|
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên
Trong Tông huấn Đức Kitô Đang Sống (Christus Vivit, 2019), Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Điều quan trọng là cần phải nhận thức rằng Đức Giêsu là một người trẻ. Người đã hiến dâng mạng sống mình khi Người là, theo ngôn ngữ của thời đại hôm nay, người trưởng thành trẻ” (Christus Vivit 23). Là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Giêsu Kitô, Đấng Trẻ Trung Muôn Đời, Giáo hội luôn là Giáo hội trẻ và là Bạn của các bạn trẻ. Giáo hội ý thức rằng việc đồng hành và mục vụ giới trẻ cách hữu hiệu sẽ giúp họ ngày càng trưởng thành hơn về mọi mặt, hầu đóng góp phần mình trong việc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo hội giữa dòng đời.
Trong phạm vi toàn cầu, theo các thống kê gần đây, khoảng một phần tư dân số thế giới là người trẻ. Nhận thức về tầm quan trọng của giới trẻ trong đời sống Giáo hội và xã hội, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Giới trẻ, từ ngày 3-28/10/2018, với chủ đề “Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Vào đầu năm 2019, Đại hội Giới trẻ Thế giới lần thứ XVI diễn ra tại Panama, từ ngày 22-27/1/2019. Theo tinh thần của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Giới trẻ và Đại hội Giới trẻ Thế giới diễn ra tại Panama, cùng với những thao thức về vai trò của giới trẻ trong Giáo hội, ngày 25/3/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn Đức Kitô Đang Sống.
Tại kỳ họp lần thứ nhất diễn ra từ ngày 22-27/4/2019 ở Bãi Dâu, giáo phận Bà Rịa, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thống nhất về chương trình mục vụ của Giáo Hội Việt Nam trong ba năm (2019- 2022) là “Mục vụ giới trẻ”. Chương trình mục vụ này vừa tiếp nối chương trình “Mục vụ gia đình” mà Giáo hội Việt Nam đã thực hiện trong ba năm (2016-2019), vừa phù hợp với nhãn quan Giáo Hội hoàn vũ về giới trẻ. Đặc biệt, chương trình mục vụ này phù hợp với tinh thần của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới về Giới trẻ năm 2018, cũng như của Đức Thánh Cha Phanxicô về giới trẻ.
Chủ đề bài viết “Nhãn Quan Giáo hội về Giới trẻ trong Thế giới hôm nay liên quan đến nhiều lãnh vực và khía cạnh khác nhau trong đời sống Giáo hội: từ nền tảng Kinh Thánh đến suy tư thần học, từ lịch sử Giáo hội tới bối cảnh hiện tại, từ nội dung giáo lý đến việc triển khai giáo lý, từ những dấu chỉ thời đại đến việc đọc những dấu chỉ đó và đưa ra đường hướng mục vụ phù hợp. Nội dung bài viết này chỉ đề cập cách tổng quát nhãn quan Giáo hội về giới trẻ theo những đề mục sau đây:(1) Trở về nguồn, (2) Đọc dấu chỉ, (3) Đường Emmau và (4) Hướng mục vụ.
1. Trở về nguồn
Ngày 26/01/2019, tại Đại hội Giới trẻ Thế giới lần thứ XVI, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta không thể lớn lên nếu chúng ta không có gốc rễ khỏe mạnh nâng đỡ và giúp chúng ta đứng vững. Thật dễ dàng bị trôi dạt khi không có gì để bám víu, hỗ trợ”. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh muôn màu về những người trẻ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta học được những bài học hữu ích từ những người trẻ sống ngược với giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa, chẳng hạn như Cain, Êxau, Ghítôn, Rơkhápam, Ápsalôm, và các con cái của Êli. Nhưng, hơn thế, chúng ta học được những kinh nghiệm quý báu từ những người trẻ vâng theo thánh ý Thiên Chúa và cộng tác đắc lực vào chương trình cứu độ của Người, chẳng hạn như Nôê, Ápraham, Giuse, Môsê, Giôsuê, Samuen, Đavít, Samson, Gióp, Rút, Étte, Giêrêmia và các tiên tri khác.
