Love Telling ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 17 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN và Quý Khách: BQT-TCVN xin cáo lỗi cùng ACE vì trục trặc kỹ thuật 2 ngày vừa rồi. Trân trọng! Loan Pham nhắn với Gia Đình TCVN: Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể quý anh chị em một Giáng Sinh ấm áp bên gia đình, người thân và tràn đầy ơn lành từ Chúa Hài Đồng. ThanhCaVN nhắn với TCVN: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 16 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. Edit LM Loan Pham nhắn với TCVN: Kính Chúc Cà Nhà Một Tam Nhật Thánh và Một Mùa Phục Sinh Tràn Đầy Thánh Đức ... Loan Pham nhắn với TCVN: Chúc mừng năm mới đến quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể quý anh chị em tron gia đình TCVN thân yêu... Xin Chúa xuân ban nhiều hồng ân đến mọi người. Amen ThanhCaVN nhắn với ÔB & ACE: Kính chúc Năm Mới Quý Mão: Luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa ThanhCaVN nhắn với Gia đình TCVN: Kính chúc Giáng Sinh & Năm Mới 2023: An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. bethichconlua nhắn với Gia Đình ThanhCaVietNam: Chúc mừng sinh nhật thứ 15 website ThanhCaVietNam. Kính chúc quý Cha, quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể anh chị em luôn tràn đầy ơn Chúa. Amen ThanhCaVN nhắn với Quý ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 15 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca Trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN CHÚA. phale nhắn với cecilialmr: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với thiên thần bóng tối: Nhớ em nhiều lắm ! cầu mong nơi ấy được bình yên. phale nhắn với teenvnlabido: Ngày mai (1/6) sinh nhật của bạn teen / chúc mọi điều tốt lành trong tuổi mới. phale nhắn với tất cả: Xin Chúa cho dịch bệnh sớm qua đi và ban bình an cho những người thành tâm cầu xin Ngài. ThanhCaVN nhắn với ACE: Kính chúc ACE: Giáng Sinh & Năm Mới 2021 - An Bình & luôn tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Chủ đề: Chiến Tích lẫy lừng của Phong Trào Văn Thân

Hybrid View

  1. #1
    teenvnlabido's Avatar

    Tham gia ngày: May 2011
    Tên Thánh: Giuse
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 927
    Cám ơn
    1,503
    Được cám ơn 2,005 lần trong 603 bài viết

    Default


    Trên kia, chúng ta đã thấy những công trình nghiên cứu lịch sử của một học giả Pháp về Văn Thân có rất nhiều điều không chính xác như thế nào rồi!

    Trong khi đó, những nghiên cứu của một giáo như Nhật Bản sau đây đã cho thấy như thế nào mới là những người Văn Thân:


    Công trình nghiên cứu nghiêm túc của một giáo sư Nhật Bản về Văn-thân Việt Nam:

    Mặc dầu cuốn Nước Đại nam đối diện với Pháp và Trung hoa mới chỉ là một luận án tiến sĩ đệ tam cấp bảo vệ năm 1982 tại trường Đại học Khoa học Xã hội Pháp, giáo sư Yoshiharu Tsuboi, sinh năm 1948, đã trình bày thành công nhiều chân dung chính trị xuất sắc trong lịch sử Việt nam khi phải đối phó với tham vọng thực dân của Tây phương. Ông đã mô tả giai cấp Văn-thân một cách sinh động và đầy đủ chưa từng thấy trong các công trình nghiên cứu của các học giả Việt nam.

    Sau đây tôi xin tóm lược những nhận xét của ông về giai cấp Văn-thân.

    Giai cấp Văn-thân:
    Từ văn có nghĩa là chữ và cũng có nghĩa là người biết chữ. Trong xã hội cổ xưa, ở Trung hoa và ở Việt Nam, từ này thông thường dùng để chỉ người có học thức.
    Từ thân có nghĩa chính từ nguồn gốc là cái dải thắt lưng tơ mà viên chức thời Trung hoa xưa cột áo ngang lưng: từ này dùng để chỉ các thân hào, thư lại ở địa phương; hoặc viên chức về hưu. Vậy theo ngữ nguyên, Văn-thân chỉ chung các nhân sĩ, thân hào, thư lại ở địa phương và các viên chức về hưu. Vào thời Tự Đức, hình như từ ngữ này giữ cái nghĩa ấy.

    Từ giai cấp Văn-thân không có nghĩa là thành viên của giai cấp này đều có địa vị xã hội như nhau: nhân sĩ và thân hào, chẳng hạn, có những địa vị xã hội rất khác nhau. Nhưng đa số thành viên của giai cấp có cùng một sự đào tạo cơ bản xã hội văn hoá, nghĩa là họ biết đọc và viết Hán tự. Cho nên, trong khi dân chúng giao dịch với nhau bằng tiếng nôm, các thân hào và nhân sĩ đảm nhận việc phiên dịch cho dân chúng các tuyên cáo chính thức bằng Hán tự mà dân chúng sẽ không hiểu được nếu đọc nguyên văn. Đây là chức vụ trung gian cần thiết của Văn-thân giữa cấp lãnh đạo và quần chúng, đặc biệt quan trọng đối với các cuộc vận động chống Pháp, chống Công giáo; đồng thời sự trung gian này cũng cần thiết trong đời sống hàng ngày.

    Từ nhân sĩ dùng để chỉ nhiều trường hợp. Với nghĩa rộng nhất, thời Tự Đức, từ này chỉ các người có học thức hoặc đang học đạo lý và văn học Trung hoa. Trong hướng này, chức vụ xã hội không được kể đến, nhân sĩ có thể là hoàng đế hay quan chức, thư lại, giáo thụ, thân hào, sĩ tử.v.v.. hoặc cả những người không dự thi tuyển nhưng có hiểu biết về chữ Hán.

    Với nghĩa hạn hẹp, từ nhân sĩ dùng để so sánh với quan chức, chỉ các sĩ tử đang học thi hoặc sinh sống bằng nghề dạy trò nhỏ ở làng học Nho giáo.

    Nhân sĩ đồng thời cũng có nghĩa dân sự đối lập với quân sự.
    Trung tâm của giới nhân sĩ là nhóm tú tài, một vị trí không rõ rệt giữa quan và dân: gần thành công sánh với các quan, vì họ không đỗ đạt; nhưng thành công hơn những người hỏng thi và quần chúng. Ít ra họ đã đỗ thi hương, thuộc giới giỏi của tỉnh và được dân làng kính nể. Trong những điều kiện trên đây, các tú tài thấy mình vừa cao hơn dân chúng vừa thấp hơn quan chức. Tham vọng của họ vẫn là đi thi nữa để được làm quan.

    Các nhân sĩ do đó rất nhạy cảm và chú ý đến tình hình chính trị. Khi một biến động chính trị hoặc xã hội bùng nổ, một số người của họ, với tư cách lãnh đạo, đứng ra vận động và tập trung dân chúng chống lại những người mà họ cho là kẻ thù. Ngoài ra, là người truyền bá Nho giáo, họ đặc biệt xem người Pháp và Công giáo là thù địch.
    Thân hào hay hào mục là những người có uy tín trong xã thôn - người có tuổi, giàu có, đỗ đạt - và đồng thời giữ một chức vụ hành chính với tư cách hội viên của Hội đồng Hào mục.

    Các tiêu chuẩn để phân biệt thân hào là, nói chung, sự giàu có, sự nổi tiếng về đạo đức và thạo việc làng nước, tuổi tác (ít nhất là 21 tuổi) và có tên trong Đinh bộ.

    Các phong trào Văn-thân:
    Đại đa số nhân sĩ và thân hào ở xã thôn, xa kinh đô. Vì vậy họ không được tin tức rõ ràng về chính sách của chính phủ, nhất là đường lối đối ngoại, trừ khi quan chức địa phương thông báo những quyết định của chính phủ bằng các bảng yết thị.

    Các phong trào bài bác thường xảy ra nhân dịp có kỳ thi tuyển: khi tập trung về kinh đô hay các tỉnh lỵ, họ biết được một số biến cố; các biến cố này nếu trái ý có thể gây sự bất bình trong hàng ngũ họ, hay là những sự phản đối qui mô; khi trở về xã thôn, họ truyền bá các tin tức và báo động với dân quê.

