|
YOUCAT - Phần Một - Chương 2 - Thiên Chúa tìm kiếm con người chúng ta
Chương II - Thiên Chúa tìm kiếm con người chúng ta
7- Tại sao Chúa phải tỏ mình ra để chúng ta biết được Ngài như thế nào?
Với lý trí con người có thể nhận biết rằng có Thiên Chúa, nhưng con người không thể nhận biết Ngài như thế nào. Nhưng vì Chúa muốn mình được tin nhận, nên Ngài đã tỏ mình ra. [50-53, 68-69]
Thiên Chúa không cần phải tỏ mình ra cho chúng ta. Ngài làm việc này từ tình yêu. Giống như trong tình yêu con người ta chỉ có thể biết điều gì đó nơi người được yêu, nếu như người đó mở rộng lòng cho chúng ta, cũng thế chúng ta chỉ có thể biết được điều gì đó từ trong tư tưởng thẳm sâu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa vĩnh cửu và đầy huyền nhiệm đã tự tỏ mình cho chúng ta. Bắt đầu từ sự tạo dựng rồi đến các tổ phụ và các tiên tri cho đến sự mặc khải tối hậu nơi người con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa luôn nói với con người. Trong Ngài, Thiên Chúa đã thổ lộ hết tâm can và đã vĩnh viễn cho chúng ta nhìn thấy bản chất sâu xa của Ngài.
8 - Thiên Chúa mặc khải mình trong Cựu Ước như thế nào?
Thiên Chúa tỏ mình trong è Cựu Ước là Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng thế giới từ tình yêu và sau đó đã trọn vẹn trung tín với con người ngay cả khi họ rời xa Chúa vì tội lỗi. [54-64, 70-72]
Chúa làm cho con người có thể cảm nhận Ngài trong lịch sử: Ngài thiết lập một giao ước với Noah để cứu tất cả mọi loài hiện hữu. Ngài đã gọi Abraham để làm cho ông trở thành "cha của vô số dân tộc" (Kn 17,5) và qua ông "mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc" (Kn 12,3). Dân Israel phát sinh từ Abraham được trở nên dân riêng của Ngài. Ngài giới thiệu với Môi-sen tên của Ngài. Tên mang tính đầy huyền nhiệm của Ngài è JWHW (Gia-vê) được viết ra là Jahwe, có nghĩa là "Ta là Đấng luôn hiện diện" (Xh 3,14). Ngài giải thoát Israel khỏi ách nô lệ ở Ai-cập, thiết lập một giao ước trên núi Sinai và ban cho dân đó lề luật qua Môi-sen. Ngài luôn gởi các tiên tri đến với dân của Ngài để kêu gọi họ hối cải và làm mới lại giao ước. Các tiên tri loan báo việc Chúa sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu, giao ước này sẽ đưa đến một đổi mới triệt để và sự giải thoát tối hậu. Giao ước này sẽ mở rộng ra cho tất cả các dân tộc.
9 - Chúa tỏ điều gì từ nơi Ngài khi Ngài gửi Con của Ngài đến cho chúng ta?
Trong Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa chỉ cho chúng ta toàn bộ chiều sâu của tình yêu nhân hậu của Ngài.
Qua Đức Giê-su Ki-tô, một Thiên Chúa vô hình đã trở nên thấy rõ được. Ngài trở nên Người như chúng ta. Điều này cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài đã rộng đến mức độ nào: Ngài mang lấy toàn bộ những gánh nặng của chúng ta. Ngài đi qua tất cả những con đướng chúng ta đi. Ngài hiện diện trong sự bị bỏ rơi của chúng ta, trong những đau khổ của chúng ta, trong nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Ngài ở đó khi chúng ta không còn nhìn ra được gì nữa, để mở cho chúng ta một cánh cửa vào sự sống. 314
10 - Vậy tất cả mọi điều đã được nói hết qua Đức Giê-su Ki-tô, hay sự mặc khải sẽ còn được tiếp tục sau Ngài?
Nơi Đức Giê-su Ki-tô, chính Thiên Chúa đã đi vào thế giới. Chúa Giê-su là LỜI tối hậu của Thiên Chúa. Khi nghe Ngài tất cả mọi người của mọi thời đại có thể biết được Thiên Chúa là ai và điều gì là cần thiết cho sự cứu rỗi của họ. [66-67]
Qua Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô, sự mặc khải của Thiên Chúa được hoàn tất cách trọn vẹn. Chúa Thánh Thần sẽ luôn hướng dẫn chúng ta đi vào sâu hơn trong sự thật để sự thật đó soi sáng chúng ta. Trong cuộc sống của một số người ánh sáng của Thiên Chúa soi tỏ rất mạnh đến độ họ nhìn thấy "trời rộng mở" (Cv 7,56). Tương tự như thế xuất hiện những địa danh hành hương như Guadaloupe ở Mexico hay Lourdes ở Pháp. Những "mặc khải cá nhân" của những người được thị kiến không làm cho Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô tốt hơn. Những mặc khải này không có tính bắt buộc chung cho tất cả. Nhưng những sự kiện này có thể giúp chúng ta hiểu Tin Mừng hơn. Tính xác thực của chúng được è giáo hội kiểm tra.
