|
Piô Phan Văn Tình, CMS.
CHUYỆN TÌNH HAI NỖI KHÁT
Một chén nước nhỏ không thể chứa đựng mặt trời, nhưng nó có thể ôm ấp mặt trời nơi mình. Đó là tiếng vọng yêu đương từ chân trời xa xăm. Tìm nhau, ẩn mình, tất cả chỉ mê ly và chân thật bởi vì đó là cái không không sắc sắc của một mầu nhiệm: một Ai Đó Khác quyến rũ con người:
“Ước gì chàng hôn ta
những nụ hôn chính môi miệng chàng!
Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn rượu.
Mùi hương anh thơm ngát,
tên anh là dầu thơm man mác toả lan,
thoả nào các thiếu nữ mê say mộ mến!
Hãy kéo em theo anh,
đôi ta cùng mau bước!
Quân vương đã vời thiếp vào cung nội,
ngài sẽ là nguồn hoan lạc
vui sướng của chúng em.
Ân ái của ngài, chúng em quý hơn rượu.
Thương yêu ngài phải lẽ biết bao nhiêu!”
(Dc1,1-4)
Con người chỉ bắt gặp, cảm nếm được Đấng Tuyệt Đối qua thông giao tình yêu thần bí. Ngôn ngữ con người chỉ có thể diễn tả được ở góc độ rất hạn hẹp: “hôn”, “ân ái”, “ngọt ngào”, “thơm ngát”, “thơm man mác”, “mê say mộ mến”, “vui sướng”.
“Hôn” là thông điệp của một mối tình nhưng trọn vẹn và sâu sắc nơi “ân ái”. Được như vậy, con người sẽ “say mê mộ mến” và “vui sướng” bất tận vì biết rằng mình chẳng đáng chi:
“Con người là chi
mà Chúa cần nhớ tới,
phàm nhân là gì
mà Chúa phải lưu tâm”
(Tv8,5).
Ấy thế mà vẫn được Đấng Tuyệt Đối say yêu như thiếu nữ trong bài tình ca tự bộc bạch: “Da tôi đen…xin đừng để ý đến da tôi rám nắng: mặt trời đã làm cháy da tôi” (Dc1,5-6).
“Da tôi đen”, nhưng là đen duyên, thế nên Đấng Duy Nhất như bị hớp hồn mải chạy tìm kiếm như là “nửa” duy nhất của Ngài vậy. “Da tôi đen” thế mà tôi vẫn được yêu chiều khiến cho triều thần thiên quốc, cả vũ trụ cũng phải ghen tương:
“Đám con trai của mẹ tôi hằn học với tôi” (Dc1, 6). “Da tôi đen”, chính là phận người hèn hạ, “da tôi đen” là chính hữu hạn con người, “da tôi đen” là những bước chân chậm chạp của kiếp người yếu đuối khiến cho nó hụt bước trong cuộc sánh duyên cùng Đấng Tuyệt Đối để rồi phải thao thức đi tìm khôn nguôi:
“Hỡi người yêu, người lòng em yêu dấu,
hãy nói em nghe anh chăn cừu ở đâu,
để em đây khỏi lang thang thất thểu”
(Dc1,7).
Tại sao con người phải khổ sở đi tìm và yêu một Đấng cứ xa hoài như trò chơi trốn tìm? Và tìm Đấng ấy ở đâu? Vì lẽ chỉ nơi Ngài con người mới được yêu đích thực, chỉ nơi Ngài con người mới no thoả khát vọng hạnh phúc và bổ khuyết bản thể hữu hạn của mình. Ngài ở đâu cho tôi đi tìm gặp ngài? Ngài ẩn hiện nơi cảm nhận hữu hạn của tôi. Thật khổ cho tôi, vì “tôi đã ốm tương tư” (Dc2,5):
“Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây,
kìa chàng đang tới,
nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi.
Người yêu của tôi
chẳng khác gì linh dương,
tựa hồ chú nai nhỏ.
kìa chàng đang đứng sau bức tường nhà,
nhìn qua cửa sổ, rình qua chấn song”
(Dc2,8-9).