    Tờ hoà ước ô nhục Sài gòn năm 1862 và việc cắt ba tỉnh Nam kỳ cho Pháp tuy được triều đình giữ kín nhưng vẫn bị lộ nên nhân kỳ thi tuyển năm 1864, các sĩ tử yêu cầu Tự Đức giết hết giáo dân và người Âu Tây, và doạ sẽ tẩy chay các kỳ thi.

    Sự chiếm đóng ba tỉnh miền Tây Nam kỳ năm 1867 của người Pháp cũng gây sự phẫn nộ lớn tương tự nơi nhân sĩ.
    Các nhân sĩ muốn giết hết hoặc, bằng mọi trường hợp, tống khứ người Pháp và giáo dân, dựa trên những lý do đạo đức theo quan điểm Khổng giáo. Nghĩa là nếu người nào không chống lại sự bất công, người ấy mất hết phẩm cách, như Khổng tử đã nói: Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã (Thấy việc nghĩa mà không làm là không đáng làm người). Và bất công của thời ấy là sự có mặt của những phần tự dị chất làm rối loạn trật tự Khổng giáo và xã hội. Các cuộc xâm lược Tourane và Sài gòn của người Âu Tây, sự sử dụng sức mạnh đối với dân chúng, việc chiếm đất... đều là bất công. Cũng là bất công vì lối sống của giáo dân cách biệt với lương dân, đã phủ nhận lý thuyết Khổng giáo và lễ giáo chính yếu, như sự thờ cúng tổ tiên.v.v..


    Sự có mặt của giáo dân và người Pháp là một tai hại tinh thần, họ là mối đe dọa lâu dài các lợi ích kinh tế và địa vị xã hội của nhân sĩ: nếu Việt nam trở nên một quốc gia Thiên Chúa giáo, các nhân sĩ sẽ là nạn nhân hàng đầu vì họ có thể sẽ bị đuổi khỏi chính quyền và bao nhiêu công lao họ tự đào tạo, thi cử sẽ tiêu tan. Các nhân sĩ chắc chắn lo sợ hơn các quan chức bởi vì họ chưa có được một qui chế xã hội vững chắc, họ mới chỉ là người dự bị vào quan trường.

    Thật vậy, các nhân sĩ có khuynh hướng đồng hoá lợi ích của họ với lợi ích của chính phủ và khi nổi dậy, họ không quên tuyên bố rằng họ một lòng hậu thuẫn chính quyền Tự Đức và họ nổi dậy để khích lệ nhà vua. Nhưng về các vấn đề của hoà ước Sài gòn, triều đình Huế không nhượng bộ các yêu sách của họ, cũng như triều đình không nhúng tay vào một chính sách tiêu diệt hay tống khứ quyết liệt giáo dân và người Pháp. Nếu triều đình có muốn đi nữa, cũng không có cách nào thi hành chính sách như thế. Vì tình thế, nhà vua đã áp dụng một chính sách hoà giải với người Pháp và đối với việc này, phản ứng của nhân sĩ phức tạp ở chỗ họ có thể nào vừa thương mến nhà vua trong lý tưởng vừa khinh ghét nhà vua trong thực tế? Với thời gian dần dần trôi qua, họ mất dần lòng tin nơi hoàng đế.

    So sánh khái niệm Văn-thân và khái niệm Quan lại:

    Tsuboi còn tiến hành phân tích khái niệm Văn-thân một cách chi li hơn nữa bằng cách đối chiếu nó với khái niệm quan lại. Thực ra quan lại cũng là Văn-thân nhưng là một thứ Văn-thân đàn anh, Văn-thân bề trên... Họ cũng đi học và đi thi như Văn-thân. Họ đã từng là sĩ tử và cũng đã có những âu lo, những suy nghĩ của một thanh niên ôm ấp nhiều hi vọng về tương lai, về cuộc đời. Nhưng nếu các Văn-thân chỉ dừng lại ở học vị tú tài, nghĩa là chỉ mới bước những bước đầu tiên chập chững vào trường thi thì giới quan lại đều là những người ít ra cũng đỗ cử nhân hoặc phó bảng, nếu không là tiến sĩ. Giành được những học vị cao cấp này, con người có vẻ trí thức hơn, thông minh hơn, trang trọng hơn, và do đấy cũng điềm tĩnh hơn, hay cân nhắc, lí luận, phê phán, nếu không là hay do dự, hay dung hoà và ít có hành động quyết liệt. Họ thật trái ngược với Văn-thân. Các ông này vì chưa có địa vị rõ ràng nên hay hiếu thắng, lấn lướt, quyết định vội vàng nhiều khi thiếu suy nghĩ chín chắn.

    Theo Yoshiharu Tsuboi, giới quan lại thời Tự Đức là một giới có tổ chức, được huấn luyện chu đáo về hành chính và có khả năng cai trị hiển nhiên. Nếu lịch sử không đặt ra những vấn đề mới đối với thực dân Pháp thì các quan viên thời Tự Đức là những nhân viên hành chính kiểu mẫu. Cùng với sự cộng tác của "giai cấp" Văn-thân ở nông thôn và những tỉnh lị nhỏ, các quan ở triều và các thành phố lớn là những cộng tác viên đắc lực của chế độ quân chủ trung ương tập quyền.

    Nhưng không may cho họ, bọn thực dân Pháp ác ôn đã không được mời mà cứ đến, rồi làm đảo lộn tất cả. Vào lúc này, giới quan lại mới bộc lộ những khuyết điểm trầm trọng về giáo dục, chính trị và ngoại giao. Chúng ta sẽ có nhiều dịp để đào sâu những khuyết điểm này, nó bắt nguồn sâu xa từ mục đích vị lợi của một nền giáo dục quá chú trọng về thi cử và bằng cấp. Đúng như Tsuboi đã nói, "người ta học nhiều cốt để thi đỗ, nhưng không khi nào học để tăng tiến trí thức hay hơn nữa, để đào sâu một vấn đề triết học" (sđd, tr. 214). Giáo dục không chú trọng tới việc rèn luyện trí tuệ, mà chỉ tăng cường trí nhớ (Nguyễn Thị Thanh Xuân, sđd, tr. 141). Triều đình mở khoa thi kén người, cố nhiên đã có phép tắc sẵn sàng, nhưng chuyên xét về mặt văn từ mà chưa xét mặt thực hành (Trần Bích San, Văn sách thi đình năm 1865). Chương trình học vấn chỉ chú trọng tới quá khứ, nhất là quá khứ Trung hoa, không chú tâm vào khoa học, kĩ thuật, thương mại, hàng hải, quân sự và những vấn đề thời thế, cho nên người đi học dễ trở thành hủ bại, bảo thủ, lạc hậu, không hiểu gì về thời biến, "chỉ khư khư nắm lấy cái nghĩa lí cứng nhắc như bản gỗ, bảo rằng triều đình mở cửa để đón kẻ cướp, không biết rằng thời đến thì không át được, thời đi thì không níu được" (Nguyễn Trường Tộ, Tế cấp bát điều, 1867). Từ địa vị của những phương diện quốc gia thời bình, giới quan lại bỗng trở thành một "lũ ngẩn ngơ" trước thời cuộc, nói như bà Hồ Xuân Hương. Trước sự bất lực của vua quan nhà Nguyễn, giáo sư Trần Văn Giàu đã nói như hét lên: "
    Ngu dốt, cả một triều đình ngu dốt" (Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến 1993, tr. 434, 436). Giáo sư còn khẳng định: "Hệ thức phong kiến (tức của các quan) chẳng những là bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử, nó còn là tội nhân của lịch sử" (sđd, tr. 459).

    Quan điểm bổ túc về Văn-thân:
    Tsuboi đã đưa ra một cách nhìn đầy đủ nhất về Văn-thân từ xưa đến nay. Đại để ông đã phân biệt từ Văn-thân với nhiều từ đồng nghĩa khác, cho ta biết rõ Văn-thân là những nhà nho học dở dang, do đó lỗi thời, dễ bị tự ti mặc cảm và ganh ghét với những người thành công. Tôi xin nói thêm về đời sống nghèo khổ của các ông tú, về những nỗ lực của họ để thoát khỏi cảnh sống tù túng, lòng ganh ghét đầy thù hận của họ đối với đạo Công giáo nói chung và với các vị thừa sai Âu châu nói riêng vì chính đạo này cũng như những người theo đạo đã dìm họ lún sâu vào đời sống nghèo nàn vô vị của họ.

