Kinh nghiệm gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô bị đóng đanh và phục sinh đã khiến cho thánh Phaolô lấy Thập Giá làm nền tảng cho thần học và lời rao giảng của người. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến hơn 20.000 tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 29-10-2008. Trong số các đoàn hành hương cũng có một nhóm Nam Hàn và một nhóm Việt Nam.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Thần học thập giá của thánh Phaolô”. Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô chết và phục sinh trên đường đến thành Damasco đã khiến cho Phaolô từ người bắt bớ các kitô hữu trở thành tông đồ của Chúa, và tân hiến trọn cuộc sống cho các linh hồn. Nơi Chúa Kitô chịu đóng đanh Thiên Chúa biểu lộ tình yêu thương nhân thứ nhưng không của Ngài cho tất cả mọi người. Từ đó Phaolô kinh nghiệm được sự cứu rỗi là ”ơn thánh” tuôn trao từ thập giá, chứ không phải do công nghiệp của thánh nhân. Và “Tin mừng ơn thánh” trở thành kiểu duy nhất để hiểu thập giá như tiêu chuẩn cuộc sống mới của thánh nhân và là câu trả lời cho các người khác.

Đức Thánh Cha nói về thần học thập giá của thánh Phaolô như sau: Đối với thánh Phaolô Thập Giá có một quyền tối thượng nền tảng trong lịch sử nhân loại. Nó diễn tả điểm nòng cốt trong nền thần học của thánh nhân, vì nói tới Thập Giá có nghĩa là nói tới sự cứu rỗi như là ơn thánh ban cho mọi thụ tạo. Đề tài thập giá Chúa Kitô trở thành yếu tố chính và đầu tiên trong việc rao giảng của thánh Tông Đồ. Thí dụ rõ ràng nhất là trường hợp của giáo đoàn Côrintô. Trước một giáo đoàn có các chuyện lộn xộn và gây vấp phạm, cũng như các chia rẽ đe dọa sự hiệp nhất của Thân Mình Chúa Kitô, thánh Phaolô loan báo Chúa Kitô chịu đóng đanh. Sức mạnh của ngài không phải là ngôn ngữ thuyết phục, mà ngược lại là sự yếu đuối và run rẩy của người chỉ tín thác nơi ”quyền năng của Thiên Chúa” (x. 1 Cr 2,1-4). Ngoài tất cả những gì nó diễn tả, đối với sứ điệp thần học Thập Giá cũng là sự gây vấp phạm và điên dại: ”Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa... Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và người Hy lạp cho là điên rồ” (1 Cr 1,18-23).

Thánh Phaolô muốn lập lại cho tất cả chúng ta biết rằng Đấng Phục Sinh luôn luôn là Đấng đã bị đóng đanh. Sự vấp phạm và điên dại của Thập Giá là sự kiện ở nơi xem ra chỉ có thất bại, khổ đau và thua trận, thì chính nơi đó lại là tất cả quyền năng Tình Yêu Thương của Thiên Chúa, bởi vì Thập Giá diễn tả tình yêu thương, và tình yêu thương là quyền năng đích thật được mặc khải trong sự yếu đuối bề ngoài ấy. Đối với người Do thái Thập Giá là ”skandalos”, là bẫy sập hay hòn đá gây vấp ngã: xem ra nó cản ngăn lòng tin của tín hữu do thái đạo đức, không tìm thấy gì giống như thế trong Kinh Thánh. Với không ít lòng can đảm ở đây xem ra thánh Phaolô muốn nói rằng thế đứng liên hệ rất cao: đối với người Do thái Thập Giá đi ngược lại chính bản thể của Thiên Chúa, là Đấng tự tỏ hiện ra với các điềm thiêng dấu lạ. Như vậy chấp nhận thập giá của Chúa Kitô có nghĩa là hoán cải sâu đậm trong liện hệ với Thiên Chúa. Nếu đối với ngưới Do thái lý do khước từ Thập Giá là nơi sự Mặc Khải, nghĩa là lòng trung tín với Thiên Chúa của Cha Ông, thì đối với người Hy lạp, tiêu chuẩn phán đoán để chống lại Thập Giá là lý trí. Thật thế đối với họ, Thập Giá là ”moría” sự điên dại, dịch sát nghĩa là thức ăn ”nhạt nhẽo” vô vị, vì thế hơn là một sự sai lầm nó là sự phỉ báng lương tri con người.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói thánh Phaolô đã nhiều lần nếm kinh nghiêm cay đắng lời loan báo kitô bị khước từ và coi là nhạt nhẽo, vô vị, không đáng để cho cái luận lý của trí khôn chú ý. Người Hy lạp trông thấy sự toàn thiện nơi tinh thần, nơi tư tưởng tinh tuyền nên không thể chập nhấn sự kiện Thiên Chúa trở thành người, đắm chìm trong mọi hạn hẹp không gian và thời gian. Một vì Thiên Chúa chịu đóng đanh lại là điều càng không thế chấp nhận hơn nữa. Và chúng ta thấy cái luận lý này của người Hy lạp cũng là cái luận lý chung của thời đại chúng ta ngày nay. Ý niệm ”apátheia” thờ ơ, như là không có đam mê đối với Thiên Chúa làm sao có thể hiểu được một vì Thiên Cháu làm người, và thất bại rồi lại sống trong thân xác như là phục sinh? Khi nghe nói tới viêc người chết sống lại, người dân A thènes khinh dể nói với thánh Phaolô:” Chúng tôi sẽ nghe ông một lần khác vậy” (Cv 17,32). Đối với họ sự toàn thiện là được giải thoát khỏi nhà tù là thân xác, làm sao họ lại không coi việc lấy lại thân xác là một sai lầm được? Trong nền văn hóa cổ xưa xem ra không có chỗ cho sứ điệp của Thiên Chúa nhập thể. Toàn biến cố ”Đức Giêsu thành Nagiarét” xem là là chuyện hoàn toàn nhạt nhẽo, và chắc chắn Thập Giá là điểm biểu tượng nhất.

