới mẻ để đối thoại trong tinh thần sáng tạo giữa đức tin và lý trí, qua các Hội nghị, các cuộc hội thảo, những ngày học hỏi, đặc biệt là trong các Ðại hội Công Giáo", và như một thời điểm thuận tiện cho "những buổi cử hành thống hối xin Chúa tha thứ, đặc biệt về những tội chống lại đức tin".
    - Trên bình diện giáo xứ, đề nghị chủ yếu vẫn là cử hành đức tin trong phụng vụ, nhất là Thánh Lễ, vì "trong Thánh Lễ, mầu nhiệm Ðức Tin và nguồn mạch của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, đức tin của Giáo Hội được công bố, cử hành và củng cố". Từ sáng kiến đó cũng được kêu gọi đề ra, phát triển và phổ biến những đề nghị khác, trong đó chắc chắn là có những sáng kiến do nhiều Hội dòng, Cộng đoàn mới và các phong trào của Giáo Hội.
    Sau cùng, tại Hội Ðồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng sẽ thành lập một Văn phòng tổng thư ký về Năm Ðức tin để phối hợp các sáng kiến do các cơ quan Trung ương Tòa Thánh nhắm tới Giáo Hội hoàn vũ. Văn phòng này cũng có thể "gợi ra những đề nghị cho Năm Ðức Tin và có một Website riêng trên Internet để phổ biến những tin tức hữu ích về Năm Ðức Tin.
    Những chỉ dẫn mục vụ do Văn kiện của Bộ giáo lý đức tin trình bày với mục đích mời gọi tất cả các thành phần của Giáo Hội dấn thân trong Năm Ðức Tin để tái khám phá và chia sẻ điều quí giá nhất đối với Kitô hữu, đó là chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc con người, là Vua Vũ Trụ, là tác giá và là người kiện toàn đức tin" (Dt 12,2). (SD 5-1-20120)

    G. Trần Ðức Anh, OP
    (Radio Vatican)
    Chữ ký của hongbinh
    Đạm bạc dĩ minh chí
    Ninh tĩnh nhi chí viễn

  6. Có 3 người cám ơn hongbinh vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com