Hạnh Các Thánh Tháng 12


1/12 – Chân phước Gioan Vercelli (khoảng năm 1205-1283)
Ngài sinh gần Vercelli, Tây Bắc Ý. Không biết rõ về cuộc đời ngài lúc đầu. Ngài vào Dòng Đa Minh hồi thập niên 1240 và giữ các chức vụ lãnh đạo trong niều năm. Ngài được bầu làm tổng đại diện Dòng Đa Minh năm 1264, ngài phục vụ gần 20 năm. Ngà nổi tiếng có nghị lực và giản dị, thường đi bộ tới thăm các cơ sở Dòng Đa Minh, thúc giục các tu sĩ sống vâng lời và giữ hiến pháp Dòng.
Ngài được 2 vị giáo hoàng trao trọng trách đặc biệt. ĐGH Grêgôriô X giúp ngài và các tu sĩ Dòng Đa Minh để giúp ổn định nước Ý đang gặp rắc rối với nước khác. Ngài được mời phác thảo chương trình Công đồng Lyon II năm 1274. Tại công đồng này ngài đã gặp Giêrônimô Ascoli (sau là ĐGH Nicôla IV), lúc đó là tổng đại diện Dòng Phanxicô. Thời gian sau, hai vị này được Rôma phái đi điều đình vấn đề liên quan vua Philip III của Pháp. Một lần nữa, chân phước Gioan Vercelli có thể biểu hiện tài thương thuyết và kiến tạo hòa bình.
Sau Công đồng Lyon II, ĐGH Grêgôriô X giao cho ngài nhiệm vụ rao truyền lòng sùng kính Thánh danh Chúa Giêsu. Ngài yêu cầu mỗi nhà nguyện của Dòng Đa Minh đều có bàn thờ tôn sùng Thánh danh Chúa Giêsu, và thành lập những nhóm chống lại việc báng bổ và coi thường. Tới cuối đời, ngài được giao trách nhiệm làm giáo phụ Giêrusalem, nhưng ngài từ chối. Ngài vẫn là tổng đại diện Dòng Đa Minh cho đến khi qua đời.

2/12 – Chân phước Rafal Chylinski (1694-1741)
Ngài sinh gần Buk, thuộc vùng Poznan tại Ba Lan, tên thật là Melchior. Ngài tỏ ra đạo đức rất sớm, nên gia đình gọi ngài là “tu sĩ nhỏ”. Sau khi học xong tại ĐH Dòng Chúa Cứu Thế ở Poznan, ngài gia nhập kỵ binh và và được thăng cấp sĩ quan trong vòng 3 năm.
Năm 1715, ngài vào Dòng Phanxicô ở Kraków, lấy tên dòng là Rafal, và 2 năm sau được thụ phong linh mục. Sau khi làm mục vụ ở 9 thành phố, ngài tới Lagiewniki (miền Trung Ba Lan), và ở đây 13 năm. Ở đâu ngài cũng nổi tiếng là giản dị, giảng hay, đại lượng. Mọi người noi gương hy sinh của ngài. Ngài chơi đàn harp, đàn lute và mandolin để hòa theo các bài thánh ca phụng vụ. Tại Lagiewniki, ngài phân phát lương thực và quần áo cho người nghèo.
Sau khi qua đời, mộ ngài được nhiều khách hành hương kính viếng ở Ba Lan. Ngài được phong chân phước tại Warsaw năm 1991.

