|
Ngày… tháng… năm…
Sự hiện diện của tha nhân trong đời tôi làm nên sự hiện hữu của tôi. Ông bà, cha mẹ, anh chị em tôi hiện diện trong tôi nên tôi thấy mình đang hiện hữu với họ. Đó là hiện diện của tình máu mủ ruột thịt. Mở rộng hơn, những người tôi gặp trong đời hiện diện trong ký ức tôi cũng làm tôi hiện hữu giữa đời. Đó là những người đã đem đến cho tôi niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc hay khổ đau. Tuy nhiên, để hiện diện thật sự với tha nhân, tôi phải yêu tha nhân. Những việc tôi làm có thể giúp ích cho tha nhân, nhưng trên hết vẫn là sự hiện diện đầy tình yêu của tôi dành cho họ. Một đứa trẻ mồ côi, tôi có thể giúp em vật chất, để em có được cuộc sống ấm no, nhưng có thể em vẫn không hạnh phúc. Tôi không thể làm cho cha mẹ em sống lại để ở bên em, chăm sóc em. Bởi vậy, tôi yêu em thật sự thì tôi phải hiện diện bên em bằng tất cả trái tim tôi. Trong sự hiện diện ấy chỉ có tình yêu chứ không có bất kỳ ý nghĩ thương hại hay những dự định cho tương lai đời em (chúng sẽ đến sau khi ta đã yêu), không có những cảm xúc tiêu cực nào như là kết án ai đó đã gây ra đau khổ cho em, chống lại số phận nghiệt ngã đã ập xuống cuộc đời em… Chỉ còn Tình Yêu choán ngập tâm hồn tôi và em. Tình Yêu đến với em không chỉ làm cho em bớt khổ đau mà còn biến đổi tâm hồn em nó có nguy cơ bị tổn hại do khổ đau ấy gây ra, giúp em hiểu sâu hơn về thực tế đời mình. “Thái độ duy nhất trước khổ đau là yêu thương” (Carlos G.Valles). Thái độ yêu thương có giá trị nhất trong hoàn cảnh khổ đau của người là hiện diện thật sự bên người để chia sẻ khổ đau với người. Chúng ta có thể giải quyết hậu quả chiến tranh, thiên tai bằng các biện pháp lý trí, nhưng những người khổ đau do chiến tranh, thiên tai ấy, chúng ta chỉ có thể hiện diện bên họ cách tràn đầy yêu thương. Bởi vì yêu thương có sức giải phóng con người khỏi đau khổ.
Ngày… tháng… năm…
Mình thấy có ba thái độ thể hiện tình yêu đối với người nghèo. Đó là mình cho họ cái mình có theo cảm xúc bản thân. Thứ đến mình giúp họ tự vươn lên, tự cải thiện đời sống của họ. Và cuối cùng là mình tiếp xúc với họ ở sâu thẳm tâm hồn họ để khám phá ra rằng họ có một chỗ đứng quan trọng trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, họ có giá trị đặc biệt. Khi mình tiếp xúc với người nghèo khổ qua việc cho họ ‘của ăn vật chất’ là để mình có thể tiếp xúc sâu hơn con người họ, nhờ đó tình yêu mình dành cho họ nơi chiều sâu ấy sẽ giúp họ ‘nâng tâm hồn’ lên cùng Thiên Chúa Tình Yêu! Tình yêu là phương cách quy tụ con người về với Thiên Chúa!
Ngày… tháng… năm…
Tình yêu không chỉ gắn kết con người hôm nay mà còn hòa giải quá khứ của chủ thể yêu và đối tượng yêu, làm cho họ trở nên hiệp nhất trong cùng một đức tin, đức mến để làm triển nở đức cậy nó mở ra tương lai nhân loại mới. Tiến trình ấy đòi hỏi mỗi người phải hội nhập nơi chính mình toàn bộ con người của quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự hội nhập ấy chỉ có thể hoàn thành trong và nhờ tình yêu mà thôi. Và ở đây, mỗi người lại đứng trước những thách đố riêng của mình để hiện thực hóa tình yêu một cách sáng tạo, vì không ai yêu giống ai!
Ngày… tháng… năm…
Tình Yêu Thiên Chúa vượt trên tất cả mọi lý lẽ quan niệm, cảm xúc ước muốn của con người. Mỗi người hiểu và cảm nghiệm về tình yêu khác nhau nên không thể diễn đạt nó giống nhau. Có thể nói Tình Yêu là thực tại đầy sống động, hiện diện cách phổ quát khắp nơi, không phân biệt sắc tộc, cũng không bị giới hạn trong bất cứ ngôn ngữ nào. Thực tại ấy biến đổi con người, vạn vật nhằm hướng về chung đích là thống nhất nên một, không còn tách biệt phân ly. Như thế, khi tiếp xúc với thực tại ấy ta cũng sẽ cảm nghiệm rõ hơn tình yêu của ta. Nhưng phải chăng thực tại ấy rất ư trừu tượng, rất mênh mông nghĩa nên cũng không thể tiếp xúc với nó được? Tình Yêu là thực tại nhưng không trừu tượng mà cụ thể rõ ràng nơi sông núi đất trời, nơi muôn loài muôn vật và nhất là nơi mỗi người.