Rồi Đức Thánh Cha đã đưa ra câu hỏi sau đây: Mà tại sao thánh Phaolô lại biến điều này, biến lời của Thập Giá làm điểm nền tảng cho việc rao giảng của mình? Câu trả lời không khó: Thập Giá vén mở ”quyền năng của Thiên Chúa” (x. 1 Cr 1,24), khác với quyền năng của con người. Thật vậỵ Thập Giá vén mở cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa. Bao nhiêu thế kỷ sau thánh Phaolô, chúng ta thấy rằng trong lịch sử, Thập Giá đã thăng chứ không phải sự khôn ngoan đối chọi với Thập Giá. Đấng bị đóng đanh là sự khôn ngoan, vì thực sự Người cho thấy Thiên Chúa là ai, nghĩa là Người biểu lộ quyền năng của tình yêu đi tới Thập Giá để cứu rỗi con người. Thiên Chúa dùng các phương thế và dụng cụ thoạt nhìn đối với chúng ta chỉ là sự yếu đuối. Một đàng Thập Giá biểu lộ sự yếu đuối của con người, đàng khác nó biểu lộ quyền năng đích thực của Thiên Chúa, nghĩa là sự nhưng không của tình yêu: chính sự nhưng không hoàn toàn đó của tình yêu là sự khôn ngoan đích thực.

Chính thánh Phaolô đã sống kinh nghiệm đó trên da thịt mình và làm chứng cho điều đó trong nhiều chặng trên con đường cuộc sống thiêng liêng của ngài, đến trở thành điểm quy chiếu cho mọi môn đệ Chúa Giêsu: ”Người đã nói với tôi: ơn thánh của Ta đủ cho con: thật vậy quyền năng của Ta tỏ lộ tràn đầy trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9). ; ”Thiên Chúa đã chọn những gì là yêu đuối trong thế giới để hạ nhục những kẽ hùng mạnh” (2 Cr 1,28). Thánh Tông Đồ đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô tới độ tuy sống trong biết bao nhiêu thử thách, ngài vẫn tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến thánh nhân và đã tận hiến chính mình cho tội lỗi của thánh nhân và của tất cả mọi người (x. Gl 1,4; 2,20).

Trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô thánh Phaolô đã cống hiến cho chúng ta một tổng kết thần học Thập Giá thật hay (2 Cr 5,14-21), trong đó tất cả đều được gói ghém trong hai khẳng định nền tảng: một đàng Chúa Kitô bị Thiên Chúa Cha đổi xử như kẻ có tội vì chúng ta, đã chết cho tất cả mọi người; đàng khác Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Ngài, và không bắt tội chúng ta. Từ ”thừa tác hòa giải” đó mọi nô lệ được cứu chuộc. Chúng ta cũng phải bước vào trong ”thừa tác hòa giải” ấy. Nó luôn luôn giả thiết việc khước từ sự cao cả của mình và lựa chọn sự điên dại của tình yêu. Thánh Phaolô đã khước từ cuộc sống của riêng mình bằng cách tận hiến mình cho thừa tác hòa giải, cho Thập Giá, là sự cứu rỗi của tất cả chúng ta. Chúng ta cũng phải biết làm như vậy: chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh trong sự khiêm hạ của tình yêu và tìm thấy sự khôn ngoan trong cái yếu đuối phải khước từ để bước vào trong sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta tất cả phải đào tạo cuộc sống mình theo sự khôn ngoan đích thật ấy: đó là không sống cho chính mình, mà sống trong lòng tin nơi Thiên Chúa mà chúng ta tất cả đều có thể nói rằng ”Người đã yêu thương tôi và đã hiến mạng vì tôi”.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.



Linh Tiến Khải