NIỀM XÁC TÍN


Đề cập đức tin – một trong ba đức đối thần, Thánh LM TS Tôma Aquinô(1225-1274) phân tích: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng ĐỨC TIN, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc”.

Cũng liên quan đức tin, Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) cho biết: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. ĐỨC TIN tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. ĐỨC TIN làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay”.

Đặc biệt là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã từng nhắn nhủ riêng với Giáo Hội Việt Nam: “Xin mượn lời Thánh Phaolô để nhắn nhủ rằng: ‘Các con hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can trường và mạnh mẽ’ (1 Cr 16:13). Và để biểu dương hơn nữa lòng thương yêu, săn sóc và cảm phục, cha nhắc lại đây lời Thánh Phaolô: ‘Hằng ngày, cha phải cám ơn Thiên Chúa vì các con. Thực thế, đức tin các con mãnh liệt thêm mãi, tình thân ái của các con với tha nhân mỗi ngày một dồi dào, khiến Cha được hãnh diện vì chúng con trước mặt Giáo hội của Chúa, hãnh diện vì các con bền chí, vững lòng tin trong mọi cơn bách hại, trong những giờ gian lao khốn khó: như thế mới xứng đáng vào nước Thiên Chúa, chính vì Ngài mà các con đã chịu đau khổ’ (2 Tx 1:3-5)”.

Đức tin trừu tượng, không thể sờ được, nhưng có thể cảm nhận một cách cụ thể.Thật lạ! Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải có lòng can đảm để có thể đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô.Các ngài đã can đảm, và một niềm xác tín rằng “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta – Kitô hữu Công giáo – là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi, chứ không có bất cứ một thần linh nào khác!

Chúng ta diễm phúc là nhận biết Chúa và tin theo Ngài, nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ. Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau). Tuyên tín một cách đơn giản là “làm dấu Thánh Giá”, thế mà đôi khi chúng ta làm cho xong lần, vội vã như “phù phép”, thậm chí có khi tay “vẽ dấu Thánh Giá” mà miệng còn càm ràm hoặc lầm bầm điều gì đó. Ôi thôi!

Biết rằng con người yếu đuối, dễ thay lòng đổi dạ, nhưng không thể cứ viện cớ đó để tự biện hộ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác, chắc hẳn nên xét lại lắm. Ngày xưa, ông Giôsuê đã quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Israel và triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân về lời tuyên phán của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác”(Gs 24:2). Ngày nay, chúng ta gọi họ là những kẻ phản bội hoặc bội bạc, nhưng ngày nay chúng ta cũng có hơn họ, bởi vì chúng ta cũng đã bao lần phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa nhân hậu.

Tuy nhiên, ông Giôsuê vẫn không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TUỲ Ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Nghe vậy mà họ thấy “rét”. Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).

Cũng là phàm nhân với nhau nên cũng giống nhau y chang. Nghĩa là chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa thực sự “nên người”. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa:“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên”(Tv 34:2-3). Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:15). Đó là sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta đã xác tín là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.

Tuyệt đối Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành (Mt 19:17), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài vẫn luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” (Tv 34:16-17). Thật vậy,“họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:19-21). Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34:21). Đó là cách quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Phàm nhân là loài yếu đuối, chúng ta là phàm nhân nên chúng ta cũng yếu đuối, mà càng yếu đuối thì càng cần có đức tin, và chính đức tin làm cho chúng ta nên vững mạnh. Đức tin và đức ái liên quan tinh thần phục vụ – sống cho và sống vì nhau – khởi đầu từ gia đình. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy TÙNG PHỤC LẪN NHAU” (Ep 5:21).

Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân giải thích“dài hơi” một chút:“Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25).Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng NƯỚC và LỜI hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27). Thiên Chúa là Đấng chí thánh nên những gì thuộc về Ngài đều phải là thánh.

Tương tự, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28).Rất hợp lý, bởi vì vợ chồng “tuy hai mà một”, trở nên “một” qua bí tích Hôn phối. Nên một thì không thể là hai hoặc ba, nghĩa là “người này cũng là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, chỉ có kẻ ngu xuẩn mới hành hạ chính mình, nhưng“người ta NUÔI NẤNG và CHĂM SÓC thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh xác định rạch ròi: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT XƯƠNG MỘT THỊT” (Ep 5:31).Và ThánhPhaolô minh định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo Hội – và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gắng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình. Hôn nhân là bí tích do Thiên Chúa thiết lập chứ không phải do loài người tạo nên. Thế nên không thể “vui ở, buồn đi” theo ý mình.

Cái gì cũng có tính liên đới, dù đó là điều tốt hay xấu. Tương tự, đức tin cũng có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết – bởi vì “Chúa lấy sinh khí lại, chúng tắt thở ngay” (Tv 104:29), và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17&26). Đó là hai cái chết: chết thể lý và chết tinh thần. Cái chết nào cũng đáng sợ!

Hôm đó, khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Ngàinói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng cảm thấy “nóng gáy” nên nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”(Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN” (Ga 6:61-64). Quả thật, vấn đề đức tin là vấn đề thực sự quan trọng. Không phải cứ nói tin là tin, vì lời nói đó có thể chỉ là “hàng giả” – giả vờ vậy thôi. Cách xác tín cho biết “sức khỏe tâm linh” của chúng ta ra sao, khỏe hay yếu, hoặc cứ làng xàng – chẳng khỏe cũng chẳng yếu.

Thật vậy, ngay từ lúc đầu, Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Thế nên Ngài cho biết: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy,Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”(Ga 6:67).Nhưng ngư phủ Simôn Phêrô nói ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Thật tuyệt vời! Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã xác tín. Thật vậy, chính ông đã công khai tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con ĐÃ TIN và NHẬN BIẾT chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).

Ôi, lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất, và luôn biết tín thác vào chính Thiên-Chúa-Con-Người ấy.

Cũng liên quan đức tin, Thánh LM Piô Năm Dấu (1887-1968) cho biết: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn TRONG ĐỨC TIN, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy phải bước đi TRONG ĐỨC TIN tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu”.

Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin thắp lên ánh sáng đức tin trong mỗi chúng con, xin nâng đỡ để chúng con hãnh diện tuyên tín qua từng ánh mắt và mọi động thái, xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, và tất cả chỉ vì Thánh Danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU
Mạng Lưới Cầu Nguyện