Ngày… tháng… năm…
‘Tình yêu thắng vượt sợ hãi’. Sợ hãi trì kéo ta lại trong không gian bản ngã nó làm ta không dám vươn ra bên ngoài để đến với tha nhân. Vậy sợ hãi phải chăng phát sinh từ cái ngã? Đúng hơn, cái too6i quyến luyến với những sự vật quen thuộc chúng làm nên thành trì vững chắc để tôi cảm thấy được an toàn. Thế nên, khi ta sợ hãi chính là lúc ta thấy mình mất một cái gì đó thân thiết lắm. Bởi vậy, ta không thể yêu ai thật sự nếu thành trì bảo vệ cái ngã không bị phá bỏ, bằng không những việc làm mang danh yêu thương kia cũng chỉ cung cấp thêm phương tiện để bảo vệ cái tôi mà thôi. Tình yêu thật sự sẽ giải thoát ta khỏi lo lắng, sợ mất những gì làm nên bản ngã của ta. Hơn nữa, tình yêu bồi đắp phù sa để tôi tiếp nhận những mầm giống từ tha nhân cho tâm hồn tôi, nên tôi lúc nào cũng tươi mới, cũng tràn đầy nhựa sống. Phá bỏ những quyến luyến quen thuộc không phải bằng những quyến luyến khác mà bằng tình yêu. Ta có thể thoát khỏi quyến luyến này nhưng lại bám dính vào đối tượng khác, và như thế vẫn còn đó cái ngã. Trong khi đó, tình yêu sẽ giúp tôi nhận biết những quyến luyến ngăn tôi đến với tha nhân, cho tôi can đảm vượt khỏi tháp ngà cái tôi để mở lòng đón nhận tha nhân.
Tuy nhiên, tình yêu ấy có thể bắt nguồn từ những tư tưởng văn hóa, tôn giáo của tôi, chứ không hoàn toàn khởi phát từ Thiên Chúa. Tôi có thể sẵn sàng quên mình phục vụ anh em nhưng điều đó vẫn chưa nói là tôi yêu anh em thật sự. Vì rất có thể hành động ấy do ‘chương trình đã cài đặt sẵn trong đầu ta’, nên khi đứng trước tình huống đòi hỏi sự hy sinh, tôi liền phản ứng ngay. Mức biểu lộ sự thắng vượt sợ hãi ở đây chính là do tâm lý nó được nhào nặn từ truyền thống, giáo dục đạo đức của gia đình, nhà trường, xã hội. Để kiểm chứng mình yêu thật sự tha nhân hay không ta có thể đặt mình vào trường hợp bất lực không thể giúp đỡ họ được. Khi ấy, trong ta sẽ xuất hiện hai thái độ tiêu cực: một là than thân trách phận (điều này ta cũng bị điều kiện hóa, rằng nếu ta không làm việc tốt thì ta là kẻ vô dụng…), hai là nổi loạn chống lại thực tế phũ phàng đã khiến người tôi yêu phải đau khổ (điều này do quá trình lịch sử tạo ra khi mà con người nhìn thấy sự ác tràn ngập nhưng lại được dạy cho toàn sự thiện hảo, nhất là về một Thiên Chúa quyền năng mà để cho sự dữ tung hoàn gây bao khổ đau cho nhân loại).
Tình yêu thật sự luôn hiện diện bên cạnh khổ đau mà không nảy sinh bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào trong tâm trí ta. Tình yêu thật sự đem đến bình an trong từng phút giây sống với đau khổ. Đó không phải là ‘an bình yếm thế’, xa lánh khổ đau để vui hưởng hạnh phúc riêng mình. Đó cũng không phải là ‘an bình thuốc phiện’, tìm cách giải sầu bằng những trò đời. Nhưng đó là ‘an bình vĩnh hằng’ như hoa sen giữa bùn lầy, hiện diện tình yêu một cách mạnh mẽ oai hùng giữa lòng cuộc sống này.
Để cảm nghiệm sự ‘an bình vĩnh hằng’ ấy thì tình yêu tôi dành cho tha nhân không thể bắt nguồn từ cảm xúc hay tư tưởng, từ tình cảm hay lý trí, mà từ chính Thiên Chúa là nguồn Tình Yêu. Ngài sẽ tuôn đổ yêu thương xuống tâm trí ta nhưng không có nghĩa ta luôn sử dụng tâm và trí làm bệ phóng để ta yêu người yêu đời. Vì lẽ đơn giản là tâm trí ta giới hạn không thể nào mô tả cách trọn vẹn Tình Yêu được. Chỉ có quy hướng về Thiên Chúa với thái độ tin cậy mến, ta mới có thể yêu người mà không sợ hãi, không nổi loạn. Nhờ đó ta có bình an đích thực đến từ Thiên Chúa, Đấng hứa ban cho những ai biết luôn tìm kiếm Ngài.
Cảm nghiệm sự sợ hãi nó gây khổ đau trong ta sẽ giúp ta nhận biết mình đang dính bén với ‘nhiều thứ trên đời’, để rồi không phải vì yêu người mà mình can đảm vượt thắng sợ hãi nhưng vì tình yêu Chúa bao phủ tâm hồn mình khiến mình đến với tha nhân mà không có bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào. Bởi lẽ, tôi yêu người thì tình yêu của tôi vẫn còn giới hạn nơi con người tôi; nhưng tôi yêu Chúa thì tình yêu của tôi hướng về vô biên vô tận, không sao diễn tả thành lời được.