    Trước hết, phải công nhận Văn-thân trên căn bản là một nhà nho, biết vào khoảng vài ngàn chữ hán, học thuộc lòng Tứ thư Ngũ kinh, đã đi thi và đỗ tú tài, nghĩa là đã được chọn đỗ trên 3 hay 4 ngàn thí sinh khác. Tuy nhiên, Văn-thân không phải là một nhà nho bình thường mà chỉ xuất hiện vào thời kì mạt vận của nho giáo ở Việt nam giữa thế kỉ XIX. Theo đó ta phải trở về nghiên cứu lịch sử du nhập và phát triển của Nho giáo tại Việt nam.

    Một cách hết sức tổng quát, ta biết Nho giáo được truyền bá ở Việt nam từ thời Bắc thuộc, khi Việt nam còn mông muội. Nhờ những du học sinh Việt nam sang Trung hoa và trở về làm việc tại quê nhà (như Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm), nhất là nhờ Sĩ Nhiếp (187- 226), học vấn ở Nam bang được phổ biến. Nho học không chú trọng về siêu nhiên và siêu hình, đó chỉ là một nền luân lí cá nhân và xã hội được đóng khung trong những công thức nhất định (tam cương ngũ thường), một lí thuyết cai trị và hành động theo tiêu chuẩn của lí trí, trong tổ chức giáo dục, mục đích tổng quát là đạt đến chí thiện nhờ sự thực hiện ngũ luân mà quan trọng nhất là nhân nghĩa. Những giáo điều này thấm sâu vào đời sống dân chúng, tạo nên một không khí lễ giáo rất đặc sắc trong đó nổi bật hai đức tính cơ bản là trung (xét về xã hội) và hiếu (xét về mặt gia đình). Đến đời Lý (1010- 1225), Phật giáo lãnh đạo tinh thần dân tộc, sản sinh một tinh thần mới gốc Ấn-độ: tinh thần siêu việt, bao hàm những khuynh hướng hướng thượng và những tình cảm hướng tha. Nền văn học chữ tâm xuất hiện. Vào thời Trần, giới sinh viên tốt nghiệp từ Quốc-tử giám (dựng năm 1076) và các đại học khác bắt đầu nhập cuộc với xã hội. Nền văn học chữ lí thành hình. Họ tạo được một tinh thần mới gốc Trung-hoa là tinh thần thực dụng, hoà nhập với tinh thần cũ tạo nên một tinh thần mới vừa siêu việt vừa thực dụng, nhờ đó, và được trang bị bằng tinh thần này, thanh niên thời Trần đã bẻ gẫy mọi ý chí xâm lược của ngoại bang.

    Sang đời Lê, Nho giáo, hay đúng hơn Tống nho, phải đương đầu với sự tấn công của Việt nho được thành hình từ thời Hồ Quí Li và phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của Chu An, Trần Nguyên Đán, Trần Thế Pháp.v.v.. Cuốn Lĩnh-nam chích quái thu thập các truyện cổ và thần thoại dân gian, tập trung vào việc mô tả con người Việt- nam chân chính sống trung thành với nghĩa tình, đối lập với mẫu người Việt-nam hán hoá do Lý Tế Xuyên, đại diện cho Tống nho, trình bày trong cuốn Việt-điện u-linh tập (1329). Phong trào Việt nho phát triển dưới sự thúc đẩy của Nguyễn Trãi, anh hùng diệt Minh. Việc Nguyễn Trãi bị phong trào Tống nho quật ngã đã giúp cho phong trào Việt nho càng ngày càng thực hiện được những chiến công mới.
    Đến đầu thế kỉ XVII, phối hợp với Lão giáo, Phật giáo và một tôn giáo mới xuất hiện là Công giáo, phong trào Việt nho đương đầu kịch liệt với phong trào Tống nho và đòi hỏi những nhu cầu mới của xã hội phải được giải quyết bằng những phương pháp mới hữu hiệu. Nhạy bén trước tình hình bất ổn cho Nho giáo, Trịnh Tạc báo động. Phạm Công Trứ (1599-1675) được chỉ định soạn thảo một bản tuyên ngôn văn hoá bảo vệ ý thức hệ chính qui. Bản Lê triều tứ thập thất điều được công bố năm 1663. Điều 35 kết án nền văn học nôm na do phong trào Việt nho sáng lập là cha mách qué, là phổ biến tiếng nói dâm đãng:

    Ngũ kinh chư sử xưa nay,
    Với chư tử tập cùng rày văn chương.
    Dạy bèn có ích đạo thường,
    Mới nên san bản bốn phương thông hành.
    Kìa như Thích, Đạo, Phi kinh,
    Lời tà, mối lạ. tập tành chuyện ngoa.
    Cùng là truyện cũ nôm na
    Hết thi tập ấy lại ca khúc này.
    Tiếng dâm dễ khiến người say,
    Chớ cho in bán hại nay thói thuần.
    (Lê triều tứ thập thất điều, các câu 345-354)

    Bản tuyên ngôn chẳng những không có tác dụng gì đối với nhóm nhà văn nôm na, lại còn khích động cho các nhà văn trẻ tiến tới đòi hỏi chính quyền phải thực thi mọi quyền tự do: tự do luyến ái, tự do kết hôn, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, kể cả tự do tuyển cử người cai trị. Họ đòi hỏi giải phóng phụ nữ và một phong trào văn học vô danh được phát động, trong đó ta có thể kể vài tác phẩm điển hình như Truyện chúa Thao, Truyện ông Ninh, Truyện Phạm Công Cúc Hoa, Truyện Hoàng Trừu, Truyện Tống Trân, v.v..
    Đến thế kỷ XVIII, phong trào văn học nôm na vô danh trở thành rộng lớn hơn với sự tham gia của các nhà văn hữu danh như Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Hữu Hào, Hồ Xuân Hương và nhất là Nguyễn Du, đỉnh cao tuyệt đối của phong trào, nơi hội tụ những mơ ước của phong trào được thực hiện.

    Sự thắng thế của các nhà Việt nho làm cho Minh Mạng bối rối. Nhà vua đã lạnh lùng sửa lại lịch sử, xoá bỏ những chi tiết liên hệ tới phong trào Việt nho. Nhà vua ban bố Thánh dụ huấn địch thập điều là

    1. Đôn nhân-luân;
    2. Chính tâm-thuật;
    3. Vụ bản-nghiệp;
    4. Thượng tiết-kiệm;
    5. Hậu phong-tục;
    6. Huấn tử đệ;
    7. Sùng chính học;
    8. Giới dâm thắc;
    9. Thận pháp thủ;
    10. Quảng thiện hạnh.