Nhiều trình thuật Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt trong nền Văn Chương Khôn Ngoan, cho chúng ta biết cách thức nào giúp người trẻ có thể trở nên khí cụ tốt lành theo thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn như giúp người trẻ sống đời thanh khiết: “Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy” (Tv 119,9); giúp người trẻ trung tín: “Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv 71,5); giúp người trẻ trưởng thành trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân: “Cậu bé Samuen thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (1 Sm 2,26). Một trường hợp khác nói rõ cách giúp người trẻ đón nhận, sống và chuyển tải gia sản tinh thần của tổ tiên: “Năm thứ tám triều đại của Giôsigiahu, lúc còn là một thanh niên, vua bắt đầu tìm kiếm Thiên Chúa của vua Đavít, tổ tiên vua; và năm thứ mười hai, vua bắt đầu thanh tẩy xứ Giuđa và thành Giêrusalem, loại ra khỏi đó các tế đàn, các cột thờ, các tượng tạc tượng đúc” (2 Sbn 34,3).
Nhiều khuôn mặt trẻ trong Kinh Thánh Tân Ước đáng chúng ta đề cập tới, chẳng hạn như Đức Maria, thánh Giuse, các thánh tông đồ. Tuy nhiên, khuôn mặt trẻ đáng để chúng ta quan tâm nhất là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Đức Giêsu, Đấng trẻ trung muôn đời, muốn ban cho chúng ta những trái tim trẻ mãi. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta “hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới” (1 Cr 5,7). Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy cởi bỏ “con người cũ” và mặc lấy con người “trẻ” [mới] (Cl 3,9-10)”(Christus Vivit 13). Ngài viết tiếp: “Trẻ trung đích thực có nghĩa rằng có trái tim với khả năng yêu thương, trong khi những gì tách biệt chúng ta khỏi người khác làm cho tâm hồn già cỗi” (Christus Vivit 13). Đồng thời, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhận định rất đúng đắn, sâu sắc và ý nghĩa: “Trẻ không đơn giản chỉ về một khoảng thời gian; nó là tình trạng của tâm trí” (Christus Vivit 34).
Kinh Thánh Tân Ước không cho chúng ta biết nhiều về “thời tuổi trẻ” của Đức Giêsu, ngoại trừ vài sự kiện vào thời thơ ấu và năm Người 12 tuổi. Thánh ký Luca cho chúng ta biết lúc 12 tuổi, Đức Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem. Xong kỳ lễ hai ông bà trở về mà không biết Người đang lưu lại Giêrusalem. Sau ba ngày họ tìm được Người trong Đền Thờ, lúc đó Người đang ngồi giữa các thầy dạy để lắng nghe, đặt câu hỏi và giải thích cho họ về những vấn đề cốt lõi trong đời sống tôn giáo, văn hóa và xã hội Do Thái. Khi Đức Maria nói với Đức Giêsu về chuyện vất vả tìm Người, Đức Giêsu trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Thánh Luca viết tiếp: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,51-52). Sự trưởng thành của Đức Giêsu về thể lý đi đôi với sự trưởng thành về tâm linh, cũng như các chiều kích và tương quan khác trong xã hội Do Thái tại gia đình và thôn xóm ở Nadarét, quê hương Người.
Đức Giêsu là con bác thợ mộc và Người cũng học để trở thành người thợ mộc chính hiệu. Với đôi tay của người thợ mộc lành nghề, những khúc gỗ được định dạng và trở thành những phương tiện sống động gắn bó với con người, làm cho con người sống hòa hợp và xứng đáng hơn trong môi trường thế giới thụ tạo. Với kinh nghiệm của người thợ mộc, Đức Giêsu đã đào tạo các môn đệ, chuẩn bị cho họ những hành trang cần thiết, để chính họ sẽ tiếp tục sứ mệnh của Người ở trần gian. Người đã định hình, gọt dũa, trau dồi và biến các môn đệ mình từ những người trẻ đơn sơ mộc mạc thành những cột trụ của Giáo Hội mà Người thiết lập.