Tình yêu Thiên Chúa một khi đã thấm nhiễm toàn bộ con người tôi thì nỗi sợ hãi không còn nữa. Ai cũng khao khát yêu thương nhưng lại sợ không dám yêu, giống kẻ biếng ăn dù rất muốn ăn nhưng không thích ăn vậy. Kết quả chỉ có thể là đau khổ mà thôi! Cũng vậy, nếu tôi khát khao yêu Chúa mà không dám yêu, vì cho đó là ảo tưởng thì tôi càng đau khổ biết dường nào. Bởi lẽ như thánh Augustin đã mô tả tình trạng khổ đau khi chưa được ‘an nghỉ trong Chúa’, tình trạng con người tôi sẽ thảm hại khi tôi không yêu Chúa trọn vẹn
Ngày… tháng… năm…
Nếu mình nới rộng ‘vành đai bản ngã’ của mình đến với tha nhân thì mình không còn sợ mình nữa, nên cũng chẳng sợ tha nhân luôn. Hẳn đây là điều nghịch lý, vì mình mà lại sợ mình ư? Thế nhưng thực tế cho thấy mình sợ mình lắm: sợ cô đơn, sợ buồn chán, sợ không đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, gia đình… Do đó, mình tìm cách trốn mình bằng hành động, chạy theo những đam mê ‘trò đời’. Ngược lại, khi mình ý thức sự hiện diện của tha nhân qua những tư tưởng, cảm xúc, hình ảnh, thói quen… trong con người mình, mình sẽ thấy mình thật đáng yêu vì mình được tạo dựng nên không giống người khác. Thế nên, những cảm xúc sợ hãi bắt nguồn từ sự đồng hóa mình với người khác, để rồi khi thấy mình không giống họ thì mình sợ mình.
Ngày… tháng… năm…
Tâm lý học hiện đại đã có những khám phá về tình yêu như là phương thuốc chữa tâm bệnh. Tuy nhiên, tình yêu ấy cho dù mở rộng bản ngã đón nhận tha nhân thì cũng đồng thời làm phát triển bản ngã. Khi ấy, đòi hỏi phải có sự từ bỏ cái ngã mới phát sinh ấy để làm cho tâm trí ta lúc nào cũng sinh động, tươi mới. Phải xây dựng cho mình một bản ngã rồi mới có thể phá bỏ bản ngã ấy được (M.Scott Peck) Tình yêu con người vẫn còn hạn chế ở chỗ đó. Ta mở lòng đón nhận tha nhân nên tâm hồn mình tràn ngập những ý nghĩ, hình ảnh, lời nói, việc làm của họ chúng làm nên tính cách vay mượn nơi ta. Thế nên ta cần phải phá bỏ bản ngã do sự vay mượn ấy. Nhưng ta thường thiếu tỉnh thức khi nghĩ những sự vay mượn ấy là cái ngã của mình. Và ở đây rất cần đến Tình Yêu Thiên Chúa như là nguồn năng lượng giúp phá bỏ ảo tưởng về bản ngã ấy để làm cho cái ngã chân chính hiện lộ, đó là lúc tôi kết hợp nên một trong Đức Kitô, như chính Ngài đã nên một với Chúa Cha. Cái ngã chân chính ấy chỉ có thể xuất hiện nhờ Tình Yêu Thiên Chúa mà thôi!
Ngày… tháng… năm
Ta hay nghe nói yêu là quên mình vì người mình yêu. Nhưng cần hiểu sao về sự quên ấy? Làm sao tôi có thể quên những việc tôi làm cho tha nhân, bởi thế là tôi mất ký ức và không thể sống như người bình thường? Hoặc giả sử tôi không nghĩ tới những gì tôi làm mà người ta cho là tốt thì tôi cũng còn nhớ những động lực thúc đẩy tôi làm những việc đó trong hoàn cảnh của tôi lúc ấy? Trong lúc gặp hiểm nguy tôi có thể chẳng nghĩ đến bản thân, sẵn sàng xả thân cứu người, nhưng sau đó chắc chắn tôi phải nhớ đến việc làm nó tạo trong tôi cảm xúc buồn vui. Vậy quên khi hành động có phải là biểu hiện tình yêu không?
Ngày… tháng… năm…
Chúa Kitô đã yêu thương con người tội lỗi đến nỗi Ngài đã hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại, nhưng điều đó có nghĩa Ngài quên hết tội lỗi của ta chăng? Rõ ràng tôi không thể làm việc gì đó nếu tôi quên nó! Chúa Giêsu hẳn không thể cứu độ trần gian tội lỗi nếu Ngài quên tội lỗi trần gian. Ngài vẫn nhớ tội chúng ta nhưng hành động chuộc tội đầy tình yêu của Ngài vượt qua tội ta phạm để thiết lập mối tương quan mới với ta. Ngài đã chủ động làm việc đó trước. Vậy trong tình yêu quên và nhớ không làm ngăn trở mối tương quan giữa người yêu và đối tượng yêu. Tôi yêu người không phải vì tôi nhớ những tính tốt và quên những tính xấu của người. Vượt trên tất cả, tôi yêu người vì người có những tính tốt xấu, nên tính xấu của người không ngăn trở tôi đến với người, còn tính tốt của người không làm tôi bám dính vào người đến độ tôi mù quáng, ghen ghét, đố kỵ.
Thiên Chúa vẫn nhớ những gì Ngài đã hứa với con người, nhưng điều đó không có nghĩa tôi phải bắt Ngài nhớ thực hiện điều Ngài hứa theo ý tôi, trong hoàn cảnh tôi đang sống. Dường như ta có cảm tưởng Ngài quên điều Ngài hứa vì Ngài để bao sự dữ hoành hành khiến con người luôn khổ đau. Tình yêu đôi lúc buộc ta phải quên đối tượng ta yêu. Quên trong tình yêu không có nghĩa là không biết sự hiện diện của đối tượng yêu, là bỏ mặc đối tượng yêu, nhưng là biết người mình yêu hiện diện như chính họ là họ.