Tiếng Đấng Tuyệt Đối chỉ “văng vẳng đâu đây”, chứ không ồn ào như bao tiếng nói khác. Ngài nói nơi tạo vật Ngài đã dựng nên, dấu chứng đã hiển nhiên và rất phổ quát, đâu đâu tôi cũng thấy, thậm chí Ngài ở trong “cung nội” của tôi. Chỉ vì “bức tường nhà”, “chấn song cửa sổ”, khiến cho tôi phải xa cách Ngài, khiến tôi phải khổ. Đúng như Đấng Tình Quân đã tuyên bố: “Một ít nữa anh em sẽ không thấy Thầy, một ít nữa anh em sẽ lại thấy Thầy” (Ga16,16). “Một ít”, sao mà xa xôi đến thế, “một ít” mà “ví tựa ngàn năm” (2Pr3,8) vậy, một “bức tường nhà” mà như xa ngàn khơi?
“Tường nhà”, “chấn song” là hữu hạn kiếp người, là những màn đêm dày đặc che khuất Đấng Tuyệt Đối. Lẽ ra tôi đã được diện đối diện gặp Ngài chứ không chỉ “nhìn thấy sau lưng” (Xh33,22-23). Ấy thế mà “bức tường nhà”, “chấn song cửa sổ” đã là vật cản tôi đến với Ngài. Tôi xác tín rằng: "ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!" (Tv90,4). Nghĩa là có che khuất là che khuất đối với tôi, có xa ngàn khơi là xa đối với tôi, có lâu ngàn ngày là lâu đối với tôi chứ đối với Ngài thì trước sau như một, vì "Ngài là Alpha và Omega, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng" (Kh1,8).
Cố nhiên tôi buồn nhưng tôi nghiệm ra rằng "không ai nhìn thấy tôn nhan Ngài mà vẫn đang sống" (Xh33,20). Hơn nữa chính những đêm tối kia mới thực là chất xúc tác cho sự tác hợp giữa tôi với Ngài, là yếu tố “giao”nuôi niềm hy vọng khôn nguôi cho tôi, tăng khát vọng trong trái tim yếu nhược của tôi, khiến cho tôi:
“Suốt đêm, trên giường ngủ,
tôi tìm người lòng tôi yêu dấu.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!
Vậy tôi sẽ đứng lên,
đi rảo quanh khắp thành,
nơi đầu đường cuối phố,
để tìm người yêu dấu của lòng tôi.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!”
(Dc3,1-2).
Cuộc tìm kiếm như “mò kim đáy bể”, nhưng vì con người không thể sống mà không đi tìm Tuyệt Đối. Con người như điên như dại, trong lòng, trong trí và trên môi miệng lúc nào cũng chỉ “biết” có Tuyệt Đối:
“Đang tuần tiễu trong thành,
bọn lính gác gặp tôi.
Tôi hỏi họ: 'các anh có thấy chăng
người lòng tôi yêu dấu?'” (Dc3,3).
Tôi tự hỏi lòng mình rằng có phải vì hữu hạn kiếp người đã làm tôi có cảm giác xa Ngài hay vì lòng tôi nghi ngại? Nếu vì giới hạn con người thì rồi cũng đến ngày, đến giờ tôi được gặp “người lòng tôi yêu dấu”, bù lại những năm tháng vất vả tìm kiếm, có khi đến tuyệt vọng. Nhờ kiên nhẫn trong ý chí say yêu điên cuồng, tôi được Đấng Tuyệt Đối cho gặp, dẫu một chút thôi, một ánh mắt trìu mến thôi đủ làm no thoả tràn ngập tim tôi, bởi tôi đã quá khát mong, bất thoả triền miên, khát đến thiêu đốt tâm can: “tâm trí tôi thao thức, ruột gan tôi bồi hồi” (Gr23,9). Nhược bằng nếu lòng tôi nghi ngại thì việc xa Ngài là hệ quả nghiễm nhiên tôi phải chịu và tôi cần phải thanh luyện lòng mình trong lời cầu xin tha thiết đồng thời với lòng khiêm hạ thống hối, tôi xứng đáng nhận lấy lời trách yêu của Đấng Tình Quân: “sao kém tin thế!”, “nếu lòng tin của anh em lớn bằng hạt cải thì anh em có thể chuyển núi dời non”. Vì lý do đó mà lúc nào tôi cũng trong tình trạng tỉnh thức sẵn sàng cho một cuộc gặp gỡ bất chợt, xử sự của tôi lúc này là:
“Vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra
cho tới khi đưa vào nhà thân mẫu,
tới khuê phòng người đã cưu mang tôi”
(Dc3,4).