3/12 – Thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục, Bổn mạng các xứ truyền giáo (1506-1552)
“Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Lời này cứ lặp đi lặp lại trong đầu vị giáo sư triết học đang có triển vọng thăng tiến nghề nghiệp tại các học viện. Nhưng không để ý lắm tới lời nói đó, vì lúc đó ngài là giáo sư trẻ mới 24 tuổi, dạy tại Paris.
Bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola đã kiên trì thuyết phục và ngài đã theo Chúa Kitô. Ngài theo hướng dẫn của thánh Inhaxiô, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ (nay là Dòng Chúa Cứu Thế). Tại Montmartre, họ cùng khấn Khó nghèo, Khiết tịnh và Làm tông đồ theo chỉ thị của ĐGH.
Ngài thụ phong linh mục tại Venice năm 1537, sau đó ngài đi tàu tới Lisbon rồi đi Đông Ấn, cặp bến tại Goa, Tây duyên hải Ấn Độ. Ngài dành nhiều thời gian ở Ấn Độ, và làm giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế mới thành lập của tỉnh dòng Ấn Độ.
Đi đâu ngài cũng sống với những người nghèo khổ nhất, chia sẻ lương thực và ở những nơi nghèo khhó với họ. Ngài dành nhiều thời gian cho người nghèo và người bệnh, nhất là người phong cùi. Ngài thường không có thời gian ngủ hoặc đọc kinh nhật tụng nhưng, theo thư ngài viết, ngài rất vui.
Ngài đến các đảo ở Malaysia, rồi sang Nhật. Ngài học tiếng Nhật đủ để giảng đơn giản với dân chúng, để hướng dẫn họ, rửa tội cho họ, và lập các hội truyền giáo. Ở Nhật, ngài muốn đến Trung quốc nhưng dự định này không bao giờ hiện thực vì ngài qua đời trước khi thỏa ước nguyện. Di hài ngài hiện nay còn ở Nhà thờ Chúa Giêsu Nhân lành tại Goa.

4/12 – Thánh Gioan Damascô, Giáo phụ (676?-749)
Đa số cuộc đời ngài ở tại tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem. Ngài sinh tại Damascô, học thần học và cổ điển. Sau một thời gian, ngài vào dòng Thánh Sabas.
Ngài nổi tiếng về 3 lĩnh vực. Thứ nhất, bài trừ ngẫu tượng; thứ nhì, luận thuyết (Luận thuyết Exposition of the Orthodox Faith là bản tóm lược các giáo phụ Hy Lạp, và ngài là giáo phụ cuối cùng, và được coi là bộ Tổng luận Thần học của Đông phương); thứ ba, ngài là một trong các thi sĩ nổi tiếng của Giáo hội Đông phương. Ngài rất tôn sùng Đức Mẹ, các bài giảng của ngài về Đức Mẹ đều rất nổi tiếng.

5/12 – Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)
Ngài sinh tại Cappadocia (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), là một trong các giáo phụ của Palestine và được coi là một trong những vị sáng lập đời sống tu trì Đông phương.
Tuổi thơ ngài không hạnh phúc, ngài bị lạm dụng và phải bỏ trốn vài lần, cuối cùng xin tị nạn trong một tu viện. Gia đình thuyết phục ngài trở về, nhưng ngài nhất quyết đi tu. Tuy còn trẻ nhưng ngài có tiếng nhân đức.
Lúc 18 tuổi, ngài đi Giêrusalem, tìm cách sống cô tịch. Ngài được coi là người hoàn toàn sống ẩn tu. Mới đầu ngài sống trong tu viện, ban ngày làm việc, ban đêm cầu nguyện. Lúc 30 tuổi, mỗi tuần ngài được phép sống 5 ngày trong một hang động hẻo lánh để cầu nguyện và đan rổ rá. Cố vấn của ngài là thánh Euthymiô. Sau khi thánh Euthymiô qua đời, thánh Sabas chuyển tới sa mạc gần Giêricô. Nngài sống vài năm ở đây trong một hang động gần suối Cedron. Ngài ăn cỏ dại mọc trên đá. Thi thoảng có người đem cho ngài ít thực phẩm khác, còn nước uống phải đi khá xa mới có.
Khi đã ngoài 50 tuổi, ĐGM thuyết phục ngài chịu chức linh mục để phục vụ và lãnh đạo tu viện. Khi làm viện phụ của một cộng đoàn lớn, ngài cảm thấy mình có ơn gọi sống ẩn tu. Vào các mùa Chay, ngài đi xa một thời gian. Khi thấy nhà dòng gặp khó khăn, ngài giúp đỡ nhiều.
Ngài đi khắp Palestine, rao giảng đức tin và đem được nhiều người về với giáo hội. Lúc 91 tuổi, theo lời của giáo phụ Giêrusalem, ngài tới Constantinople. Ngài bị bệnh, ngay khi vừa trở về thì ngài qua đời tại tu viện ở Mar Saba. Ngày nay, tu viện này vẫn có các tu sĩ Chính thống giáo Đông phương sống ở đó.