Ta hãy thử trắc nghiệm mình xem sau khi mình làm điều gì đó cho người khác, mình có muốn họ đáp lại tình cảm của mình không. Thật dễ nhận thấy những cảm xúc ghen tương, đố kỵ, so bì khi mình giúp ai đó nhưng lại không được họ nhớ tới mình. Mình nghĩ đến người không phải vì người nhưng là vì mình, mình muốn người cũng nghĩ đến mình. Rõ ràng ở đây, cái nhớ mang màu sắc vị kỷ, nên hành động của mình hoàn toàn vụ lợi. Trong khi đó, mình giúp đỡ ai một cách hết lòng, hết sức, không tính toán hơn thiệt, không quan tâm được mất, lúc ấy mình cảm thấy như ‘siêu thoát’, như ‘quên mình thật sự’, như thể những việc làm ấy thể hiện qua mình chứ mình không hề dính dáng gì đến chúng. Và ở điểm này cái quên mang sắc thái vị tha, nên hành động quên ấy cũng là hướng tha.
Tuy nhiên, vấn đề xung đột nội tâm phát sinh khi tôi nhớ lại việc tôi làm. Tôi nhớ đến những việc mình làm cho mình mà quên tha nhân, lúc ấy tôi tự trách mình hoặc xem như bình thường. Hay khi tôi nhớ đến việc tôi làm cho tha nhân đến nỗi quên mình, tôi dễ bị cuốn hút về tha nhân nhiều hơn nên cùng lúc đó xuất hiện sự phản hồi về tôi: tôi tốt bụng tôi, tôi làm việc thiện, tôi thích quan tâm giúp đỡ người khác… Và thế là tôi hình thành cái tôi bên ngoài tôi, để mỗi lần được người ta phản hồi tốt, tức cái tôi bên ngoài của tôi ấy làm tôi vui, còn khi nhận được phản hồi xấu như sự ghen ghét của người ta thì cái tôi ấy làm tôi khổ.
Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta một phương pháp hành động có thể nói là nhớ mà quên, quên mà nhớ; đó là ‘khi tay phải làm việc lành thì đừng cho tay trái biết…’ Chúng ta hãy quên những lời khen chê của thế gian, nhưng hãy nhớ ‘Cha trên trời sẽ ban phần thưởng cho chúng ta’. Như vậy, ta cần học quên vinh quang của thế gian mà luôn nhớ đến Cha trên trời, Đấng luôn nhớ đến ta. Ta nhớ những việc làm đã được thực hiện qua ta chứ đừng nhớ đến những lời khen chê của người đời, để rồi dần dần ta quên luôn những việc làm ấy trước mặt Thiên Chúa.: ‘có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu…” Lúc ấy, Chúa sẽ nhớ tới tấm lòng của ta: ‘những gì các ngươi đã làm cho những người hèn mọn là làm cho chính Ta…’ Tuy nhiên, thực hiện được điều này đòi ta phải luôn tỉnh thức nhìn nhận mọi việc xảy đến với ta nhằm tránh bám dính vào chúng. Cái nhìn tỉnh thức ấy là kết quả của tình yêu! Đúng là khi yêu ta không thể mù quáng được. Điều mà chúng ta gọi là tình yêu mù quáng không phải là tình yêu. Đó là sự bám dính vào đối tượng, là sự lệ thuộc vào tha thể, nhưng lại được khoác cho nhãn hiệu ‘tình yêu’ (Anthony de Mello).
Ngày… tháng… năm…
Mỗi khi ta nhớ đến những gì ta làm cho người thì đồng thời nảy sinh sự so sánh với những gì người làm cho ta. Thế là bắt đầu một chuỗi những phản ứng tiêu cực chúng dẫn đến khổ. Tâm trí ta xáo trộn vì luôn tìm cách bảo vệ lợi ích bản thân. Lợi ích này chỉ phát sinh khi ta thấy người khác thích dành lợi ích cho họ. Lúc này, nếu ta yêu người thật sự ta cần phải quan tâm hơn nữa lợi ích của họ, giúp họ phát triển bản thân hơn. Nhờ tình yêu mà tôi khám phá ra nơi tôi vẫn chưa yêu thật sự, tôi vẫn chưa có Tình Yêu Chúa trong tôi nên Tình Yêu của Ngài không thể qua tôi mà đến với người được. Bởi vậy, nếu tôi biết khai thông nghẽn mạch cái tôi thì Tình Yêu Chúa sẽ tuôn chảy trong tâm hồn tôi, vừa làm tươi mát trái tim tôi, vừa biến đổi con tim chai đá của người. Ai có thể giúp tôi khai thông nghẽn mạch cái tôi? Chỉ Đức Kitô mới giúp tôi thực hiện điều đó. Nhưng đây mới chỉ là ý nghĩ trừu tượng, chưa thấm nhiễm toàn bộ con người tôi, nên có thể những tư tưởng này lại trở thành rào cản để Đức Kitô đến với tôi. Vì thế tôi cũng cần quên luôn chính tư tưởng của tôi để Đức Kitô tự do hoạt động nơi tôi, có như vậy Ngài mới giúp tôi mở lòng đón nhận Thiên Chúa Tình Yêu, có như vậy tôi mới luôn tự do sống theo Ngài chứ không còn sống cho riêng tôi nữa, như Đức tông đồ Phaolô đã cảm nghiệm điều đó.