Tôi chẳng hiểu được vì sao tôi lại “lì” và “liều” đến thế, có lẽ vì tôi yêu nên tôi điên, có lẽ cũng vì Đấng ấy say yêu tôi nữa nên đã để mặc tôi níu kéo về “nhà thân mẫu”, về “khuê phòng”. “Nhà thân mẫu” ở đây chính là Hội Thánh. Hội Thánh là mẹ muôn người, là mẹ của riêng mỗi người, là mẹ của riêng tôi. Tôi hãnh diện vì có người mẹ không chỉ đảm đang lo cho tôi và anh em tôi có đủ mọi phương tiện để chúng tôi cùng đến gặp Đấng Tình Quân mà còn là hình ảnh vô cùng thánh thiện của Đấng Tuyệt Đối, hơn nữa, mẹ tôi chính là Thân Mình Đấng Tình Quân. Vậy nên, tôi có thể xác định ngay được vị trí của tôi: “giữa lòng mẹ Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu”. Còn “khuê phòng” chính là lòng tôi, lòng tôi là cả một vườn hoa lá, ngát mùi thơm, hương thơm của lòng tôi không do sức riêng tôi nhưng do Thần Khí của Đấng Tình Quân đã điểm trang cho tôi. Tôi không hãnh diện vì nét đẹp con người do tôi nỗ lực nhưng hãnh diện vì vẻ đẹp của Thần Khí Tình Yêu, hãnh diện vì Đấng Tình Quân đến “khuê phòng” tôi, có chăng “tôi vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của mình để sức mạnh của Chúa Kitô ở mãi trong tôi” (2Cr12,9). Đây là cơ sở để tôi xác tín rằng: “Thiên đàng chính là lòng tôi”, lòng tôi có Tình Yêu là đã có tất cả rồi.
Nhiều lúc tôi cứ ngỡ chỉ riêng mình đi tìm kiếm, khao khát say yêu Tình Yêu theo kiểu: “tình đơn phương”. Nhiều người cũng nhạo cười tôi rằng “đồ điên!”. Họ cho rằng tôi đi tìm cái hư ảo, họ rủ rê, khuyên nhủ tôi nên đi tìm cái thực dụng hơn, thiện cận hơn có thể cân đo đong đếm được, nhưng tôi nào có chịu nghe theo. Tôi đi ngược dòng chảy của muôn người: Tôi “là người tìm kiếm điều người ta tránh và tránh điều người ta tìm” (ĐGH Paul VI), nên tôi bị xếp vào hạng người “mát”. Còn Tình Yêu thì sao? Ngài đã đi bước trước: “không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga15,16) và Ngài còn điên dại hơn tôi, trước khi tôi bị người ta gọi là mát thì ngài đã bị liệt vào hạng người điên rồi: “tôi tớ không lớn hơn chủ nhà” (Ga15,20), chủ nhà mà người ta còn gọi là quỷ (Mt12,24) phương chi tôi.
Ngài đi bước trước, đánh thức tôi dậy đang khi tôi ngủ trong sự lơ đãng vô tâm, trong sự yếu đuối hèn hạ, đam mê, ích kỷ, tội lỗi:
“Dậy đi em, bạn tình của anh,
người đẹp của anh, hãy ra đây nào!
Tiết đông giá lạnh đã qua,
mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi.
Sơn hà nở rộ hoa tươi
và mùa ca hát vang trời về đây.
Tiếng chim gáy văng vẳng
trên khắp đồng quê ta.
Vả kia đã kết trái non,
vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào.
Dậy đi em, bạn tình của anh,
người đẹp của anh, hãy ra đây nào!”
(Dc2,10-13).
Hồn tôi hỡi! Sợ gì nào! Tình Yêu đang ở bên tôi, ở trong “cung nội” của tôi kia mà: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt14,27). Tôi sợ vì thấy mình vô cùng yếu đuối, tội lỗi, tôi là con cháu của Ađam, ông tổ loài người. Ngày xưa cũng vì nỗi sợ hãi ấy mà họ đã trốn tránh diện kiến thánh nhan vinh hiển của Đức Chúa: “Ngươi ở đâu? Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn” (St3,9-10).