Đức Giêsu đã trở thành gương mẫu cho những người trẻ trong việc lắng nghe, tin tưởng, vâng phục và trung thành với thánh ý Thiên Chúa. Là những người trẻ, theo Đức Giêsu, các môn đệ đã hăng hái làm chứng cho Người và Tin Mừng của Người. Hơn nữa, trên đường rao giảng Tin Mừng, các môn đệ Đức Giêsu đã tuyển chọn những người trẻ đầy Thánh Thần, đầy nhiệt huyết và khôn ngoan để cộng tác với họ. Chẳng hạn như thánh Phê-rô đã chọn người trẻ Máccô làm người cộng sự với ngài trong công cuộc loan báo Tin Mừng (1 Pr 5,13). Thánh Phaolô đã chọn người trẻ đồng hành là Timôthê. Ngài nhắc nhở Timôthê: “Anh hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hoà cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). Ngài cũng khích lệ Timôthê: “Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (1 Tm 4,12).
Tiếp nối truyền thống Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, ngay từ rất sớm các giáo phụ quan tâm đến những người trẻ trong Giáo Hội. Chẳng hạn như thánh Irênê (130–202) diễn tả Đức Giêsu là người trẻ giữa những người trẻ và tôn vinh Người là mẫu gương lý tưởng cho những người trẻ trong Giáo hội qua muôn thế hệ. Thánh nhân viết rằng Đức Giêsu là ”một người trẻ giữa những người trẻ, trở thành mẫu gương cho họ và vì vậy thánh hiến họ cho Đức Chúa” (Chống Lạc Giáo, II, 22, 4). Trong lịch sử Giáo hội, noi gương Đức Giêsu, nhiều người trẻ đã góp phần rất quan trọng trong việc làm chứng cho Tin Mừng của Người bằng đời sống thánh thiện, hy sinh, tận hiến, như thánh Pêpêtua, thánh Annê, thánh Luxia, thánh Maria Gôrétti, thánh Đa Minh (Đôminicô Saviô), thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Nhờ các ngài, Giáo hội luôn diễn tả mình là thực thể trẻ trung và can trường giữa muôn vàn gian khổ, khó khăn, bấp bênh của thế sự.
Giáo hội khai nguyên từ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,1-12). Giáo hội luôn là Giáo hội trẻ, bởi vì Giáo hội không ngừng được Chúa Thánh Thần biến đổi, làm cho mới mẻ và sống động, để ngày càng xứng đáng hơn với phẩm vị là Hiền Thê của Đức Kitô, hầu thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Trong Sứ Điệp gửi các bạn trẻ khi kết thúc Công đồng Vatican II (ngày 8 tháng 12 năm 1965), các Nghị Phụ nhấn mạnh: ”Giáo hội không ngừng đổi mới hình ảnh của mình để ngày càng diễn tả tốt hơn chương trình của Đấng Thiết Lập Giáo hội, Đấng Hằng Sống, Đức Kitô, Đấng luôn luôn trẻ trung.” Đồng thời, các ngài thổ lộ tâm tình với các bạn trẻ: “Nhân danh Thiên Chúa, và Con của Người là Đức Giêsu Kitô, chúng tôi mời gọi các bạn hãy mở tâm hồn mình ra với mọi hoàn cảnh của thế giới này, để lắng nghe lời khẩn khoản của anh chị em mình và phục vụ họ bằng chính năng lực trẻ của các bạn.” Quả thật, từ Công đồng Vatican II đến nay, Giáo hội ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của các bạn trẻ trong đời sống và sứ mệnh của mình.
Giáo hội là thực thể luôn tươi trẻ giữa lòng thế giới, bởi vì Giáo hội là bí tích của Đức Kitô, là hiện thân của Người, Đấng trẻ trung muôn đời, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi tới muôn đời (Dt 13,8).Các Nghị Phụ của Công đồng Vatican II nhắn nhủ các bạn trẻ: “Hãy ngắm nhìn Giáo hội và các bạn sẽ thấy khuôn mặt Đức Kitô, Đấng chân thật, khiêm tốn và khôn ngoan, Vị Ngôn sứ của sự thật, tình yêu, người đồng hành và người bạn của các bạn trẻ.” Qua Giáo hội, Đức Giêsu không ngừng mời gọi các bạn trẻ chiếu giãi ánh sáng của Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Ánh sáng này vừa cho phép các bạn trẻ phân định ơn gọi của mình, vừa giúp họ thi hành ơn gọi của mình cách trung tín nhất.