    Trong 10 điều huấn địch ấy, điều thứ 8, giới dâm thắc (răn giữ lòng dâm) đề cập tới sự giao tế giữa nam nữ và ra lệnh cho các bậc huynh trưởng phải biết giáo hối tử đệ, nam giới thì lấy lễ phép ngăn mình, nữ giới thì dùng trinh tiết giữ mình. Điều thứ 7, sùng chính học (tôn sùng Nho giáo) chĩa mũi nhọn vào đạo Công giáo: "Tả đạo dị đoan, nhất thiết chớ để lừa dối mê hoặc; học thuyết Da-tô lại càng vô ích hơn nữa, thậm chí nam nữ hỗn loạn, hạnh kiểm như cầm thú, dấy gian dựng đảng, tự giẫm lên hình pháp, như vậy là phá hoại tôn giáo, làm hư nát luân thường, lại càng không nên tin". Ngoài Thánh dụ huấn địch thập điều, nhà vua còn cho phép ngụy tạo tác phẩm Gia huấn ca lừa dối dư luận bằng cách lấy tác phẩm của Lý Văn Phức lạm xưng là của Nguyễn Trãi, với mưu đồ hiển nhiên là dùng uy tín của một danh nhân đời Lê tăng cường cho giá trị của học thuyết giáo dục mà nhà vua muốn đề xuất. Cuốn Nhị thập tứ hiếu của Lý Văn Phức đã được tung ra thị trường với mục đích bảo vệ chữ hiếu trung của nhà nho, nhưng trong tinh thần Tống nho, chữ hiếu đã đánh mất linh hồn, chỉ còn lại một cái xác khô héo. Tình trạng về chiều của Tống nho kéo dài đến hết đời Tự Đức, càng ngày càng trở nên lạc lõng, phản động, xa rời thực tế và quần chúng, và hoàn toàn bất lực khi phải đối diện với Công giáo để giải quyết những vấn đề chính trị quốc tế. Năm 1847, khi tiếng súng Tây phương phát nổ lần đầu tiên, các nhà nho nói chung, và Văn-thân nói riêng, không đủ sức để nói lên tiếng nói của mình, không đủ đầu óc để có được những chủ trương hợp thời hợp lí. Tất cả mọi khó khăn họ chỉ giải quyết bằng cách đổ tội cho người Công giáo. Ta thử đi sâu vào những dữ kiện lịch sử để tìm hiểu và đánh giá tư tưởng và hành động của Văn-thân.

    Đời sống nghèo khổ của Văn-thân:

    Ông Yoshiharu Tsuboi trong đoạn văn dẫn chứng ở trên đã đề cập tới địa vị bấp bênh của giới Văn-thân trong xã hội. Họ không phải là quan, vì muốn được gọi là quan thì ít nhất cũng phải đỗ từ cử nhân và phải được vua ban từ ngũ phẩm trở lên, với tiền lương là 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Họ cũng không phải là dân vì đã đỗ tú tài, cũng là người biết chữ thánh hiền, và vẫn tự coi là thầy thiên hạ. Cái địa vị trên không tới, dưới không thông ấy làm cho ông tú dở ông dở thằng, và thường lê một đời sống mạt rệp. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương đã hơn một lần khốn khổ về đời sống hàn nho và tài tử đa cùng của một ông tú.

    Nguyễn Công Trứ (1778-1859) viết Hàn nho phong vị phú vào khoảng 1818, đời Gia Long, mô tả cảnh sống cực kì khốn khổ của nhà nho chưa gặp vận mà cùng cực nhất là chính mình bị hạn chế không thể làm một số nghề chỉ vì mình là nhà nho!

    Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát (1808-1854) viết vào khoảng năm 1830 là năm chính thức xuất hiện của từ Văn-thân, nếu ta tin vào thông báo của chính Cao Bá Quát trong Chu thần thi tập. Tác giả mô tả cảnh nghèo của ông khi chưa đỗ cử nhân. Một cảnh nghèo bi thảm cùng cực dưới mái tranh dột nát: "Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lượp tượp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa. Đèn cỏn con gon chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vừng nguyệt tỏ".

    Đời sống thân tàn ma dại của các ông tú ông đồ, không ai mô tả được xác thực và bi đát cho bằng Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương. Trong bài Phú ông đồ ngông, ngay ở hai câu đầu, ta đã thấy nhãn tiên cảnh nghèo túng của ông đồ:

    Bốn cóng kê giường
    Vài chồng cặp sách.
    Làm nghề "bán cháo phổi" nhưng lương tiền thì ôi thôi:

    Thầy nài nẫm thêm dăm tiền nữa,
    Chủ cò kèo đưa mấy đồng ra.
    Ruột tượng thắt tưng, nguyên đồ khố rận.
    Khăn tay giắt rốn, rặt giống cau già.
    Cuối cùng, khi về đối diện với chính mình, điếu thuốc cầm trên tay, lòng tan nát rơi rụng như tàn thuốc:
    Gạt nước mắt khóc thầm cùng vũ trụ, trách trời xanh bạn với bút nghiên chi?
    Hở hàm răng cười vụng với giang san, đem mặt trắng vẫy vùng son phấn nước!
    Nguyễn Khuyến đã nói lên được tất cả những đau khổ ngấm ngầm của một Văn-thân sống đồng thời với ông ở Phủ-lí hay Nam-định. Họ là học trò của cụ Hoàng-giáp Tam-đăng. Họ đã nổi lên giết những người Công giáo qui tụ chung quanh Giám mục Puginier ở Kẻ Sở. Tại sao Văn- thân lại thù ghét người Công giáo đến thế? Ta sẽ tìm hiểu ở đoạn sau.
    Trần Tế Xương, qua bài Phú thầy đồ đi ở trọ, đã tự mô tả:

    Có một cô lái,
    Nuôi một thầy đồ
    Quần áo rách rưới
    Ăn uống xô bồ
    Cơm hai bữa cá kho rau muống,
    Quà một chầu khoai lang lúa ngô.
    Sao dám khinh mình, thầy đâu thầy vậy?
    Không biết trọng đạo, cô lốc cô lô!

    Thầy chua chát nhận xét khả năng của chính mình:
    Thầy đồ thầy lề,
    Dạy học dạy hành.
    Ba quyển sách nát, Dăm thằng trẻ ranh.
    Văn có hay thì đã làm quan, võng điều võng thắm.
    Vũ có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.
    Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát,
    Cho nên thầy luẩn quẩn loanh quanh!

    Hoàn cảnh của những ông tú như ông thật đáng thương, không biết làm gì để sống nhưng lúc nào cũng lo sợ bị khinh, bị coi thường mặc dầu chính mình cũng tự biết là không có gì để cho người ta kính trọng cả. Cái mâu thuẫn không giải quyết được là ở chỗ đó. Nhưng nếu có gì xảy ra thì người ta lại đổ lỗi cho người khác. Và sống bên cạnh Văn-thân, người Công giáo dễ bị Văn-thân ganh tị và ghen ghét là vì thế.

    Những mâu thuẫn giữa Tống nho của Văn-thân và Tân-ước của người Công giáo:

    Hiển nhiên là có nhiều điểm dị biệt giữa Văn-thân và người Công-giáo.

    Đạo Công giáo là đạo của người nghèo, người manh lệ vô nghề nghiệp, người tội lỗi xấu xa nhưng biết là mình tội lỗi và biết hối cải. Nói cho đúng, đạo Công giáo là đạo của tiểu nhân, nói theo từ ngữ của các nhà nho, chỉ khác một điểm là các tiểu nhân ấy, một khi nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa, lại có khả năng trở thành thánh nhân như Chúa.

    Ngược lại, đạo Nho là "quân tử chi đạo", đạo của người quân tử, qui tụ tất cả những cái hay, cái phải, tổng hợp các đức tính tốt để gây thành cái nhân cách hoàn toàn của con người. Tuy nhiên vì quá cứng nhắc trong quan điểm bất di bất dịch của mình, người quân tử dễ trở thành bảo thủ và đối lập với mọi nỗ lực canh tân, dần dần bị ngạnh kết, bị thạch hoá, rồi bị xã hội đào thải như một tiểu nhân nguy hiểm.

    Đạo công giáo còn là đạo của đàn bà trẻ con. Kinh thánh tràn ngập hình ảnh phụ nữ, nhất là trong tin mừng thánh Lu-ca; nào là phụ nữ ngoại tình, phụ nữ mà đầu có 7 con quỉ dữ, rồi Mác-ta, các bà Maria.v.v.. Bên cạnh phụ nữ là trẻ em. Chúa phán: "Ai không nên như trẻ con thì không được vào nước thiên đàng" (Mt, 19, 14). Ngược lại đạo Nho là đạo của các đấng nam nhi, vị nào cũng oai phong lẫm liệt, không Quản Trọng thì Y Doãn, không Tử Lộ thì Nhan Hồi, còn đàn bà như nàng Nam-tử thì người ta chỉ nói qua loa để cảnh tỉnh bọn đàn ông mà thôi! Khi văn học nôm na bùng nổ đòi giải phóng phụ nữ và cho họ quyền quyết định trong hôn nhân, các nhà nho mà đại diện là Phạm Công Trứ và Trịnh Tạc đã phản ứng dữ dội như thế nào thì khi các thừa sai đến Việt Nam giảng đạo vào thế kỉ XIX, họ cũng đã gặp những phản ứng tương tự về phía Văn-thân. Làm sao Văn-thân có thể chấp nhận chế độ độc thê và nguyên tắc hôn nhân bất khả li khi họ đang có quyền sử dụng nhiều bà vợ và căn cứ trên luật thất xuất, có thể rẫy vợ bất cứ lúc nào! Ngoài ra, phụ nữ còn là khách hàng của họ về bói toán, về địa lí, về y tế và về giáo dục. Giải phóng và thăng tiến phụ nữ là dẹp bỏ nghề coi tử vi của họ, nghề xem đất đai, xem ngày lành tháng tốt của họ. Các nhà hành đạo Công giáo đã đập vỡ nồi cơm của Văn-thân, làm gì họ không căm thù Công giáo thâm gan tím ruột? Làm gì họ không kêu gọi nhau đứng lên vạch mặt chỉ tên những người Công giáo đã bán đứng họ, và bán đứng những người rường cột của làng xóm như họ tức là bán nước.