6/12 – Thánh Nicôla, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 350?)
Cả Giáo hội Đông phương và Tây phương đều tôn kính ngài. Sau Đức Mẹ, ngài là vị thánh được các họa sĩ Kitô giáo vẽ chân dung nhiều nhất. Theo lịch sử, ngài là giám mục GP Myra, thuộc Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.
Có nhiều truyện về ngài đầy màu sắc xuyên suốt nhiều thế kỷ. Truyện nổi tiếng về ngài có thể liên quan đức bác ái đối với người nghèo, những người không thể cho con gái mình của hồi môn khi đến tuổi kết hôn. Không muốn thấy họ bị ép làm gái mại dâm, thánh Nicôla lấy vàng trao cho các bà mẹ để họ cho con gái làm của hồi môn đi lấy chống. Qua nhiều thế kỷ, truyền thuyết này ảnh hưởng tập tục tặng quà nhau vào ngày lễ kính ngài. Tại các nước nói tiếng Anh, ngài được coi là Ông già Noel.

7/12 – Thánh Ambrôsiô, Giám mục Tiến sĩ (340?-397)
Một trong các nhà viết tiểu sử thánh Ambrôsiô cho rằng, vào ngày phán xét, người ta vẫn phân chia thành 2 phe: những người khâm phục ngài và những người không ưa ngài.
Khi Nữ hoàng Justina tìm cách lấy 2 giáo đường của Công giáo và trao cho những người theo tà thuyết Arian (*), ngài đã thách thức các quan triều đình xử tử ngài. Mọi người ủng hộ ngài ngay trước mặt quân lính. Trong cuộc bạo động, ngài vừa khuyến khích vừa trấn tĩnh dân chúng hát những bài thánh ca mới để mê hoặc họ với những giai điệu Tây phương.
Khi tranh luận với hoàng đế Auxentius, ngài nói: “Hoàng đế ở trong Giáo hội, chứ không ở trên Giáo hội”. Ngài công khai khiển trách hoàng đế Theodosius vì đã sát hại 7.000 người vô tội. Hoàng đế đã ăn năn đền tội. Thánh Ambrôsiô là người chiến đấu, được sai tới Milan với tư cách thống đốc Rôma. Ngài gây ảnh hưởng và hoán cải thánh Augustinô.
Thánh Augustinô nhận thấy thánh Ambrôsiô có tài hùng biện hơn những người đương thời. Các bài giảng của thánh Ambrôsiô thường dẫn chứng gương mẫu của Cicero, tư tưởng của ngài đã ảnh hưởng các nhà tư tưởng và các triết gia đương thời. Ngài không ngại trích dẫn các tác giả ngoại giáo.
Các bài giảng, bài viết và đời sống của ngài cho thấy ngài là người khác thường có liên quan các vấn đề thời đó. Đối với ngài, nhân đạo là điều quan trọng.
Ảnh hưởng của thánh Ambrôsiô đối với thánh Augustinô rất nhiều. Cuốn Tự Thuật (Confessions) của thánh Augustinô cho thấy điều đó. Do đó mà thánh Monica yêu quý thánh Ambrôsiô như thiên thần của Chúa đã hoán cải con trai bà. Chính thánh Ambrôsiô đã đặt tay trên vai thánh Augustinô khi đến giếng rửa tội để gia nhập Công giáo.
--------------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

8/12 – Đức Mẹ Vô Nhiễm
Trong Giáo hội Đông phương, lễ Đức Mẹ được thụ thai có từ thế kỷ VII, truyền sang Tây phương hồi thế kỷ VIII. Thế kỷ XI, lễ này chính thức có tên là Vô nhiễm. Thế kỷ VIII, lễ này trở nên phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Các giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội coi Đức Maria là vị thánh vĩ đại và thánh thiện nhất, nhưng vẫn cho rằng Đức Mẹ khó mà vô nhiễm tội truyền. Và rồi năm 1854, ĐGH Piô IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Thánh Bênađô và thánh Thomas Aquinas cũng không thể coi là sự biện hộ thần học đối với giáo huấn này.
Hai tu sĩ Phanxicô là William Ware và chân phước Gioan Duns Scotus đã giúp phát triển thần học này. Họ chỉ ra rằng ơn Vô nhiễm của Đức Maria làm nổi bật công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu rất mạnh để ngăn ngừa.