Ngày… tháng… năm…
Tình Yêu Thiên Chúa như một tụ điểm thu hút con người để những ai tin yêu Ngài đều bị Ngài hấp dẫn và trở nên chứng nhân tình yêu của Ngài. Công trình cứu độ của Chúa vẫn đang trong giai đoạn ‘xây dựng’, vẫn chưa hoàn thành. Nhưng không vì thế mà công trình ấy sẽ không bao giờ thành hiện thực. Con người đang ra sức góp phần xây dựng cũng như phá hoại công trình ấy. Hoàn thành công trình cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có thể dùng quyền năng của Ngài, nhưng đó không phải là ý tưởng của Tình Yêu. Đó là ý chí của quyền lực! Ý chí dễ trở nên cứng nhắc trong hành động và như thế dễ tước mất tự do của đối tượng. Còn ý tưởng thì mềm dẻo, linh hoạt nên có nhiều sáng tạo trong hành động và vì vậy tôn trọng tự do của đối tượng. Chẳng hạn, tôi có ý tưởng xây nhà, nhưng không vì thế mà tôi dùng ý chí cá nhân bắt buộc công nhân xây ngay căn nhà ấy cho tôi. Trái lại, tôi phải tính toán, trình bày ý tưởng ấy cho kiến trúc sư, rồi trong khi xây dựng tôi thấy nhiều vấn đề phát sinh cần giải quyết…. Dĩ nhiên, đối với Tình Yêu Thiên Chúa thì ta không thể dùng những ý tưởng về sự vật để diễn đạt. Nhưng qua trường hợp trên ta có thể hình dung Tình Yêu Thiên Chúa như Ý Tưởng Toàn Vẹn hấp dẫn con người, để nhờ đó con người có thể được cứu độ qua sự công tác vào việc hiện thực Ý Tưởng ấy thành Nước Trời.
Tuy nhiên, đối với con người, ý tưởng thường rất mông lung, không rõ ràng nên dễ rơi vào quên lãng. Chúng ta ít khi thực hiện ý tưởng đến cùng. Ngược lại, với Thiên Chúa, ý tưởng cứu độ đã thành hiện thực nơi Đức Kitô dù rằng ta thấy hình như Ngài đã thất bại. Chính vì đích nhắm của Ngài là Tình Yêu có sức thu hút con người nên công trình cứu độ nhân loại qua Đức Giêsu cũng phải hướng về Tình Yêu. Nhờ vậy, con người có hướng đi là Đức Kitô, vì Ngài là đường, có đích nhắm là Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đi trên con đường Giêsu thì chắc sẽ đến đích là Thiên Chúa nên con đường Giêsu cũng là con đường tình yêu luôn. Bởi thế, chúng ta tin ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với chúng ta qua con đường Giêsu tình yêu (trở thành hiện thực), nhưng chưa đạt đến viên mãn (là gặp Thiên Chúa Tình Yêu), nên trên con đường ấy ta sẽ còn gặp nhiều khó khăn gian khổ chúng đồng hành với ta.
Ngày… tháng… năm…
Hai người yêu nhau thật sự sẽ không cảm thấy mệt mỏi hay chán nản khi ở bên nhau, trái lại, họ tìm được niềm vui, sự nâng đỡ, động viên nhau. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhận ra rằng mình cảm thấy mệt mỏi, chán chường, mất tinh thần… khi tiếp xúc, khi sống chung với nhau. Trong cơ quan, xí nghiệp, người ta làm việc với nhau, xem nhau như đồng nghiệp, nhưng lại luôn cảm thấy mình mệt mỏi do các mối quan hệ ấy gây ra. Trong gia đình, vợ chông sống chung với nhau quen rồi, hiểu nhau quá rồi, nên rất dễ rơi vào tâm trạng chán chường. Bởi vậy, gia đình không còn là nơi nương tựa của con cái, vợ chồng, cha mẹ nữa, mà như cái ách phải mang. Trong cộng đoàn tu trì, người ta sống với nhau như huynh đệ nhưng vẫn chưa thể san sẻ niềm vui nỗi buồn của nhau, vì có sự khác biệt giữa các thành viên. Trong môi trường tôn giáo, nhiều lễ nghi hình thức lặp đi lặp lại dễ gây tâm lý nhàm chán, nhất là đối với người trẻ. Họ không còn yêu mến thánh lễ, vì họ cảm thấy chán khi tiếp xúc với những thói quen công thức ấy!
Tâm lý ấy có nguy cơ đi vào tương quan với Thiên Chúa khi mà người ta không còn thích nghe nói về Chúa, như muốn gạt Chúa ra khỏi cuộc sống hằng ngày của họ. Họ không yêu Chúa nữa! Nhưng điều đó nào lợi hại chi cho Chúa! Chỉ thiệt cho bản thân ta mà thôi. Thật sự, yêu Chúa không hề chán, vì Ngài là Đấng Hằng Sống. Sự sống ta kín múc từ tình yêu của Ngài không làm vơi đi chính sự sống của Ngài. Vậy nên, ta không thể lấy tâm lý thường ngày của ta để giao tiếp với Thiên Chúa. Ta chán gặp người này kẻ nọ vì ta không còn yêu thích họ, nhưng ta không thể đem tâm lý áp dụng đối với Chúa. Làm như thế là ta chỉ tự hại mình mà thôi!