Thiên Chúa thuỷ chung trước sau vẫn kiên nhẫn, đầy từ bi xót thương với con người, cho nên:
“Hồn tôi hỡi cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa,
tôi còn tán tụng Người.
Người là Đấng cứu độ,
là Thiên Chúa của tôi” (Tv41,12).
Mãi mãi Ngài say yêu con người. Con người vẫn sẽ mãi là đối tượng tìm kiếm khôn nguôi của Ngài, lời tha thiết ngọt ngào này dành cho con người:
“Bồ câu của anh ơi,
em ẩn trong hốc đá,
trong vách núi cheo leo.
Nào cho anh thấy mặt,
nào cho anh nghe tiếng,
vì tiếng em ngọt ngào
và mặt em duyên dáng” (Dc2,14).
Tôi suy đi nghĩ lại trong lòng rằng lý do yêu là gì? Tại sao Thiên Chúa phải thân hành đi tìm con người? Nếu yêu mà có lý do thì không còn gọi là yêu nữa vì tự bản chất tình yêu có những “lý lẽ mà lý trí không hiểu được”. Đúng hơn lý do duy nhất yêu là vì yêu, đơn giản thế thôi.
Có người sẽ hỏi mức độ của yêu mến? Câu trả lời đã được tìm thấy ngay nơi bản chất yêu. Tình yêu tràn trụa tự nhiên chứ không gưỡng ép, không cân đo đong đếm được, chính xác hơn phải nói “mức độ yêu mến là yêu mến không mức độ”.
Câu trả lời cho lý do tại sao Thiên Chúa đến với con người đã được tìm thấy trong Gioan 4,8.16: “Thiên Chúa là tình yêu”. Tình yêu là huyền nhiệm không lý lẽ nào thấu triệt được, ai say yêu sẽ được nếm hưởng.
Vì lẽ:
“Con người là chi
mà Chúa cần nhớ tới,
phàm nhân là gì
mà Chúa phải lưu tâm"
(Tv8,5)
"Ấy con người khác chi hơi thở,
vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu”
(Tv144,4; Kn2,5; G14,2).
Ấy thế mà Ngài vẫn cứ say yêu, bất chấp tôi xấu xa như thế nào: “da tôi đen”, mọi người chê cười, còn Ngài cho đó là “đen duyên” và hết lời khen ngợi dành cho tôi:
“Nàng đẹp quá, bạn tình ơi, đẹp quá!
Sau tấm mang the, đôi mắt nàng,
cặp bồ câu xinh đẹp.
Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn dương…
Răng nàng trắng tựa đàn vật sắp xén lông,
đàn vật vừa lên từ suối tắm,
hai hàng sao đều đặn,
không chiếc nào lẻ đôi!
Môi thắm chỉ hồng, miệng duyên dáng,
má đỏ hây hây màu thạch lựu
thấp thoáng sau tấm mang the” (Dc4,1-3).
Tôi tự hỏi mình có đẹp được như Ngài khen không hay là lời khen ngợi của Ngài thuộc vào những lời “nịnh đầm” mà người ta quen dùng cho phái yếu? Con người là những sản phẩm trong bàn tay Thiên Chúa, Ngài là ông chủ, là thợ gốm, chính Ngài đã tạo dựng nên con người, há chẳng phải Ngài rõ lắm sao:
“Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con,
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước...
Tảng phủ con chính Ngài đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con”
(Tv139,5.13).
Ngài là nguồn chân, thiện, mỹ chẳng lẽ cái mà Ngài đã làm ra lại không đẹp tự bản chất ư? Quả thật, con người đẹp, nét đẹp của con người huyền nhiệm dường nào, nhưng vẫn còn đó “tấm mang the” che khuất tầm nhìn. “Tấm mang the” là trần gian, là giới hạn con người, chúng tạm thời che khuất công trình huyền nhiệm của Thiên Chúa. Mọi sự có thể che khuất được tầm nhìn hạn hẹp của con người, vũ trụ nhưng đời đời vẫn sẽ không che khuất được Đấng Sáng Tạo nên nó. Mọi sự hiển nhiên, minh bạch trước mắt Ngài, Ngài nhìn thấy toàn diện:
“Bạn tình ơi, toàn thân nàng xinh đẹp”
(Dc4,7).