9/12 – Thánh Juan Diego, Thị nhân (1474-1548)
Hàng ngàn người quy tụ tại Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ngày 31-7-2002 để tham dự lễ phong thánh cho thị nhân Juan Diego, người đã được Đức Mẹ hiện ra hồi thế kỷ XVI.
Chân phước GH Gioan Phaolô II đã gọi vị thánh này là người Ấn Độ giản dị và khiêm nhường, chấp nhận theo Kitô giáo nhưng không từ chối gốc Ấn Độ. Trong số hàng ngàn người tham dự có 64 nhóm người gốc Ấn Độ ở Mexico.
Mới đầu thánh nhân được gọi là Cuauhtlatohuac (Đại bàng biết nói), và tên ngài vĩnh viễn được gắn liền với Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng, lễ kính ngày 12-12) vì ngài được Đức Mẹ hiện ra tại đồi Tepeyac ngày 9-12-1531. Ngài cho biết những hoa hồng gom từ vạt áo đã hóa thành Đức Mẹ Guadalupe.
Trong chuyến thăm mục vụ tới Mexico năm 1990, chân phước GH Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho thị nhân Juan Diego, và được phong hiển thánh 12 năm sau.

10/12 – Chân phước Adolph Kolping, Linh mục (1813-1865)
Hồi thế kỷ XIX, tại Đức nổi lên hệ thống nhà máy đã thu hút nhiều người tuôn về các thành phố, và họ gặp những thử thách mới đối với đức tin. LM Adolph Kolping là người hướng dẫn mục vụ cho họ, hy vọng họ không bị mất đức tin Công giáo như đã xảy ra với nhiều công nhân khác ở Âu châu được công nghiệp hóa.
Ngài sinh tại làng Kerpen, làm thợ đóng giày vì gia đình khó khăn. Sau đó ngài đi tu và thụ phong linh mục năm 1845, ngài hướng dẫn các công nhân trẻ ở Cologne, thành lập ca đoàn, năm 1849 hội này phát triển thành Hội Công nhân Trẻ (Young Workmen’s Society), một chi nhánh của hội này bắt đầu tại St. Louis, Missouri, năm 1856. Sau 9 năm, có hơn 400 Gesellenvereine (công đoàn) được thành lập trên khắp thế giới. Ngày nay nhóm này có hơn 400.000 thành viên ở 54 quốc gia.
Thường được gọi là Hội Khôi Bình (Kolping Society – quen gọi là Gia Đình Khôi Bình), chú trọng việc thánh hóa đời sống gia đình và chân giá trị của việc lao động. LM Kolping hoạt động để cải thiện điều kiện sống cho công nhân. Ngài và thánh Gioan Bosco ở Turin đều quan tâm làm việc với giới trẻ. Ngài nói với những người theo ngài: “Nhu cầu của thời đại sẽ dạy các bạn biết phải làm gì. Điều đầu tiên tìm được trong cuộc sống và điều cuối cùng cần nắm giữ là đời sống gia đình, đó là điều quý giá nhất mà người ta không nhận ra”.
Ngài và chân phước Gioan Duns Scotus được an táng tại Minoritenkirche, thuộc Cologne. Cơ quan điều hành Hội Khôi Bình quốc tế đặt tại đây. Các thánh viên Khôi Bình đã tới Rôma từ Âu châu, Mỹ châu, Phi châu, Á châu và Úc châu để dự lễ phong chân phước cho LM Kolping năm 1991, dịp kỷ niệm 100 năm Tông thư Rerum Novarum (Tân Sự, nói về trật tự xã hội) của ĐGH Leo XIII. LM Kolping cũng có công góp phần chuẩn bị cho tông thư đầy tính cách mạng xã hội này.