Ngày… tháng… năm…
Tình yêu không thể giam hãm đối tượng yêu trong cái tôi của tôi. Khi tôi yêu ai mà tôi chỉ muốn họ ở mãi bên tôi thì tôi không thể gọi là yêu họ. Bởi lẽ, đối tượng yêu sẽ mất tự do và họ sẽ nổi loạn chống lại tôi, gây đau khổ cho tôi.
Thiên Chúa yêu tôi hẳn nhiên Ngài không để tôi trong căn phòng êm ấm của Ngài để hằng ngày chăm sóc tôi. Vì làm thế Ngài đã lấy mất tự do của tôi, điều đó không phù hợp với bản tính tự do của Ngài. Ngài yêu tôi nhưng để tôi tự do chạy nhảy trong khu rừng cuộc sống! Ngài không ‘bắt’ tôi về với Ngài. Nhưng Ngài luôn theo dõi tôi, nhìn thấy nhu cầu cần thiết của tôi, và ban cho tôi những điều Ngài muốn, để tôi nhận ra Ngài mà chạy đến nương tựa vào Ngài.
Bởi thế, trong tương quan yêu thương với tha nhân, tôi cần có thái độ siêu thoát, tự do như chính Chúa đã yêu tôi mà không lấy tự do của tôi. Điều này quả là khó vì trong tôi luôn có khuynh hướng chiếm hữu đối tượng yêu như một sự bảo đảm an toàn cho tôi. Thế nên, khi đối tượng yêu khước từ tình yêu của tôi, tôi cảm thấy như bị xúc phạm, tâm trí tôi dằn vặt xung đột khi thấy người tôi yêu bỏ tôi đi… Những lúc ấy, tôi yêu cái tôi của tôi hơn là yêu người ấy! Nếu tôi yêu họ thật sự tôi sẽ không để bị dính bén vào đối tượng mà đánh mất tự do của tôi. Tôi yêu người một cách tự do, chứ không vì mong người đáp lại tình yêu của tôi.
Trong tương quan yêu Chúa, tôi hãy nhìn lại những lúc tôi cầu nguyện xin ơn mà không được Chúa nhậm lời, để biết xem tôi yêu Chúa thật hay không. Những lúc ấy, tôi thường có thái độ mất tin tưởng vào Ngài, và có thể chối Ngài, phản Ngài… Nhưng nhìn lại bản thân, tôi xin ơn cho tôi, hay cho những người nhờ tôi cầu xin là để thỏa mãn cái tôi của tôi, chứ tôi nào yêu Chúa đâu. Nếu yêu Chúa tôi phải nghĩ đến điều Chúa muốn nơi tôi chứ không phải điều tôi muốn nơi Chúa. Bởi vậy, tôi yêu Chúa thật sự thì tình yêu của tôi phải dựa trên thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Ngài, nếu không thì tình yêu ấy quay ngược về tôi.
Cũng vậy trong tương quan yêu người, tôi không thể quảng đại, tốt lành, phục vụ giúp đỡ người khác để làm đẹp hình ảnh cái tôi của tôi, mà phải biết nhìn nhận họ như những chủ thể đặc biệt không dính bén gì tới tôi, nghĩa là không làm cho tôi trở nên quan trọng trong tương quan với họ, tôi không lệ thuộc vào tình cảm của họ, tôi không tìm cách kiểm soát họ.
Tuy nhiên, nếu không có sự quyến luyến, không có đau khổ do lệ thuộc vào đối tượng bên ngoài tôi thì tôi không thể học cách từ bỏ chính mình, lột bỏ cái tôi của mình, và như thế tôi cũng không thể trưởng thành mạnh mẽ chiến đấu vượt qua cửa hẹp được. Tôi phải ý thức tôi đang đau khổ do các mối quan hệ dính bén của tôi với đối tượng bên ngoài thì tôi mới nhận hiểu chính tôi hơn và do biết thao gỡ các mối liên hệ quyến luyến ấy, tôi mới từ bỏ cái tôi cách dễ dàng. Chính Tình yêu đã giúp tôi lột xác.
Ngày… tháng… năm…
Sự hiểu biết bằng tình thương sẽ giúp ta sống hòa hợp với tha nhân và môi trường sống xung quanh. Cũng cần phân biệt với sự hiểu biết bằng lý trí nó giúp ta nắm bắt được quy luật tự nhiên và xã hội, tìm ra nguyên nhân hành động của người khác, nhưng không có tình yêu thì sự hiểu biết ấy dễ đến ý nghĩ chinh phục, nổi loạn chống lại thực tại, không chấp nhận tha nhân như chính họ là họ. Sự hiểu biết bằng tình yêu cũng chính là sự thức tỉnh thường xuyên để luôn nhận diện sự vật sự việc xảy đến với mình qua môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Sự hiểu biết ấy không chỉ giúp ta tồn tại được trong hoàn cảnh xã hội hiện nay vốn đề cao chủ nghĩa cá nhân tự do, hướng đến một trật tự theo ý chí cá nhân và loại bỏ dần Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, mà còn đưa ta kết hiệp mật thiết với Chúa nữa. Việc kết hiệp với Chúa sẽ củng cố đức tin của ta, thúc đẩy ta hăng hái nhiệt thành loan báo Tin Mừng cứu độ của Ngài, làm lan truyền Tình Yêu Thiên Chúa khắp thế giới để góp phần cải biến vũ trụ này nên giống thánh ý Chúa hơn. Dĩ nhiên ở khía cạnh bản thân, sự hiểu biết bằng tình yêu của ta vẫn còn giới hạn, vẫn không thể lột tả hết dung nhan Chúa, vẫn không thể làm rõ ý Ngài cho người khác nhận biết. Bởi thế tôi chỉ có thể trở thành khí cụ bình an của Chúa nhờ sự hiểu biết bằng tình yêu mà Chúa đã ban cho tôi. Bản thân tôi không thể tự mình hiểu và yêu như Chúa nếu không được Chúa hiểu và yêu. Tôi chỉ biết dùng sự hiểu biết yêu thương ấy để chu toàn trách nhiệm làm người, để hoàn thành sứ mạng làm chứng nhân cho Tình Yêu Thiên Chúa mà thôi.