Hội Thánh là hình ảnh đại diện cho toàn thể nhân loại, là thân mình của Chúa Kitô. Trong cuộc tình duyên này, Hội Thánh xứng đáng nhận lời này:
“Nơi nàng chẳng một chút vết nhơ”
(Dc4,7).
Việc thân hành đến với con người trong phận hèn hạ, trong chỗ rốt hết của kiếp người đã là một sự bất thường rồi phương chi Ngài còn chết đi cho con người “được sống và sống dồi dào” (Ga10,10):
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa,
không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân,
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự” (Pl2,6-8).
Đây quả là mầu nhiệm tình yêu, cũng là lý lẽ của con tim:
“Này em gái của anh,
người yêu anh sắp cưới,
trái tim anh, em đã chiếm mất rồi!”
(Dc4,9).
Ai chiếm được trái tim Thiên Chúa há chẳng phải là Hội Thánh, gồm toàn bộ nhiều trái tim đang thổn thức vì yêu. Chúa Kitô đến thế gian cũng cùng một lời lẽ như thế: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tới nữa, nhưng là bạn hữu của Thầy”, hơn thế nữa “Thầy đến ném lửa vào trái đất và Thầy những mong cho lửa ấy bùng cháy lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc12,49-50). Ngọn lửa ấy vẫn đang cháy, đang âm ỉ khắp mọi nơi, trong lòng từng linh hồn say yêu Chúa Kitô đêm ngày. Vậy nên:
“Mắt em, chỉ một liếc nhìn thôi,
cổ em, chỉ một vòng kiềng trang điểm,
đã đủ chiếm trọn vẹn trái tim anh”
(Dc4,9).
Cả hai chiếm đoạt lẫn nhau và linh hồn cũng như Chúa Kitô đều say ngất trong hương tình ái, mọi sự đạt đến đỉnh điểm trong một cuộc thần hiệp, đây là lời Chúa Kitô nói với linh hồn trong hương tình ái:
“Này em gái của anh,
người yêu anh sắp cưới,
ân ái của em dịu ngọt dường nào,
ân ái của em nồng nàn biết mấy,
nồng nàn hơn cả rượu!” (Dc4,10).
Hương thơm thanh khiết, vị ngọt lịm nhân đức cẩn trọng là mẹ mọi nhân đức nơi linh hồn làm vui say Đấng Tình Quân:
“Em ngan ngát hương thơm,
hơn muôn loài phương thảo.
Người yêu sắp cưới của anh ơi,
môi em thơm mật ngọt,
lưỡi em chan chứa mật ngọt sữa ngon.
Áo em toả hương thơm ngào ngạt
tựa hương núi Libăng” (Dc4,10-11).
Hương thơm ấy, vị ngọt ấy, ân ái đó linh hồn chỉ dành riêng cho Đấng Tình Quân. Chỉ có Ngài mới xứng đáng được nếm hưởng hoa trái thanh khiết đầu mùa. Vả lại, không phải ai cũng nhận ra nét đẹp ấy nơi linh hồn, ngay linh hồn còn không hiểu được mầu nhiệm quang toả nơi mình, ấy thế con người mới kháo nhau rằng: "con người là một bí ẩn". Bí ẩn không bao giờ và không ai có thể khám phá trọn vẹn được ngoài Đấng Tình Quân, chỉ có Ngài mới nhận ra và say yêu mà thôi. Ngài hiểu linh hồn hơn nó hiểu mình. Nhưng nét đẹp của linh hồn một khi bung ra mời gọi khách qua đường, khách làng chơi, thay vì chỉ mời Đức Kitô thì linh hồn chỉ còn là con số không vì vốn tự bản chất linh hồn không là gì cả, chỉ là không không: như hạt lúa mì gieo bên vệ đường, người qua kẻ lại chà đạp, chim trời phá tan hoang, cát bụi phong trần… (Mt13,4-7). Nó đẹp được là nhờ nó kết hợp, được tiến lại gần Đấng Tình Quân, là nguồn mạch chân, thiện, mỹ. Một thanh sắt rỉ sét được cho vào lò luyện thép thế nào thì linh hồn cũng như thế khi nó được thông dự vào thiên tính của Ngài. Nó có sức sưởi ấm, có khả năng quang toả ánh sáng là nhờ “Mặt Trời Chân Lý chiếu qua tim”.