Tiếp nối tinh thần của Công đồng Vatican II về giới trẻ, trong Tông huấn Hãy Vui Mừng trong Chúa (Gaudete in Domino, 1975), thánh Giáo Hoàng Phaolô VI viết: “Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có mọi lý do để đặt sự tín nhiệm vào giới trẻ Kitô giáo: Giới trẻ sẽ không làm cho Giáo hội thất vọng nếu Giáo hội có đủ những người lớn tuổi hơn có khả năng hiểu giới trẻ, yêu giới trẻ, hướng dẫn giới trẻ và mở ra cho giới trẻ tương lai bởi thông truyền cho giới trẻ sự trung tín hoàn toàn với Sự Thật luôn tồn tại” (Gaudete in Domino 6). Tương tự như thế, trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi, 1975), thánh nhân viết: “Hoàn cảnh hiện nay thôi thúc chúng ta lưu ý đặc biệt đến những người trẻ. Sự gia tăng về số lượng và sự hiện diện ngày càng nhiều của họ trong xã hội, những vấn đề đang vây lấy họ, đánh thức mọi người phải nhiệt tâm và khôn ngoan lo lắng giúp đỡ họ hiểu biết và sống lý tưởng Tin Mừng. Ngoài ra, những người trẻ, một khi đã được đào tạo kỹ càng về đức tin và cầu nguyện, sẽ càng ngày càng trở nên những tông đồ cho giới trẻ. Giáo hội tin tưởng rất nhiều vào sự đóng góp của họ và chúng ta đã nhiều lần bày tỏ sự tín nhiệm hoàn toàn vào họ” (Evangelii Nuntiandi 72). Đối với thánh nhân, Giáo hội cần quan tâm đặc biệt đến giới trẻ, nhất là giúp họ có được nhãn quan và tâm thức của Giáo hội trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho toàn thể thế giới.
Đồng nhịp với thánh Giáo hoàng Phaolô VI, trong Tông huấn Kitô Hữu Giáo dân (Christifideles Laici, 1988), thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Giáo hội nhìn thấy nơi giới trẻ con đường hướng về tương lai đang đợi mình, và Giáo hội nhận ra nơi giới trẻ hình ảnh và lời nhắc nhủ về sự tươi trẻ mà Thần Khí của Đức Kitô dùng để không ngừng làm phong phú Giáo hội” (Christifideles Laici 46). Ngài cũng nhắc nhở mọi người, đặc biệt các mục tử của Giáo Hội: “Đừng coi giới trẻ chỉ như đối tượng của mối quan tâm mục vụ của Giáo hội mà thôi. Thực sự, giới trẻ đang được và phải được khuyến khích trở thành những chủ thể tích cực, tham gia vào việc Phúc âm hóa và đổi mới xã hội”(Christifideles Laici 46). Như thế, giới trẻ vừa là đối tượng phục vụ của Giáo hội, vừa là chủ thể của Giáo hội trong việc diễn tả khuôn mặt Đức Kitô cho anh chị em mình.
Thánh Antôn Pađôva (1195–1231), vị thánh trẻ và là nhà giảng thuyết lừng danh, khẳng định rằng “hành động có tiếng vang hơn lời nói”. Làm chứng cho niềm tin bằng hành động không phải là chuyện xa xưa, nhưng là chuyện của các thành phần trong thực thể có tên là “Giáo hội của Đức Kitô” hôm nay và luôn mãi. Do đó, nói đến Giáo hội là nói đến cộng đoàn chứng nhân, nói đến Kitô hữu là nói đến chứng nhân, và đặc biệt, nói đến giới trẻ là nói đến những chứng nhân sống động nhất. Giới trẻ luôn là những người làm chứng cách hữu hiệu nhất, bởi vì hơn bất cứ tầng lớp nào, giới trẻ hiện diện trong hầu hết các lãnh vực xã hội.
2. Đọc dấu chỉ
Thế giới hôm nay biến đổi mau chóng và mạnh mẽ hơn nhiều so với quá khứ. Sự phát triển nhanh của khoa học, kỹ thuật, công nghệ dẫn đến những biến đổi nhanh về tâm thức và hành động của con người. Lịch sử nhân loại cho chúng ta biết rằng trong quá khứ, sự biến đổi từ hình thái xã hội hay phương thức lao động sản xuất này đến hình thái xã hội hay phương thức lao động sản xuất khác đòi hỏi thời gian khá dài. Trong bối cảnh hiện tại thì không còn như vậy nữa. Chủ trương của con người đương thời có thể tóm lại như sau: Trong một khoảng thời gian ngắn nhất, biến đổi được nhiều nhất, làm được nhiều việc nhất và thu được nhiều hoa lợi nhất.