Tuy nhiên, sự hiểu biết bằng lý trí không thể loại bỏ được, vì nhờ đó ta có thể phân biệt sự vật sự việc rõ hơn. Có điều ta không thể dùng để phân biệt con người được. Tôi vẫn là người như bao người khác, nên việc dùng lý trí để phân biệt người này người nọ chính là tôi đã ‘tự nâng mình lên và hạ người khác xuống’ vậy. Bởi vậy, trong tương quan với người khác, tôi chỉ hiểu họ bằng yêu thương mà thôi. Bằng không, tương quan ấy sẽ ở thế giằng co nghiêng ngả vì ai cũng cố ra sức sử dụng tài trí và khả năng của mình để chinh phục kẻ khác, chứ không còn là tương quan hòa hợp hướng đến sự hiệp nhất nên một như các chi thể trong một thân thể mà Đức tông đồ Phaolô đã nói. Sự hiệp nhất ấy chỉ thành hiện thực khi tôi và người cùng liên kết mật thiết với Đức Kitô- Đấng hiểu biết và yêu thương chúng tôi, Đấng đã cứu chuộc chúng tôi khỏi sự dữ do ‘vô minh’ của chúng tôi tạo ra, Đấng đã chủ động hợp nhất chúng tôi nên một để chúng tôi không còn sống giành giật nhau nữa mà là chia sẻ và trao ban cho nhau chính cuộc sống của mình.
Ngày… tháng… năm…
Thiên Chúa đã yêu tôi vì Ngài muốn cứu tôi khỏi tội. Nhưng Ngài không thể bắt tôi phải theo chương trình cứu độ mà Ngài đã khởi công thực hiện trong suốt chiều dài lịch sử, nên như thánh Augustin đã nói ‘Thiên Chúa muốn cứu độ tôi thì Ngài cần tôi cộng tác”. Đơn giản vì Ngài là Đấng tự do nên Ngài tôn trọng tự do của con người tham gia hay từ chối cộng tác với Ngài thực hiện chương trình cứu độ ấy. Thế nên, chỉ bằng tình yêu Ngài mới thu hút ta về với Ngài để ta nhận ra kế hoạch cứu độ của Ngài không chỉ ích lợi cho bản thân ta mà còn cho cả vũ trụ Ngài tạo dựng nữa. Nhờ vậy, khi ta thực hiện việc hoán cải bản thân để trở nên giống Chúa thì đó là lúc ta đang góp phần thực hiện chương trình cứu độ của Chúa. Có điều ta cần phải ý thức rằng nỗ lực riêng của ta cũng không thể….cứu ta thoát khỏi tội lỗi. Hẳn là mâu thuẫn khi vừa khẳng định vai trò cá nhân trong công trình cứu chuộc của Chúa nhưng cũng lại phủ định nỗ lực cá nhân luôn. Tuy nhiên, mâu thuẫn này sẽ được giải quyết bằng mâu thuẫn lớn hơn, đó là Tình Yêu Thiên Chúa. Ngài yêu ta ngay cả khi ta không yêu Ngài, như mưa tuôn xuống cả người công chính lẫn người tội lỗi vậy. Nhưng khi ta nhận ra Tình Yêu của Ngài, ta muốn trở nên giống Ngài là Tình yêu, ta muốn yêu như Chúa yêu, ta muốn thực hiện các việc lớn lao lạ lung như Chúa đã làm, ta hăng say nhiệt tâm thi hành Lời Chúa, ta dốc lòng hoán cải tâm hồn để khỏi mất lòng Chúa, và sau đó, ta nhận ra mình không thể sánh bằng Thiên Chúa! Mình không thể yêu như Chúa, mình không thể làm được việc gì lớn lao như Chúa, mình không thể luôn hăng say mãi như Chúa, mình cũng chẳng thể bỏ hết tội lỗi mình nữa. Dường như mình đang đuổi bắt bóng mình vậy! Mình càng yêu Chúa qua các việc của Chúa thì Chúa càng vượt xa mình. Vậy là mình bất lực. Những nỗ lực của mình nhằm thực hiện cứu độ mình theo chương trình cứu độ của Chúa đã trở nên mây khói, không sinh được kết quả gì hết. Mình vẫn chưa trở nên giống Chúa! Và kỳ lạ làm sao, khi nỗ lực cá nhân không còn nữa thì cũng là lúc mình cảm nghiệm Chúa yêu mình hơn. Đó là khi mình dừng lại, không còn đuổi bắt bóng mình nữa, vì bóng mình đang ở cạnh mình đây. Có lẽ Chúa yêu tôi để hấp dẫn tôi về phía Ngài, để tôi không chạy theo phía sự dữ của tội, nên khi tôi cố sức theo tiếng gọi yêu thương của Chúa để cảm nghiệm Tình Yêu Ngài sâu hơn thì chính sự nỗ lực đó đưa tôi đi về phía khác với hướng của tội. Nhờ vậy, tôi đã tránh các dịp làm nên tội, nhưng vẫn chưa gặp Chúa. Và điều này tạo nên cảm giác bất lực trong tôi.