Bởi vậy, nó càng phải canh phòng luôn, cần tỉnh thức liên lỉ lý do là vì “ma quỷ như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr5,8).
Chúa Kitô đã say yêu, nên muốn linh hồn độc quyền thuộc về mình, bởi vậy, lời này dành riêng cho linh hồn:
“Này em gái của anh,
người yêu anh sắp cưới,
em là khu vườn cấm,
là dòng suối canh phòng nghiêm mật,
là giếng nước niêm phong” (Dc4,12).
Đối với Chúa Kitô, việc được gặp gỡ, được kết hợp thân tình, được ở lại trong “khuê phòng” của linh hồn chính là thiên đàng của riêng Ngài rồi, ở đó Ngài được no thoả cùng với linh hồn:
“Em là vườn địa đàng
xanh non mầm thạch lựu
đầy hoa thơm trái tốt…
Này em gái của anh,
người yêu anh sắp cưới,
vườn của anh, anh đã vào rồi,
đã hái mộc dược, hái cỏ thơm,
đã ăn mật, ăn cả tảng mật ngọt,
đã uống sữa, uống rượu dành cho anh” (Dc4,13-5,1).
Khi chiêm ngưỡng niềm hoan hỷ của Chúa Kitô, triều thần thiên quốc và mẹ Hội Thánh cũng đồng thanh tán thành rằng:
“Hãy ăn đi, này đôi bạn chí thiết,
uống cho say, hỡi những kẻ si tình!” (Dc5,1)
Nơi chốn diễn ra một cuộc thần hiệp là “khuê phòng”, là “cung nội”, là “vườn”, là “lòng tôi”. Trước khi mời Đức Kitô vào “nhà mình”, linh hồn cầu xin làn gió Thần Linh mát dịu thổi vào, chính Thần Khí là tình yêu trong cuộc thần hiệp của đôi bạn:
“Gió bấc thổi lên đi,
gió nam hãy ùa tới,
thổi mát vườn của tôi,
cho hương thơm lan toả!” (Dc4,16).
Giờ đây, linh hồn đã hân hoan tự tin:
“Người tôi yêu cứ vào vườn của chàng”, để hai ta cùng nhau “thưởng thức hoa thơm trái tốt” (Dc4,16). “Vườn” là của “nàng” nhưng nàng vẫn nói “của chàng”, vì xác tín rằng Đấng Tình Quân là Đấng Sáng Tạo nên tôi, do đó tôi thuộc về Ngài, hơn nữa khi tôi yêu, tất cả của tôi chỉ còn là của Ngài mà thôi. Tôi đã trao hết cho Ngài và chính khi trao hết cho Ngài, tôi lại chiếm được Ngài là tất cả.
Cuộc đời dang dở này như kéo theo sự dang dở trong tôi làm cho tôi đau đớn, làm cho tôi buồn phiền, chán nản. Sự bi đát của cuộc đời có khi như nhấn chìm được tôi vậy. Tôi tự hỏi mình đã thuộc về “Người Lòng tôi yêu dấu”, đã trao tất cả cho Ngài sao còn phải dang dở, còn phải lang thang một kiếp con người hèn hạ, bần tiện:
“Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con:
‘Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi?’
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
‘Này Thiên Chúa ngươi đâu?'”
(Tv41,10-11).
Nhiều lúc, tôi như gặp được Ngài, như được ở bên Ngài, nghe tiếng Ngài gõ cửa, mời gọi mà sao lại xa cách lắm thay. Ngài khiến cho tôi không khi nào yên nghỉ, cho nên dẫu có ngủ:
“Nhưng lòng tôi chợt thức,
có tiếng người tôi yêu gõ cửa:
‘mở cửa cho anh vào,
hỡi em gái, người bạn tình của anh,
hỡi bồ câu, ôi mười phân vẹn mười!
Này đầu anh, lớp sương dày đã phủ,
và tóc anh, đêm khuya làm đẫm ướt”
(Dc5,2).
Ngài gọi, tiếng gọi tha thiết như nài van. Vì đã say yêu nên việc phải ở xa, ở ngoài cửa lòng tôi làm cho Ngài đau đớn, làm cho Ngài lạnh giá với cả một “lớp sương dày đã phủ” lên đầu Ngài.