Những vấn đề nổi cộm trong thế giới hôm nay rất đa dạng và liên quan đến mọi lãnh vực của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Chẳng hạn như những vấn đề gai góc nảy sinh trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc. Những vấn đề cụ thể khác cũng gai góc không kém, chẳng hạn như di dân bất hợp pháp, phân biệt chủng tộc, bạo lực, chiến tranh, dịch bệnh. Một số vấn đề khác nữa cũng được nhiều người quan tâm, chẳng hạn như sự ấm lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn hay môi trường thiên nhiên bị khai thác quá mức.
Trong khi đời sống vật chất của con người ngày càng được cải thiện, đây đó vẫn còn sự nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn và các hình thức bất công ngày càng nhiều. Hơn nữa, tương quan giữa người với người xem ra càng nghèo nàn, các hình thức chủ nghĩa mới ra đời, chẳng hạn như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa tương đối. Đáng buồn hơn, sự xuống cấp về đời sống luân lý đã dẫn đến bao hình thức lệch lạc và hệ lụy khác về phái tính, đồng tính luyến ái, hôn nhân tự do và ly dị lan tràn.
Sự khủng hoảng gia đình xảy ra khắp nơi trên thế giới. Những giá trị truyền thống của gia đình ngày càng phai nhạt. Gia đình đơn thân khá phổ biến. Các hình thức gia đình mở rộng không được quan tâm đúng mức. Hình ảnh gia đình gồm nhiều thế hệ, như ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt dưới một mái nhà rất hiếm. Đặc biệt, ở một số nước trên thế giới khi con cái đến tuổi trưởng thành, họ rời gia đình và sống riêng theo ý mình. Nghĩa “gia đình” (family), nghĩa “nhà” (home) xem ra không mấy quan trọng đối với nhiều người trẻ.
Thế giới kỹ thuật số (the digital world) hay thế giới ảo (the virtual world) ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ. Xét về mặt tích cực, thế giới này giúp người trẻ có điều kiện học hỏi, tích lũy kiến thức và trang bị những gì cần thiết cho cuộc sống. Tuy nhiên, thế giới này quá cuốn hút đối với người trẻ, cuốn hút đến mức có nhiều người “nghiện”. Một số người trẻ dành hầu hết thời gian để tương tác với thế giới này, và dĩ nhiên, họ không còn thời gian để tương tác với những con người bằng xương bằng thịt ngay cạnh họ. Như thế, mặt trái của thế giới này thật khủng khiếp. Nhiều người trẻ không còn liên lạc với những người thân thích của mình nữa. Họ lãnh đạm với “thế giới thực”, thế giới với những con người cụ thể đang hiện diện xung quanh mình.
Trong thế giới toàn cầu hóa hay thế giới phẳng, ngoài các hình thức thị trường truyền thống, như thị trường tiền tệ, thị trường hàng hóa, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường phân phối sản phẩm, những người trẻ còn tiếp xúc với vô vàn hình thức thị trường khác nữa, chẳng hạn như ”thị trường các ý tưởng”, “thị trường các tôn giáo”, bởi vì ngày càng dồi dào các ý tưởng và có thêm nhiều tôn giáo. Theo đó, những người trẻ có thể chọn lựa ý tưởng mà họ thích, tôn giáo mà họ muốn. Thực tế cho thấy rằng, vì quá nhanh và ảo, nhiều người trẻ nhầm lẫn trong việc chọn lựa và hậu quả là họ không có cơ hội để phát triển con người toàn diện.
Một số người trẻ cho rằng các tôn giáo với truyền thống lâu đời không năng động, không cuốn hút, không hấp dẫn, không phù hợp với họ, thậm chí còn làm cho họ thất vọng. Họ cố gắng tìm tôn giáo phù hợp với não trạng mình. Đây là lý do giải thích tại sao các tôn giáo mới nở rộ trên thế giới và không có dấu hiệu giảm lại. Với họ, tôn giáo nào phù hợp không gian, thời gian và hoài bão của họ, thì họ theo. Do đó, họ không quan tâm lắm về nội dung đức tin hay giáo lý của mỗi tôn giáo.