    Đạo Công giáo chủ trương chỉ tôn kính và thờ lạy một Thiên Chúa. Đạo Nho chỉ chú trọng thờ trời và kính trọng người hiền, người lớn tuổi, nhưng dần dần quan niệm thờ trời được phổ thông và biến thành đạo thờ cúng tổ tiên. Vào thế kỉ XIX, đạo thờ cúng tổ tiên chưa được gọi là đạo ông bà như ngày nay, và cũng chưa mang cái nghĩa thâm sâu như ta hiện có, do đó, việc thờ cúng tổ tiên và những gì liên quan đến việc thờ cúng này bị đạo Công giáo cấm đoán, và mãi vào đầu thế kỉ XX mới bỏ cấm. Giới Văn-thân theo gương Mạnh-tử ngày xưa lớn tiếng hô hào đả đảo các thừa sai và đạo Công giáo, coi đạo này là một tà thuyết cần phải ngăn chặn, những nét bất chính phải cự tuyệt, những lời dâm ô phải khai trừ thì mới tiếp tục được sự nghiệp vĩ đại của tam thánh, tức vua Vũ, Chu-công và Khổng-tử. Đạo Công giáo đương nhiên bị xếp ngang hàng với thuyết vị ngã của Dương Chu và thuyết kiêm ái của Mặc Địch, tất cả đều bị coi là những đạo vô phụ vô quân (không cha không vua) và đều bị gọi một cách khinh bị là cầm thú (Mạnh-tử, Đằng Văn-công, hạ). Vua Minh Mạng sẽ nhắc lại từ cầm thú này trong Huấn địch thập điều của ông ban bố năm 1833. Các nhà Văn-thân cũng không quên xài từ cầm thú này trong bài hịch của họ công bố ngày 19.3.1874 để công kích người Công giáo thậm tệ, chỉ vì, theo họ nghĩ, khi bãi bỏ lệ thờ cúng tổ tiên, người Công giáo lại đụng đến nồi cơm của họ một lần nữa, và lần này rất trầm trọng vì nó thủ tiêu tất cả những quyền lợi vật chất mà nhà nho lãnh đạo tinh thần trong thôn xóm có thể thu hoạch được nhờ tục lệ này.










  2. Được cám ơn bởi:


  3. #2
    teenvnlabido's Avatar

    Tham gia ngày: May 2011
    Tên Thánh: Giuse
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 927
    Cám ơn
    1,503
    Được cám ơn 2,005 lần trong 603 bài viết

    Default

    Trích dẫn tiếp:

    Cái ngu dốt của Văn-thân
    :

    * Về chính trị và tư tưởng:

    "Ngu dốt" là từ của giáo sư Trần Văn Giàu đã dùng để phê phán những "nhận định sai, rất sai (của đình thần) về ý đồ của địch (Pháp), xem quá nhẹ nguy cơ xâm lược". Ông viết: "Nhóm đình thần này ngỡ rằng nước Pháp ở xa nước ta quá, không thể thôn tính nước Nam được. Dốt quá! (x. Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt- nam, tập I, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, nxb T.P.Hồ Chí Minh, 1993, tr. 434). Giáo sư Giàu còn viết thêm để giải thích ý nghĩa của từ "dốt" mà ông đã dùng: "ếch nằm đáy giếng nào biết vũ trụ rộng lớn ra sao, nhà nho lúc đó không ai biết tư bản Âu Mỹ là gì." (Sđd, tr. 434). Không biết bây giờ có ai hiểu rõ chủ nghĩa tư bản Âu Mỹ chưa, nhất là chủ nghĩa tư bản Mỹ, nhưng quả thật vào năm 1858, đình thần Huế thật sự là xứng đáng với lời phê nghiêm khắc của giáo sư Trần Văn Giàu. Ấy là giáo sư phê phán bọn đình thần, những nhân vật lịch sử tiếng tăm như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng, Trần Văn Trung, Phạm Chí Hương, Nguyễn Xuân Hàn, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Luân, Lê Đức. Nhóm đình thần tả hữu của vua như quí ông Vũ Đức Nhụ, Phạm Thanh, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Xuân Quế cũng không tránh được hai chữ khờ khạo (sđd, tr. 435) khi họ đề nghị với nhà vua nếu quân Pháp tự ý rút lui thì ta cho giảng hoà. Thật "không còn khờ khạo nào hơn", giáo sư Giàu quả quyết. Sau khi liệt kê một danh sách đình thần thiển cận với những nhận định sai lầm trầm trọng về thời thế như quí ông Lê Chỉ Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Đạo, Nguyễn Hải, giáo sư Giàu giận dữ viết: "Cả triều đình ngu dốt". (Sđd, tr. 436).

    Giáo sư Giàu còn bình luận về vụ nổi dậy của phong trào Văn-thân năm 1874 ở Nghệ An. Ông viết: "Không thể chối cãi rằng phong trào 1874 ở Nghệ Tĩnh là phong trào yêu nước, do Văn-thân yêu nước khởi xướng. Nhưng cũng không thể chối cãi rằng các nhà Văn-thân yêu nước đã làm những điều rất sai chính trị khi họ xem việt 'sát Tả' là điều kiện thứ nhất của việc 'bình Tây', không biết phân biệt giáo dân bình thường và những giáo sĩ làm tay sai cho giặc Pháp. Họ vơ đũa cả nắm, và vô tình họ đẩy tất cả những người đạo đồ Thiên Chúa qua một bên, bên giặc Pháp. Họ đặt nhiệm vụ 'gìn giữ văn minh Nho giáo' cho cuộc vận động, như thế là bó hẹp quá, là hạn chế quá cái ý nghĩa của cuộc vận động, ý nghĩa đó là cứu nước Việt-nam, chớ nào chỉ bảo vệ riêng một đạo nào, bất kỳ Nho giáo, hay Phật giáo, hay Lão giáo. 'Bình Tây' chỉ chắc mọi người dân đồng ý, còn 'sát Tả' thì vị tất người dân thường đã nhất trí bằng lòng; các nhà Văn-thân khởi nghĩa vô hình trung đã tự cô lập mình, càng dễ bị triều đình đánh dẹp." (Sđd, tr. 369).