11 - Tại sao chúng ta phải tiếp tục rao truyền niềm tin?
Chúng ta tiếp tục truyền tải niềm tin, vì Chúa Giê-su ủy thác việc đó cho chúng ta: "Hãy đi đến các dân tộc và hãy làm cho mọi người trở nên môn đệ của Thầy" (Mt 28,19). [91]
Không một Ki-tô hữu đúng đắn nào lại chừa việc rao truyền niềm tin cho những người chuyên môn (thầy giáo, linh mục, nhà truyền giáo). Ki-tô hữu là con người cho những người khác. Điều này có nghĩa là: Mỗi một Ki-tô hữu đúng đắn đều mong muốn Chúa đến với người khác. Người đó phải tự nhủ rằng: Chúa cần đến tôi! Tôi đã được rửa tội, đã được lãnh nhận bí tích thêm sức và có trách nhiệm với việc những người xung quanh tôi sẽ nhận biết Chúa và sẽ "đi đến nhận biết chân lý" (1 Tm 2,4). Mẹ Tê-rê-sa đã dùng một so sánh rất hay: "Có thể bạn hay nhìn thấy những giòng dây cáp trải dài theo các con đường. Trước khi không có giòng điện xuyên suốt qua, sẽ không có ánh sáng. Sợi dây cáp điện đó là bạn và tôi! Giòng điện chính là Thiên Chúa! Chúng ta có quyền để cho giòng điện chạy xuyên qua chúng ta và như thế để ánh sáng thế gian được sinh ra: Chúa Giê-su, hoặc chúng ta từ khước việc được sử dụng đến, và qua đó bóng tối được phép lan rộng thêm ra." 123
12 - Từ đâu chúng ta biết được điều gì thuộc về niềm tin thật?
Niềm tin thật chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh và trong việc rao truyền sống động của è giáo hội (= Tông Truyền). [76, 80-82, 85-87, 97, 100]
Sách Tân Ước phát sinh từ niềm tin của giáo hội. Văn bản và truyền thống đi đôi với nhau. Việc rao truyền niềm tin xảy ra trước hết không qua những bản văn. Trong giáo hội xa xưa người ta nói Kinh Thánh đúng ra "được ghi lại trong trái tim của giáo hội chứ không phải trên những cuộn giấy". Chính những môn đệ và các Tông đồ cảm nghiệm sự sống mới trước hết qua cộng đoàn hiệp thông sống động với Chúa Giê-su. Giáo hội mời gọi con người bước vào cộng đoàn này mà nó tiếp tục tồn tại sau sự Phục Sinh của Người. Các Ki-tô hữu đầu tiên đã "chuyên tâm giữ những lời giảng dạy của các Tông Đồ, tham dự nghi thức bẻ bánh và cầu nguyện" (Cv 2,42). Họ cùng đồng lòng với nhau và dành chỗ cho người khác (trong cộng đồng của họ). Việc này tác động đến niềm tin cho đến ngày hôm nay: Ki-tô hữu mời gọi những người khác đến tìm hiểu một cộng đồng sống với Chúa mà nó được bảo tồn trong giáo hội công giáo kể từ thời các Tông Đồ cho đến ngày hôm nay.
13 - Giáo hội có thể lầm lẫn trong những vấn đề niềm tin hay không?
Cộng đoàn những người tin với toàn bộ những đặc tính chung của nó không thể lầm lẫn trong niềm tin, vì Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài rằng Ngài sẽ sai Thần Khí của sự thật đến với họ và Người sẽ gìn giữ họ trong sự thật (Ga 14,17). [80-82, 85-87, 92, 100]
Giống như các môn đệ của Chúa Giê-su đã từng tin với hết tâm hồn, một Ki-tô hữu có thể tin tưởng vào giáo hội nếu như người đó tìm hiểu về con đường dẫn đến sự sống. Vì chính Chúa Giê-su đã trao sứ mạng dạy dỗ cho các Tông Đồ, giáo hội có sứ vụ giảng dạy và không được phép im lặng. Những thành phần cá nhân trong giáo hội có thể lầm lẫn và thậm chí gây nên những lỗi lầm nghiêm trọng, nhưng giáo hội, là một tổng thể, không bao giờ rơi ra khỏi chân lý của Thiên Chúa. Giáo hội mang theo một sự thật sống động xuyên qua các thời đại, mà sự thật đó còn to lớn hơn cả chính giáo hội. Ta nói đến việc depositum fidei, đến việc bảo tồn giá trị của niềm tin. Nếu như một chân lý như thế bị chối bỏ cách công khai hoặc bị làm méo mó đi, giáo hội được mời gọi làm sáng tỏ "điều đã luôn luôn được tin nhận ở khắp mọi nơi, bởi tất cả mọi tín hữu" (Thánh Vinzenz thành Lérin, † 450).