Con người tôi vốn ươn hèn, và vì nó mà tôi đâm ra chậm trễ, tôi lại để tuột mất Ngài. Khốn thân tôi, tôi “lo lắng nhiều sự quá”, trong khi đó chỉ có một sự cần thiết mà thôi là “lắng nghe lời Thiên Chúa” (Lc10,38-42), mau ra mở cửa lòng cho người ngự vào. Đây, tôi đáng nhận lời trách yêu của Đấng Tình Quân vô cùng xót thương:
“Em đã cởi xiêm y,
lại mặc vào sao được?
Em đã rửa chân rồi,
lại để lấm hay sao?”
(Dc5,3)
Tôi khóc cho phận mình sao lúc nào cũng lỡ bước, duyên tình tôi chỉ nửa mùa nơi chốn dang dở, những giọt lệ muộn màng cho “lòng tôi rạo rực biết bao nhiêu!” (Dc5,4) giờ này, để rồi dẫu sau đó tôi có “đứng dậy mở cửa cho người yêu” (Dc5,5) thì:
“Chàng đã quay đi khuất dạng.
Chàng đi rồi, hồn tôi như đã mất.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp,
tôi mãi gọi chàng,
không một tiếng đáp?” (Dc5,6)
Ngài ra đi, không phải là sự ruồng bỏ hay như nhiều kiểu yêu đương ngày nay: “bỏ của chạy lấy người”, nhưng Ngài ra đi chỉ vì nơi Ngài đi hiện giờ tôi chưa đến được nhưng sau này tôi sẽ lên cùng Ngài (Ga13,36). Ngài ra đi để lòng tôi rộng lớn trong khát vọng yêu, Ngài ra đi để kiện toàn và thanh luyện lòng tôi, Ngài ra đi để tôi phải mắc “bệnh tương tư”, một căn bệnh quá hiển nhiên như “nắng mưa là chuyện của trời, tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” vậy. Căn bệnh này chỉ có Đấng Tình Quân mới có thể chữa được, vì lẽ “tâm bệnh phải được chữa bằng tâm”. Hơn nữa, Ngài ra đi thì “có lợi cho anh em” (Ga16,7), bởi "trong nhà Cha có nhiều chỗ ở" nên Ngài ra đi để “dọn chỗ cho anh em” (Ga14,2). “Chỗ” ở đây là nơi nào? Có phải là một không gian nào đó, là trời cao hay đất thấp như Chúa Tể càn khôn phán thế này: “trời là ngai ta, đất là bể dưới chân ta” (Is66,1). Vậy “chỗ” ở đây không thể là một nơi chốn, vì nơi chốn thì hạn hẹp không thể là nơi cư ngụ cho Đấng Tuyệt Đối được, vì vậy tất cả những ai có tham vọng xây nhà cho Đấng Tuyệt Đối ở đều là việc làm “dạ tràng xe cát” (Gv1,14) và cũng rất lố bích trước nhan vinh hiển tuyệt đối của Ngài: “ngươi mà xây nhà cho Ta ư? Ai khiến ngươi xây nhà cho Ta!” (2Sm7,5), vì “trời là của Ta, đất cũng là của Ta…” (Tv113,16).
Đây là câu trả lời của Đấng Tình Quân: “Ta muốn tình yêu chứ đâu cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs6,6; Mt9,13). Như vậy nơi cư ngụ của Thiên Chúa chính là tình yêu, là một tấm lòng, một con tim đang thổn thức yêu. Hơn bao giờ hết lòng mẹ Hội Thánh là nơi ưa thích của Đấng Tình Quân, “Ta sẽ ngự nơi này vì Ta ưa thích” (Tv131,14; 1V9,3). Chúa Kitô vượt qua là để xây dựng và kiện toàn một Hội Thánh xinh đẹp mỹ miều, nhờ Ngài Hội Thánh đạt tới “sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết con Thiên Chúa. Tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep4,13). Nơi lòng mẹ Hội Thánh, linh hồn được kết hợp trọn vẹn với Đức Kitô, được kín múc tình yêu bất diệt trong mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Cho nên ai có lòng yêu thương thì cảm thấy mình liên đới với Hội Thánh và gánh lấy cả những tội bất trung trong Hội Thánh:
"Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl1, 24).