    Giáo sư họ Trần quả đã nhận xét sâu sắc và chuẩn xác về chính sách của phong trào Văn-thân. Làm chính trị trước tiên là phải hô hào và thực hiện đại đoàn kết các lực lượng đấu tranh thì phong trào của mình mới phát triển mạnh mẽ và mới sớm đạt được những mục tiêu đề xuất. Phải công nhận rằng nhóm Công giáo thời đó có nhiều điểm mạnh, mà điểm mạnh nhất của họ là họ thấu triệt tình hình quân sự, kĩ nghệ, thương mại trên thế giới; họ đã một phần nào hấp thụ văn hoá châu Âu, hiểu thế nào là dân chủ, tự do, là cá nhân, xã hội, là khoa học kĩ thuật. Nếu thuyết phục được họ tham gia hàng ngũ chiến đấu thì làm sao bọn thực dân có thể thực hiện âm mưu xâm lược của chúng được. Cứ xem cụ Sáu dẹp giặc Phụng năm 1861 thì thấy rõ. Năm 1869, Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình hưng binh đánh Pháp để giành lại Lục tỉnh, ông Tộ tình nguyện tự thân cầm quân đánh giặc vì ông biết vào năm 1870, Đức sẽ cất quân đánh Pháp và Pháp sẽ thất bại. Một đề nghị sáng suốt như vậy không được ai nghe theo, chỉ vì ông Tộ là một người theo đạo Gia-tô. Trong khi đó các ông Văn-thân chỉ lừa bịp dư luận bằng một lực lượng tưởng tượng. "Văn-thân bốn tỉnh báo cho Tự Đức biết rằng, chẳng những họ có nhân tài lãnh đạo đầy mưu lược, mà cũng đã có số quân cần thiết để giết hết giặc, lấy lại non sông: 10 vạn quân bộ, 6 ngàn quân thủy, 5 ngàn ngựa thám-tử, tất cả đều thiện chiến, lấy quân đó mà đánh giặc thì ai mà thắng được?" (Sđd, tr. 454). Giáo sư Giàu mỉa mai: "Không biết các cụ tìm đâu ra số quân đó, hay chỉ muốn báo cho nhà vua biết rằng: Hoan Diễn do tồn thập vạn binh". (Sđd, tr. 454). Nghĩa là chỉ nói thánh, và nói theo sách vở chứ không có gì là thực tế! Thế mà Văn-thân vẫn còn nói lấy được: "Ta mạnh như sông dài núi cao, trống chiêng đánh lên một tiếng đủ làm tan được súng phá trời của chúng, thẻ linh bài gõ lên tiếng đủ làm đắm được thuyền rẽ nước của chúng". Lời phê của giáo sư Giàu: "Văn-thân bốn tỉnh hay chữ này có cách nói của nhà nho có thể làm cho người đời sau hiểu lầm là thùng rỗng kêu lớn." (nt)

    * Về văn-học:

    Giáo sư Trần Văn Giàu không đề cập tới khả năng văn chương của giới Văn-thân, nhưng những điều ông thẩm định về giá trị tư tưởng cũng như ý thức của giới này cũng đủ cho ta thấy rõ quan niệm của ông về giới Văn-thân. Ta sẽ thấy rằng tư tưởng nào, văn chương ấy; nội dung gì, hình thức đó, cho nên tư tưởng đã nghèo nàn thì văn chương không thể phong phú được; nội dung đã nông cạn thì hình thức không thể đa dạng được. Ta thử phân tích một số bài thơ của giới tú tài Văn-thân để chứng thực rằng trong tay họ, văn học Việt-nam rực rỡ từ ngàn xưa đã bị xuống cấp như thế nào. Ta sẽ lần lượt nói tới Trần Tấn là thủ lãnh của phong trào Văn-thân năm 1874, đến Nguyễn Duật tức tú Uyển, Nguyễn Mậu Bẩm tức tú Bẩm, Nguyễn thị Quyên vợ tên Văn-thân Trần văn Ý tức tú Ý Đậu Bá Nghinh tức tú Ngông, Lê Mẫn Đức tức tú Đức. Tiếc rằng ta không có văn thơ của những tay Văn- thân nổi tiếng như Trần Quang Cán tức đội Lựu, hay Đặng Như Mai tức tú Mai, học trò của Trần Tấn và của Võ Trọng Bình.
    Trần Tấn ( 1822?-1874): là người làng Chi-nê, nay là xã Thanh-chi, huyện Thanh-chương. Trần Tấn đỗ tú tài năm 1842, rồi được bổ làm Bang biện Thanh-chương nên thường được gọi là tú Tấn hoặc cố Bang. Năm 1873, Pháp chiếm Hà-nội và các tỉnh Bắc kì, tú Tấn cùng người học trò là Đặng Như Mai tức tú Mai đòi tổng đốc Nghệ- an là Tôn Thất Triệt họp Văn-thân bàn việc chống Pháp. Triều đình Huế kí hàng ước Giáp-tuất (1874) làm cho ông bất bình, cùng tú Mai, đội Lựu (Trần Quang Cán), tú Khanh (Nguyễn Huy Điển) đứng lên khởi nghĩa, thảo bài hịch Bình tây sát tả bằng chữ hán và Bài ca kêu gọi khởi nghĩa bằng chữ nôm. Bài thơ ca tụng Trần Quang Cán nhiều bản không đề tên tác giả, nhưng xét về nội dung và hình thức có thể đoán đó là tác phẩm của Trần đại lão khóc học trò, bởi vì ngoài thầy học cũ là tú Tấn, đội Lựu không có một ai có thể gọi là thân.

    Bài hịch Bình tây sát tả mang một nội dung rất rõ ràng, phải giết hết bọn Công giáo trước rồi mới thanh toán bọn Pháp sau. Toàn thể bài hịch bốc lên một nỗi căm thù sôi sục đối với giáo dân và giáo sĩ. Không nghi ngờ gì nữa, động lực thúc đẩy nhóm Văn-thân đứng lên khởi nghĩa là sự uất hận của họ đối với đạo Công giáo đã được phổ biến quá mạnh mẽ ở Việt-nam và đã nghiễm nhiên biểu lộ ý chí muốn cạnh tranh với ảnh hưởng của Nho giáo đối với phong tục và văn hoá. Đối với Trần Tấn nói riêng và phong trào Văn-thân nói chung, việc bảo vệ các giá trị truyền thống dân tộc nằm ở vị trí trọng tâm của mọi hoạt động. Không ai nghĩ đến việc tiếp thụ kiến thức Tây phương. Sự phục tòng của giới nho sĩ vào học thuyết của Khổng-tử là triệt để đến mức giáo điều, đến nỗi người ta không cảm thấy nhu cầu phải tìm ra một khẩu hiệu khả dĩ có thể qui hoạch được một hướng đi lên cho đồng bào, vận động mọi người thức tỉnh trước những biến đổi của thế giới, và phát hiện ra cho bằng được một nếp suy nghĩ riêng cho Việt-nam. Sự hận thù đối với đạo Công giáo bắt nguồn ở chỗ nó là một tôn giáo hướng về tương lai, mà đạo Khổng thì chỉ biết trở về quá khứ, mà khốn nạn thay cái quá khứ xa xôi này lại cũng không phải là của dân Việt-nam mà là của Trung quốc! Thế mà khi nói về Công giáo, Văn-thân đã sử dụng một ngôn ngữ cực kì vô lễ, nào là gọi người đi đạo là "bọn đui, bọn điếc, bọn ngu", hoặc tệ hơn nữa "bọn chó, bọn dê, bọn cừu". Công giáo bị kết án nặng nề: "Chúng đầu độc chúng ta để biến nước ta thành một nước Thiên Chúa giáo; chúng xem các ông cha bà mẹ của giống nòi chúng ta như heo chó. Chúng làm nhục đạo đức Khổng giáo". Cuối cùng, bài hịch được chấm dứt bằng những lời lẽ hùng hồn kêu gọi các nhân sĩ đứng lên hành động để tiêu diệt hết giáo dân và giáo sĩ, không trừ một ai, và như thế mới là anh hùng, thấy điều bất nghĩa phải chống trả kịch liệt. Có một điều mâu thuẫn đến hoạt kê là trong bài hịch được nhan đề là Bình tây sát tả, nhưng suốt cả bài không thấy có một chữ động đến bọn thực dân xâm lăng; toàn bài đề cập đến một hành động duy nhất là mạ lị tàn bạo người Công giáo và hô hào tàn sát tiêu diệt họ. Căn cứ vào nội dụng của bài hịch, tôi xóa bỏ chữ bình tây và tôi chỉ gọi bài văn này là Hịch sát tả.

    Trong bài Bài ca kêu gọi khởi nghĩa viết bằng chữ nôm, theo thể lục bát, Trần Tấn còn nói rõ hơn nữa về mối thù trầm trọng của ông đối với Công giáo. Ông viết:

    Vì thằng tả, giận thằng Tây,
    Tuốt gươm chém sạch trận này mới nghe. (Bđd, cc 21-22)
    Bọn "thằng tả" này là kẻ thù không đội trời chung của ông và của Văn-thân:

    Một niềm nhương địch an dân,
    Càn khôn giãi tỏ, quỉ thần chứng tri. (Bđd, cc 27-28).