14 - Kinh Thánh có thật hay không?
Kinh Thánh dạy về chân lý một cách "bảo đảm, trung thực và không có sự lầm lẫn" vì Kinh Thánh được linh ứng, có nghĩa là được viết ra nhờ tác động của Chúa Thánh Thần và vì thế có "Thiên Chúa là căn nguyên" (Công Đồng Vatican 2, Dei Verbum 11). [103-107]
Sách Kinh Thánh không phải được hoàn tất rồi từ trên trời rơi xuống, cũng không phải là do Thiên Chúa đọc lên cho con người viết ra như một cái máy. Trên hết, Thiên Chúa tuyển chọn ra "những con người để viết lên Kinh Thánh, những người này là những tác giả ghi lại những tất cả những gì và chỉ những gì Thiên Chúa muốn được ghi lại, để phục vụ Ngài, qua việc sử dụng những khả năng và sức lực riêng của họ" (Công Đồng Vatican 2, Dei Verbum 11). Để có thể công nhận những bản văn nhất định là Kinh Thánh cũng cần có sự chấp thuận chung trong è giáo hội. Trong các cộng đoàn phải có một sự đồng thuận: "Vâng, chính Thiên Chúa nói với chúng tôi qua văn bản này - việc này được Chúa Thánh Thần linh ứng!" Những văn bản nào từ rất nhiều văn bản của các tín hữu thời sơ khai thật sự được linh ứng bởi Chúa Thánh Thần, được xác định rõ trong Kanon (bộ những bản văn được giáo hội công nhận là thuộc về Kinh Thánh) từ thế kỷ thứ 4 trở đi.
15 - Làm thế nào Kinh Thánh có thể là "sự thật" được khi không phải tất cả những gì ghi ở trong đó là đúng?
Kinh Thánh không có ý truyền đạt sự chính xác trên phương diện lịch sử hay những hiểu biết trên phương diện khoa học. Các tác giả ghi lại Kinh Thánh cũng là những con người chịu ảnh hưởng bởi thời điểm họ sống. Họ cũng cùng có chung những suy tưởng ảnh hưởng bởi nền văn hóa của môi trường chung quanh và cũng chịu ảnh hưởng mạnh bởi những lầm lẫn của các suy diễn này. Tuy nhiên, tất cả những gì con người muốn biết về Thiên Chúa và đường lối cứu độ của Ngài, đều có thể tìm thấy trong Kinh Thánh. [106-107, 109]
16 - Ta phải đọc Kinh Thánh cách nào cho đúng?
Ta sẽ đọc Kinh Thánh các đúng đắn nếu như ta đọc với tinh thần cầu nguyện, có nghĩa là với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần bởi dưới tác động của Ngài Kinh Thánh được hình thành. Kinh Thánh là Lời Chúa và trong đó chứa đựng những thông điệp quan trọng của Thiên Chúa gửi đến chúng ta. [109-119, 137]
Sách Phúc Âm là một bức thư dài của Thiên Chúa gửi cho chúng ta. Vì thế tôi phải đón nhận Kinh Thánh với sư yêu mến lớn lao và với niềm kính trọng: Trước hết có nghĩa là phải thật sự đọc bức thư của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là không được tự ý lấy ra từng phần nhỏ và bỏ đi tính tổng thể của nó. Tôi phải suy giải cái tổng thể hướng về điểm trọng tâm và mầu nhiệm của nó: đó là Chúa Giê-su Ki-tô, toàn bộ Kinh Thánh nói về Người, Cựu Ước cũng làm như thế. Tôi phải đọc Kinh Thánh trong niềm tin chung và sống động của giáo hội, Kinh Thánh hình thành từ niềm tin này. è 491
Các sách trong Phúc Âm (Kanon)
CỰU ƯỚC (46 cuốn)
Các sách sử