Tóm lại, Chúa cứu độ tôi thì cần tôi cộng tác, nhưng không có nghĩa sự nỗ lực cộng tác của tôi làm cho tôi được cứu độ. Chúa gọi tôi mà tôi không chịu lên đường thì làm sao tôi gặp Chúa! Nhưng không vì tôi đi theo tiếng Chúa gọi là tôi gặp Chúa! Tất cả đều do Chúa. Mọi nỗ lực của tôi chỉ có giá trị trên con đường theo Chúa, còn việc gặp Chúa thì không phải do nỗ lực tạo ra mà do chính Chúa!
Ngày… tháng… năm
Không lời nào có sức sống phổ quát làm triển nở sự sống nơi muôn thế hệ. Có chăng đó chỉ là những lý thuyết được bảo tồn trong các hàn lâm viện. Ta học các lý thuyết từ cổ chí kim là nhằm bôi trơn cỗ máy tư duy của ta, chứ không thể làm cho chúng thấm nhiễm vào con tim, máu thịt ta, tức cho ta sự sống.
Không một ai có thể thể hiện sự sống một cách dồi dào vượt mọi thời gian. Có chăng đó là những danh nhân, vĩ nhân, hay thánh nhân, họ đã thổi luồng sinh khí mới cho thời đại họ và được người ta tôn kính như mẫu gương sống. Ta học nơi họ tính cách này nọ để kích thích tâm hồn ta ước muốn nên giống họ hầu đem lại cho cuộc sống mình ý nghĩa nào đó, chứ họ không hề ở với ta luôn mãi trong mọi hoàn cảnh cuộc đời ta.
Chỉ có Lời Thiên Chúa mới chứa đựng sự sống phổ quát làm cho muôn người tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, biến đổi mọi người trở nên những chứng nhân loan báo Tin Mừng của Chúa, hoàn thiện thế giới vũ trụ này thành Nước Trời. Ta không thể học Lời Chúa như một lý thuyết của ai đó sáng lập. Ta cũng không thể đem Lời Chúa ra phân tích đúng sai hay so sánh với các lý thuyết do con người viết ra. Lời Chúa chính là sự sống. Ngài sáng tạo vũ trụ bằng Lời của Ngài và qua đó mà sự sống trồi sinh nảy nở phát triển. Ta học Lời Chúa trước hết là học sống. Sống đúng Lời Ngài trước hết phải để Lời ‘nhập thể’ trong thân tâm ta, biến đổi ta trở thành người mang sự sống chứ không phải người sở đắc lý thuyết về sự sống! Ta phải sống Lời Chúa. Ta không thể đưa quan điểm mình để khẳng định hay phủ định Lời Sự Sống. Bằng không, ta chỉ có thể đặt Lời Chúa bên cạnh cuộc đời ta, được ta xem như ‘sách tham khảo’, hay ‘bảng chỉ dẫn’ mà thôi.
Lời của ta thường tách khỏi cuộc sống của ta, nghĩa là ta thường nói mà không sống điều mình nói. Trái lại, Đức Giêsu đã sống và rao giảng Lời sự sống, hoàn toàn không có sự khác biệt giữa Lời Ngài và cuộc đời Ngài. Có thể nói Lời Hằng Sống của Chúa diễn tả Sự Sống Ngài, không giống như lời con người dùng để diễn tả đối tượng bên ngoài, hay các ý tưởng. Chính Đức Kitô đã khẳng định Ngài ‘là đường, là sự thật và là sự sống’. Và Lời đó hẳn nhiên cũng là ‘đường, sự thật, sự sống’ luôn. Bởi thế, ngày hôm nay ta nghe Lời Chúa không phải như nghe những thông tin về Chúa, những kiến thức diễn đạt tư tưởng của Chúa, những việc phi thường Chúa đã làm… mà là nghe chính sự thật của Chúa, là tiếp xúc chính sự sống của Chúa, là đi trên con đường của Chúa. Ngài đang nói với ta mỗi ngày, và qua đó ta theo hay từ chối Ngài, chứ không thể làm lơ sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời ta. Nếu ta nghe và sống Lời Ngài, chứ không phải suy tư, tranh luận hay phân tích về sự sống của Ngài, thì ta sẽ cảm nếm sự sống tuôn chảy trong ta. Ở điểm này, Đức Kitô đã sống vượt thời gian để đem sự sống của Ngài đến với mọi loài thụ tạo khắp nơi qua Lời Hằng Sống. Thiên Chúa sẽ không để Lời Ngài bị mất hút trong vũ trụ hay bị con người làm cho sa đọa thành những câu chữ vô hồn kết dính trong những cuốn sách bọc thép để ở các thư viện cổ kính cho người ta nhìn ngắm.
Vậy điều gì làm cho Đức Kitô và Lời Ngài có sức sống vĩnh cửu? Thưa đó là Tình Yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên Ngài muốn thiết lập mối liên hệ yêu thương ấy qua Lời: ‘anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em’. Nhờ Lời Yêu Thương Cứu Độ của Thiên Chúa mà nhân loại thấm nhiễm dần sự sống từ trời cao để ‘sống và sống dồi dào’.
Tác giả: Nguyễn Trí Dũng |
|