11/12 – Thánh Damasô I, Giáo hoàng (305?-384)
Đối với thư ký của ngài là thánh Giêrônimô, thánh Damasô là “người vô song, hiểu biết Kinh thánh, tiến sĩ Giáo hội, yêu quý đức khiết tịnh”.
Thánh Damasô hiếm khi nghe những lời khen như vậy. Ngài đấu tranh với chính trị, các tà thuyết, không được lòng các giám mục và Giáo hội Đông phương muốn phá triều đại giáo hoàng của ngài.
Ngài là con của một linh mục Công giáo La Mã, có thể là người Tây Ban Nha, ngài bắt đầu với cương vị phó tế tại nhà thờ của người cha, rồi làm linh mục ở một nơi mà sau đó là đền thờ San Lorenzo (Thánh Lôrensô) ở Rôma. Ngài phục vụ giáo hoàng Liberiô (352-366) và theo ngài đi đày.
Khi ĐGH Liberiô qua đời, thánh Damasô được chọn làm giám mục thành Rôma, nhưng ít người bầu và tấn phong phó tế Ursinô làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa thánh Damasô và ngụy giáo hoàng (antipope) nổ ra chiến tranh dữ dội giữa 2 giáo đường, xúc phạm đến các giám mục Ý. Tại công nghị, thánh Damasô kêu gọi mọi người chấp nhận hành động của ngài nhân dịp sinh nhật. Các giám mục trả lời: “Chúng tôi quy tụ đến đây vì sinh nhật của ngài, chứ không kết án một người chưa biết”. Những người ủng hộ ngụy giáo hoàng còn kết án ngài phạm trọng tội – có thể liên quan tình dục – cuối năm 378. Ngài phải tự thanh minh trước tòa án dân sự và công nghị giáo hội.
Khi làm giáo hoàng, ngài sống giản dị, tương phản với các giáo sĩ Rôma, và ngài cương quyết tố cáo và chống lại tà thuyết Arian (*) và các tà thuyết khác. Sự hiểu sai về thuật ngữ Tam vị Nhất thể (Chúa Ba Ngôi) của Rôma đã đe dọa mối giao hảo với Giáo hội Đông phương, ĐGH Damasô là người tương đối thành công trong việc xử lý tình huống này.
Trong triều đại giáo hoàng của ngài, Kitô giáo được công bố là tôn giáo chính của quốc gia Rôma (năm 380), và tiếng Latin là ngôn ngữ phụng vụ. Nngài khuyến khích thánh Giêrônimô nghiên cứu Kinh thánh nên mới có bản Vulgate (bản phổ thông), bản dịch Kinh thánh bằng tiếng Latin được Công đồng Trentô (12 thế kỷ sau) tuyên bố là “xác thực khi đọc chung, khi thảo luận và giảng dạy”.
-----------------------
(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

12/12 – Đức Mẹ Guadalupe (Đức Mẹ Hoa Hồng)
Thế kỷ XVI, một người Ấn Độ nghèo tên là Cuauhtlatohuac được rửa tội nên có tên là Juan Diego. Ông là một người góa vợ, 57 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ gần TP Mexico. Sáng Chúa nhật ngày 9-12-1531, ông đã được Đức Mẹ hiện ra trên đường đi dự lễ.
Khi ông đi bộ ngang qua đồi Tepeyac thì ông nghe tiếng nhạc hay như tiếng chim líu lo. Một đám mây sáng xuất hiện có một cô gái Mỹ mặc áo dài như công chúa Aztec. Đức Mẹ nói với ông bằng tiếng Ấn Độ và bảo ông đến gặp ĐGM Juan de Zumarraga, Dòng Phanxicô, GP Mexicô. ĐGM liền cho xây một nhà nguyện ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra.
ĐGM nói với ông Juan Diego xin Đức Mẹ cho một dấu hiệu. Lúc đó, người chú của Juan Diego bệnh nặng nên ông tránh gặp Đức Mẹ. Đức Mẹ bảo đảm với ông rằng người chú sẽ khỏi bệnh và trao những bông hồng cho ông đựng vào vạt áo để đem về cho ĐGM.
Trước mặt ĐGM, ông mở vạt áo ra, những đóa hồng rơi xuống đất và bao quanh chân ông và tạo thành hình Đức Mẹ như ông đã nhìn thấy ở đồi Tepeyac. Đó là ngày 12-12-1531.