    Phần còn lại của bài ca dành để kêu gọi nho sĩ "ào ào tiến lên" (c.34). Ông vạch mặt chỉ tên những quan viên "ngu si" và chỉ "lo lòng nặng túi, tưởng chi đạo người" (c. 30); ông cảnh cáo những người làm quan nếu họ phản phúc đi ngược lại quyền lợi của Văn-thân thì họ sẽ bị đào thải:
    Sao mà nghĩ chẳng tới nơi,
    Giở giăn rồi lại cân đai được nào! (cc 31-32).

    Bài ca gồm tất cả 36 câu lục bát, không dở nhưng không có gì đặc sắc. Nếu đối tượng là độc giả bình dân ít học thì bài này còn có đôi chút giá trị vì đó là một bài văn phổ thông, chữ dùng đơn giản, nhiều chỗ toàn nôm ròng, điều mà người bình dân rất ưa thích. Nhưng bài này là một bài ca kêu gọi nhân sĩ ào ào tiến lên để tuốt gươm chém sạch những thằng tả, như vậy đối tượng đâu có phải là giới bình dân. Người có đầu óc văn chương và có thêm đôi chút chữ nghĩa hẳn là không thích lối văn mộc mạc này, từ ngữ nhiều chỗ rất sáo, hình ảnh hoàn toàn vắng mặt, có đoạn lại lạc vần.

    Tóm lại, đọc trước tác của Trần Tấn, ta hiểu tại sao ông lãnh tụ phong trào Văn-thân này chỉ động viên được có một thiểu số đi theo ông để tìm giết hại người Công giáo. Vì không có mấy người được ông thuyết phục cho nên số nhân sĩ hưởng ứng lời kêu gọi của ông rất thưa thớt, chỉ toàn là học trò không thành đạt của ông và những người bạn đi thi trượt của họ, tỉ dụ tú Uyển, tức Nguyễn Duật.

    Nguyễn Duật, hay tú Uyển đã đỗ tú tài thời Thiệu Trị nhưng ông không bằng lòng với học vị tú tài tầm thường. Ông gắng sức thi lại nhiều lần đến nỗi tuổi đã 70 mà ông vẫn vác lều chõng đi thi. Tú Uyển là một Văn- thân điển hình về nỗ lực muốn chiếm đoạt những học vị cao hơn tú tài không những là để xây dựng sự nghiệp mà là còn quyết giải toả mặc cảm tự ti do học vị tú tài gây ra vì ai cũng thấy rằng trong xã hội trọng khoa bảng ngày xưa, chỉ đỗ được cái bằng tú tài là cả một sự ô nhục. Tú Uyển để lại cho đời hai bài văn thì cả hai đều viết về vấn đề thi cử, đó là bài Hỏng thi và bài Nhị liệt phú, cả hai đều viết bằng chữ nôm.
    Bài Hỏng thi được làm theo thể hát nói đủ khổ, trong đó tác giả cho biết khoá thi ấy có tất cả hơn 3.800 sĩ tử. Tâm sự của người đi thi là:

    Bất truy thi văn chí
    Ninh tri bạch thủ tâm.

    Nghĩa là "Không đeo đuổi cái chí học văn chương thì làm sao hiểu được tâm sự của người đầu bạc". Người đầu bạc là tú Uyển. Lần thi cuối cùng, ông đã 70 tuổi, đầu bạc trắng, nhưng ông vẫn "mang chiếc lều mực thước rắn tay già" (c.3). Ông cũng làm bài thi như ai, nhưng mắt ông đã mờ nhìn gì cũng không thấy rõ, cái ngòi bút của ông có lẽ nó cũng già như ông cho nên nó rơi ra lúc nào không biết. Thế là ông bị đánh hỏng. Tuy không đỗ nhưng ý chí của ông rất mạnh. Ông dõng dạc tuyên bố: "Tuổi tuy già mà chí chẳng già đâu (c.14). Ông hẹn: "Khoa này rồi lại khoa sau" (c.15).
    Đọc bài hát nói này, ta có thể xúc động. Không phải vì bài thơ hay, nhưng vì sự quyết chí thi đỗ của tác giả.
    Bài Nhị liệt phú kể lại khoá thi năm 1848. Đây là một ân khoa để đánh dấu năm vua Tự Đức mới lên ngôi, vì năm 1849, năm kỉ-dậu, mới là chính khoa. Bài phú gồm 8 câu, chia làm 6 đoạn, mỗi đoạn có vần khác nhau. Đây là một bài phú hay, nói lên được ý chí quyết thắng của tú Uyển. Ông thành công ở chỗ đã làm cho người đọc sôi nổi cái sôi nổi của ông, hăng hái cái hăng hái của ông, nhưng đồng thời ta cũng thương cho ông là suốt bài phú, ông chỉ đề cập tới việc học việc thi một cách thụ động, không thấy ông đưa ra được một tư tưởng gì độc sáng và có giá trị cá nhân. Bài văn của ông chỉ là một bản tham luận của cấp tú tài, và suốt đời ông chỉ giẫm chân ở học vị ấy, lúc thì làm ông kép, khá hơn thì làm ông mền, rồi lại làm ông mền kép, để rồi cuối cùng lại làm ông mền kép mền, suốt đời luẩn quẩn loanh quanh trên các con đường rầy lội của đồng quê, lạnh lùng cam chịu một cuộc sống mòn trong cái tước hiệu Văn-thân mà ông cho là ô nhục.

    Nguyễn Mậu Bẩm, nhà Văn-thân sống lâu trăm tuổi từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức, Vì ông đỗ tú tài cho nên dân chúng Nghệ An gọi ông là tú Bẩm hay cố Dặc. Thơ ông hoàn toàn không có giá trị nghệ thuật. Cách dùng chữ lỏng lẻo, luộm thuộm. Lời thơ không có chất thơ. Hình ảnh gợi lên chỉ là những sáo ngữ. Qua những bài thơ của ông, ta thấy được sự nghèo nàn của Văn-thân về tư tưởng, sự bất lực của họ trước những vấn đề lớn của tinh thần sáng tác, sự bất động của họ trong quá trình phát triển náo nức sôi sục của cuộc sống mới đang biến dạng hằng ngày và đang đe dọa đưa xã hội Việt-nam vào con đường phá sản. Cũng vì thế mà Văn-thân căm ghét những người Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, cụ Sáu và những nhà nho tiến bộ như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Bùi Viện.v.v... vì những nhân vật này không say mê Khổng giáo như họ và chỉ lăm le thay thế Khổng giáo, hay nói đúng hơn Tống nho, bằng một một hệ ý thức khác mà họ sợ là ý thức Thiên Chúa giáo. Họ không bao giờ hiểu được rằng nước Chúa không phải là thế gian.

    Lê Mẫn Đức: Có người gọi ông là Lê Đức, có sách lại chép tên ông là Lê Đức Mẫn, tự Trương quân, đỗ tú tài giỏi thơ văn lại giỏi nghề thuốc. Ông là bạn thân của Nguyễn Huy Điển tức tú Khanh, một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Văn-thân năm 1874. Được vua Tự Đức vời vào cung làm thuốc, ông giao du với Tùng- thiện-vương Miên Thẩm, được ngâm vịnh trong phủ của vương và được vương kính trọng. Ông có 3 tác phẩm vừa hán vừa nôm, đó là Quỳnh trai tập, Qui điền tập, Mộng viên tập.
    Một tác phẩm khác của ông, Khuê huấn quốc ngữ ca, dài 56 câu lục bát và 2 câu thất ở đầu bài, tú Đức đã dạy con gái phải tôn trọng tứ đức của nho phong là công dung ngôn hạnh.