Khởi Nguyên hay Sáng Thế Ký (Kn), Xuất Hành (Xh), Lê vi (Lv), Dân Số (Ds), Sách Thứ Luật (Đệ Nhị Luật: ?), Sách Gio-suê (Gs), Sách Thẩm Phán (Thủ Lãnh: ?), Sách Bà Rúth, Sách Sa-mu-en 1 (1 S), Sách Sa-mu-en 2 (2 S), Sách Các Vua 1 (1 V), Sách Các Vua 2 (2 V), Sách Ký Sự I, Sách Ký Sự II, Sách Ezra (Ét-ra), Sách Nê-hê-mia, Sách Tô-bi-a, Sách Giu-đi-tha, Sách Esther (Ét-te), Sách Ma-ca-bê I, Sách Ma-ca-bê II
Các sách dạy lẽ khôn ngoan
Sách Gióp, Sách Thánh Vịnh, Sách Châm Ngôn, Sách Giảng Viên, Sách Diễm Ca, Sách Khôn Ngoan, Sách Huấn Ca
Các Tiên Tri
Sách Tiên Tri I-sai-a, Sách Tiên Tri Giê-rê-mia, Sách Ai Ca, Sách Ba-rúc, Sách Tiên Tri Ê-dê-ki-en, Sách Tiên Tri Đa-ni-en, Sách Tiên Tri Hô-sê, Sách Tiên Tri Giô-en, Sách Tiên Tri A-mốt, Sách Tiên tri A-bi-đa, Sách Tiên Tri Giô-na, Sách Tiên Tri Mi-ca, Sách Tiên Tri Na-hum, Sách Tiên Tri Ha-ba-cúc, Sách Tiên Tri Xô-phô-ni-a, Sách Tiên Tri Ha-gai, Sách Tiên Tri Za-cha-ri-a, Sách Tiên Tri Ma-la-chi.
TÂN ƯỚC (27 cuốn)
Tin Mừng nhất lãm
Mát-thê-ô (Mt), Mác-cô (Mc), Lu-ca (Lc), Gio-an (Ga)
Công Vụ Tông Đồ (Cvtđ)
Các thư của thánh Phao-lô
Rô-ma, 1 Cô-rin-thô, 2, Cô-rin-thô, Ga-la-te, Ê-phê-sô, Phi-líp-pê, Kô-lô-sê, Thê-xa-lô-ni-ca, 1 Ti-mô-thê, 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, Phi-lê-môn, Do Thái.
Các thư công giáo
Thư Gia-cô-bê, 1 Phê-rô, 2 Phê-rô, 1 Gio-an, 2 Gio-an, 3 Gio-an, Giu-đa.
Khải Huyền
Sách Khải Huyền của thánh Gio-an
17 - Cựu Ước có ý nghĩa gì đối với người Ki-tô hữu?
Trong Cựu Ước Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng Tạo Dựng và Cứu Cánh của thế giới và là Đấng hướng dẫn và dạy dỗ con người. Những sách trong Cựu Ước đều là Lời của Thiên Chúa và là Sách Thánh. Nếu không có Cựu Ước ta không thể hiểu được Chúa Giê-su. [121-123, 128-130, 140]
Trong Cựu Ước một lịch sử vĩ đại về bài học niềm tin được bắt đầu. Lịch sử này tiếp diễn qua một biến cố quyết định trong Tân Ước và đi đến chung cuộc với sự cánh chung của thế giới và việc trở lại của Đức Ki-tô. Trong quá trình này, Cựu Ước có ý nghĩa sâu xa chứ không chỉ là một phần "dạo đầu" của Tân Ước. Các điều răn, những lời tiên báo cho dân tộc của giao ước cũ và những lời Chúa hứa không bao giờ bị rút lại. Trong các sách của Cựu Ước người ta có thể tìm thấy một kho tàng không thể thay thế được gồm những lời cầu nguyện và lẽ khôn ngoan; đặc biệt là những lời Thánh Vịnh thuộc về những lời nguyện của giáo hội.
18 - Tân Ước có ý nghĩa nào đối với người Ki-tô hữu?
Trong Tân Ước sự mặc khải của Thiên Chúa được hoàn tất. Bốn Tin Mừng của thánh Mát-thê-ô, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an là phần trọng tâm của Kinh Thánh và là kho báu vô giá của giáo hội. Trong Tin Mừng Chúa Con mặc khải chính mình và gặp gỡ chúng ta. Trong sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta được biết đến buổi sơ khai của giáo hội và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Trong các thư của các thánh Tông Đồ, chúng ta sẽ thấy, cuộc sống của con người với tất cả những nét đặc trưng của nó được đặt trong ánh sáng của Đức Ki-tô. Trong sách Khải Huyền chúng ta có thể cảm nhận trước được thời cánh chung. [124-127, 128-130, 140]
|
|