13/12 – Thánh Lucia, Trinh nữ Tử đạo (qua đời năm 304)
Bạn bè của thánh nhân thắc mắc về sự can trường của Lucia. Có lần một người thợ mộc bị lính La Mã đóng đinh, Lucia tin rằng người đàn ông này sống lại. Người thợ mộc đó là Đức Giêsu Kitô. Nước Trời đã tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng Lucia với những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Để thể hiện niềm tin, Lucia đã khấn giữ đồng trinh.
Trinh khiết trước hôn nhân là lý tưởng La Mã cổ, hiếm thấy nhưng không bị kết án. Lucia biết rõ tính anh hùng của các vị tử đạo trinh khiết nên luôn trung thành và sống theo gương của người thợ mộc Giêsu, Con Thiên Chúa.
Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có người nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế là thánh nhân móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì Nước Trời. Thánh Lucia là bổn mạng của những người mù và khiếm thị.

14/12 – Thánh Gioan Thánh giá, Linh mục Tiến sĩ (1541-1591)
Cuộc đời ngài là chuỗi nỗ lực anh dũng. SỰ điên rồ của thập giá được ngài nhận biết: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mà theo Tôi” (Mc 8:34). Mầu nhiệm Vượt qua khiến ngài được coi là nhà cải cách, thi sĩ thần bí và thần học gia.
Ngài là tu sĩ Dòng Camêlô và thụ phong linh mục năm 1567, lúc 25 tuổi. Ngài gặp thánh Teresa Avila và yêu thích luật Dòng Camêlô. Ngài cùng thánh Teresa cải cách dù bị chống đối, bị hiểu lầm, bị hành hạ, bị tù đày. Ngài nhận biết Thánh giá là chính xác. Ngài trải nghiệm cái chết của Chúa Giêsu khi ngài ngồi trong bóng tối hết tháng này qua tháng khác tại một phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, và chỉ cầu nguyện với Chúa. Có nhiều thi sĩ, nhiều nhà thần bí, nhưng ngài là thi sĩ thần bí.
Cả đời ngài sống Mầu nhiệm Thánh giá. Ngài qua đời lúc 49 tuổi – cuộc đời ngắn ngủi nhưng viên mãn.

15/12 – Chân phước Maria Frances Schervier, Trinh nữ (1819-1876)
Bà sinh trong một gia đình đàng hoàng ở Aachen (lúc đó do Prussia cai trị, trước đó là Aix-la-Chapelle của Pháp). Bà chăm lo gia đình sau khi người mẹ qua đời và có tiếng là thương người nghèo. Năm 1844, bà vào Dòng Phanxicô. Năm 1845, bà và 4 người bạn lập dòng chăm sóc bệnh nhân và người già. Năm 1851, Dòng Tiểu muội Người nghèo Thánh Phanxicô (một trong các tên gốc) được giám mục phê chuẩn, cộng đoàn này phát triển rất nhanh. Cơ sở đầu tiên thành lập tại Hoa Kỳ năm 1858.
Bà đến Hoa Kỳ năm 1863 và giúp các chị em chăm sóc các thương binh trong cuộc nội chiến. Bà lại đến Hoa Kỳ năm 1868. Bà đã khuyến khích khi Philip Hoever chuẩn bị thành lập Dòng Huynh đệ Người nghèo của Thánh Phanxicô.
Khi bà qua đời, có 2.500 thành viên trên khắp thế giới. Họ tham gia mở các bệnh viện và Nhà dưỡng lão. Bà được phong chân phước năm 1974.

(Còn tiếp::)