    Tứ đức đi với tam tòng là khuôn vàng thước ngọc của nền luân lí Nho giáo. Phụ nữ trong xã hội Nho giáo là một thành phần không có pháp tịch, bị miệt thị, bị khinh khi, bị coi là hèn hạ. Luật tam tòng tỏ ra tuyệt cùng phi lí vì nó phủ nhận mọi quyền tự do của người phụ nữ, bắt buộc người đàn bà suốt đời phải lệ thuộc vào quyền điều khiển của đàn ông. Luật thất xuất còn tàn nhẫn hơn nữa vì nó tuyệt đối phủ nhận toàn bộ quyền lợi của giới đàn bà. Khi tú Đức bắt chính con gái mình phải triệt để tôn trọng những giá trị trên, ông đã thực sự lạc hậu so với những nhà văn của các thế kỉ trước, những tác giả vô danh của biết bao nhiêu truyện ngắn truyện dài đề cao tính tự do của giới phụ nữ về tình yêu và hạnh phúc cũng như quyền bình đẳng tuyệt đối của các bà bên cạnh các ông.

    Đậu Bá Nghinh tức tú Ngông, một nhà thơ trào phúng danh tiếng của giới Văn-thân, tài ba không kém tú Xương nhưng chỉ vì quá sùng bản và bất công đối với các hệ ý thức khác Nho giáo mà ông ít được truyền tụng, trừ bài Chúc thọ vua Tự Đức viết theo thể hát giặm được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân nhờ tính sòng phẳng của nội dung và tính phong phú đa dạng của hình thức.

    Tác phẩm này được viết năm 1878, nhân dịp vua Tự Đức tổ chức lễ ngũ tuần đại khánh, mùa xuân năm Quí-dậu. Có lẽ bài chúc thọ này không được gửi đến để mừng thọ nhà vua, nhưng nếu có nhận được, chắc vua Tự Đức cũng không giận, như tác giả đã rào đón, trước cái trò "dân dại dân ngu, gửi lời chúc thọ thiên thu" (cc 84-86).
    Lời chúc thọ của tú Ngông dâng lên vua Tự Đức thực chất chỉ là những lời nói móc họng, nhưng cũng nhờ đó mà ta được biết thái độ chính trị của nhóm Văn-thân đối với chính sách cai trị và ngoại giao của nhà vua. Hiển nhiên là Văn-thân đứng vào phe chống đối, nhưng đó chỉ là một thái độ chống đối tiêu cực rất tai hại cho tiền đồ của nước nhà. Đã không đồng ý với chính trị của nhà vua, tại sao Văn-thân không phân tích cho nhà vua thấy tình hình của đất nước trước cục diện thế giới như những ông Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Đình, Phan Liêm, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Vũ Phạm Khải, Trần Bích San đã làm, mà chỉ viết lách lung tung và ăn nói xỏ xiên. Như thế chỉ làm cho tình hình xã hội bi thảm hơn chứ có giúp được gì cho nhà vua! Nếu không trước tác được đàng hoàng thì ít nhất cũng nên bắt chước ông Hoàng Tam- đăng tập hợp học sinh và đồng bào thành đội ngũ trực diện với quân xâm lăng, hay theo gương của các anh hùng Cần-vương sau này nhất loạt nổi dậy để đánh đuổi thực dân Pháp.

    Trong bài chúc thọ, tôi lưu ý đặc biệt đến 3 câu 47, 48, 49:

    Rồi cụ xứ nhà thầy,
    Thôi nhà chung đi cả.
    Thôi đạo đường đi cả.

    Nghĩa là, nói một cách khác, nhóm Văn-thân chỉ mơ ước có một chuyện duy nhất là làm sao cho bọn Công giáo chết hết đi thì họ mới ăn ngon ngủ yên được! Và may ra họ mới để tâm vào vấn đề giải quyết những bài toán mà thời cuộc đặt ra cho họ. Vào năm 1878 này, Nguyễn Trường Tộ đã chết được 7 năm, Vũ Phạm Khải 6 năm, Trần Bích San 1 năm.v.v.. mà không thấy có một Văn-thân nào thay thế vào những chỗ trống ấy. Thế mới biết Văn-thân chỉ là một nhóm phá hoại chứ không phải là một tổ chức có chương trình xây dựng đất nước có qui mô. Ta cũng nên biết rằng vào năm 1866, chính vua Tự Đức đã theo lời đề nghị của tam nguyên Vị-xuyên sử dụng một nhân tài kiệt xuất của đất nước thời đó là Nguyễn Trường Tộ. Sau khi Pháp đại bại năm 1870 trước sự tấn công của Đức đúng như lời tiên đoán của Nguyễn Trường Tộ thì vua Tự Đức bắt đầu suy nghĩ về thực lực và kinh tế của Pháp, rồi khi họ Nguyễn qua đời, nhà vua bắt đầu tự xây dựng cho mình một chính sách riêng đối với sự đe dọa của Pháp. Từ năm 1877 trở đi, nhà vua đã biết nặng lời quở trách các quan về sự thiển cận của trí tuệ họ trước những vấn đề thời cuộc. Nhà vua bắt đầu lãnh đạo triều đình trong nỗ lực chống lại áp lực xâm lăng của Pháp. Nhà vua thỉnh cầu các quan phải là những Gia- cát Khổng-minh thì mới phân tích đúng tình hình và mới tìm ra được những biện pháp thích đáng để đương đầu với kẻ thù. Đến năm 1878 mà Văn-thân còn mỉa mai trách khéo nhà vua đã bất lực không giải quyết được những vấn đề của thời đại thì sự thực, so sánh với nhà vua, các ông Văn-thân còn thua nhà vua rất xa về sự bén nhậy trước tình hình chính trị, mặc dầu vua Tự Đức cũng không phải là một nhà chính trị tài ba gì.

    Nguyễn thị Quyên (1830-1897?): Bà là con gái út của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1788-1858), lí thuyết gia của vua Minh Mạng, tác giả bài Kẻ sĩ phổ biến năm 1833 là tuyên ngôn của chính sách văn hoá Việt-nam do triều đình chủ trương. Bà Quyên là vợ tú tài Trần Văn Ý, một Văn-thân, nên thường được gọi là bà tú Ý.
    Là con gái của một nhà đại trước tác và đại kinh doanh, bà tú Ý không kế thừa được những tư tưởng lớn và những hoạt động dinh điền vĩ đại của cha. Bà chỉ học được ở cha bài học "cầm chính đạo để tịch tà cự bí" (Kẻ sĩ) mà tà với bí bà chống không phải là Dương Mặc, mà chính là Công giáo.

    Qua bài Nhắn cố đạo Tây, bà tú Ý cho rằng tất cả những tư tưởng và học thuyết của đạo Công giáo là thừa, là vô dụng. Bà rõ ràng có thiện chí bảo vệ các giá trị của Nho giáo vốn tồn tại lâu dài nhờ vào một hệ thống tổ chức ăn khớp với nhu cầu an ninh, khả năng lí trí và quan hệ tình cảm giữa mọi thành phần trong xã hội. Nó có tính nhập thế mạnh mẽ và có tiềm năng thấm sâu vào cốt tủy của nhiều loại hình văn hoá, đặc biệt là văn hoá Việt-nam. Tuy nhiên, vì tính hoàn chỉnh của nó, Nho giáo thường nặng nề trong tư thế biến hoá để thích nghi với những tình huống mới, do đấy mà nó dễ bị co rúm trong tính thủ cựu, độc tài, chấp nhất và nhiều khi phản động. Ngay việc bà tú Ý xua đuổi các nhà truyền giáo tây phương về nước họ là một hành động áp bức tư tưởng tàn nhẫn. Nó bị nhiễm độc tố giáo điều. Nó khước từ mọi đối thoại tự do, dân chủ. Nó bóp nghẹt mọi toan tính phê phán, nỗ lực bao dung, mọi "hoài bão sáng tạo mới", đúng như nhận xét của giáo sư Hồ Lê trong bài báo Cái hay và cái dở của Nho giáo, đăng trong tập san 5 năm Hán Nôm 1991-1995 do Trung tâm nghiên cứu hán nôm xuất bản, 1995, tr. 166-170.

    Bài thơ này còn chứng thực rằng vì thiếu hẳn tác dụng thẩm thấu đối với các trào lưu tư tưởng khác, phong trào Văn-thân khép kín mọi cửa ngõ ra vào, nó không thu nhận được bất cứ một luồng ảnh hưởng nào từ bên ngoài tới, và rồi chính nó cũng bị ngạnh kết dần dần trong cái vỏ cứng nhắc của nó, để rồi chết dần chết mòn trong sự cô độc lạnh lùng.



  4. Được cám ơn bởi:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com