Từ đó, dù có xa Ngài vì phận người yếu hèn, vì muôn sự phù hoa thì tôi vẫn cùng với mẹ Hội Thánh xác tín luôn rằng:
“Tôi thuộc trọn về người tôi yêu,
người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn”
(Dc6, 3).
Tôi không buồn dẫu phận người hiu hắt, đắng cay…vì:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt Trời Chân Lý chói qua tim”.
Như vậy là đã rõ cùng đích và là khát mong tối hậu của hai nỗi khát là sự hoà quyễn trong nhau đến nỗi:
"mình với ta tuy hai mà một,
ta với mình tuy một mà hai"
Kết
Tựu trung, con người hiện hữu trên đời với một niềm thao thức khôn nguôi, niềm thao thức ấy đã được Thiên Chúa đặt nơi bản thể con người. Thế rồi con người mang nơi mình bản tính “khát”, bản tính khát đi đến hành động khát. Tác động khát đầu tiên nơi con người là khao khát sinh tồn. Muốn được sống như mọi tạo vật mà Đấng Tạo Hoá đã dựng nên. Cấp độ khát này rất mạnh, cho nên lắm lúc dẫn con người đi vào tình trạng “duy sinh tồn” với khát vọng thoả mãn “cái dục” vẩn đục: đói ăn, khát uống, nhục tình…Tuy nhiên con người là một hữu thể được dựng nên cho một dự phóng lớn của Đấng Tạo Hoá, nên cấp độ thứ hai sẽ là khát vọng hiện sinh trong thông giao với vũ trụ, với đồng loại và với Đấng Tuyệt Đối. Chính khi con người thông giao với vũ trụ, con người và Đấng Tuyệt Đối là lúc con người sống được trọn vẹn ý nghĩa “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”.
Khát vọng là thế, nhưng vẫn chỉ là khát vọng, chỉ giẫm chân tại chỗ, cho nên con người đã ra đi, thực hiện những hành trình khát vọng khác nhau. Hành trình lớn nhất của đời người chính là ra đi để được yêu, vì chỉ có tình yêu mới có khả năng bổ khuyết cho con người, nhưng tình yêu lớn nhất và viên mãn nhất lại là tình yêu với Đấng Tuyệt Đối. Đấng ấy là tình yêu nên khi nào gặp được Ngài, con người mới đạt tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của bản thể tình yêu. Nhưng phải chăng vì con người hữu hạn hay vì Đấng Tình Yêu tuyệt đối mà con người thao thức khôn nguôi? Câu hỏi như mời gọi từng người đi tìm khám phá huyền nhiệm Tình Yêu.
Phần tôi vẫn cứ chắt chiu niềm khát khao, niềm hy vọng khôn nguôi từng ngày, từng giờ:
“Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trong mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời,
là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến
vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv42,2-3).
Tôi sẽ mong mãi mong hoài và miệt mài cụ thể hoá niềm hy vọng của mình trong ý chí xây dựng đời mình như sau:
“Chấm này nối tiếp chấm kia,
ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút này nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng”.
Vả lại, tôi hoan hỷ cùng đi với mẹ Hội Thánh và anh em tôi, chúng tôi có cùng một đức tin, cùng một niềm hy vọng, cùng một đức mến, cùng một cùng đích là Thiên Chúa tuyệt đối (Ep4,5):
“Người cô yêu đã đi đâu mất rồi,
này hỡi trang giai nhân tuyệt thế?
Người cô yêu đã quay gót phương nao,
để chúng tôi cùng với cô tìm kiếm?”
(Dc6,1).
Chúng tôi “sống chết có nhau”, cùng chia sẻ một "tấm bánh", cùng nâng đỡ dắt dìu nhau, để cùng đạt tới đích đã được dành sẵn cho những kẻ kiên trì trong cuộc đua, mắt đăm đăm hướng về Đấng đã khai mở và kiện toàn niềm tin (Dt12,2), niềm hy vọng và lòng mến trong một lễ hội tình yêu chất chứa sức sáng tạo thường hằng của Ba Ngôi Thiên Chúa, muôn đời chìm ngập trong niềm vui được kết hợp không rời.
|
|