Nhiều người trẻ còn đi xa hơn khi cho rằng họ có “đời sống tâm linh không tôn giáo”. Điều này có nghĩa rằng họ xây dựng linh đạo của mình, mà không nhất thiết phải quan tâm hay tham chiếu bất cứ hình thức tôn giáo đặc thù nào. Đối với họ, tôn giáo theo nghĩa truyền thống, tôn giáo với giới răn, cấu trúc, luật lệ, phụng vụ chặt chẽ, làm họ mất tự do lương tâm, tự do tư tưởng, cũng như các hình thức tự do khác và vì vậy làm giảm đi phẩm giá của họ. Họ tạo lập linh đạo riêng cho mình giữa ”ma trận các linh đạo” mà họ cho là không phù hợp, không đáng có.
Nhiều người trẻ thích thể thao hơn linh thao, thể chất hơn tinh chất, thể hình hơn siêu hình, thể diện hơn ẩn diện. Họ dành nhiều thời gian và tâm huyết để xây dựng và phát triển các tương quan bên ngoài hơn là chú ý để làm phong phú đời sống nội tâm. Họ để ý những gì có thể đụng chạm hay cân đong đo đếm được, hơn là nhưng gì thuộc bản chất con người và những gì là nền tảng làm cho con người phân biệt với vạn vật. Họ quan tâm đến đời sống văn hóa, xã hội, chính trị, thương mại, kỹ thuật, công nghệ, hơn là đời sống tôn giáo. Những “siêu nhân”, chẳng hạn như siêu diễn viên, siêu cầu thủ, siêu mẫu, siêu MC cuốn hút tâm trí họ. Do đó, họ tìm hiểu, học hỏi và định dạng mình theo phong cách những người này hơn bất cứ ai khác trên trần gian này.
Giáo dục Kitô Giáo thiếu chỗ đứng trong nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt, các quốc gia ở Châu Á. Thời gian, không gian, và nguồn lực dành cho giáo dục Kitô Giáo ở các quốc gia này quá hạn chế so với các hình thức giáo dục khác. Khi các Kitô hữu trẻ được giáo dục, đào tạo và trưởng thành trong những môi trường mà tinh thần Kitô Giáo bị phủ nhận hoặc chưa có cơ hội bén rễ, họ sẽ chối bỏ hoặc dần quên đi những giá trị căn bản của tôn giáo mình. Hậu quả là khi trưởng thành và tiếp cận môi trường mới, niềm tin của họ rất dễ lung lay và ngày càng trở nên phai nhạt.
Có những người trẻ đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và trở thành thành phần của Giáo hội, tuy nhiên, họ sao nhãng với đời sống Giáo hội khi gặp những biến chuyển mới. Họ cảm thấy miễn cưỡng khi tham gia đời sống và hoạt động của Giáo hội. Đối với họ, đời sống cầu nguyện hay việc đến nhà thờ là chuyện rất riêng tư, chỉ khi họ cần mà thôi, chứ không phải là những gì ổn định, bền vững trong cuộc sống. Họ không chống lại Giáo hội, không chống lại nội dung đức tin Kitô Giáo, tuy nhiên, họ không mấy quan tâm. Trong khi họ dành quá ít thời gian cho cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, tham dự các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, họ lại dành quá nhiều thời gian cho các hoạt động khác. Một số người trẻ khi còn ở trong giáo họ, giáo xứ thì tham gia đời sống Giáo hội khá đầy đủ. Tuy nhiên, khi học tập hay làm ăn sinh sống xa quê, họ không còn giữ “thói quen đạo đức, tốt lành, thánh thiện” đó nữa. Những thách thức của môi trường mới làm cho họ không màng tới các hình thức đạo hạnh mà họ đã từng thực thi nơi quê hương mình.
Trong đời sống Giáo hội, còn có nhiều vấn đề nổi cộm, chẳng hạn như vấn đề hội nhập văn hóa, đối thoại liên tôn, vai trò của phụ nữ, ơn gọi độc thân dâng hiến, đời sống luân lý của nhiều Kitô hữu xuống cấp, hôn nhân gia đình đổ vỡ. Các hình thức lạm dụng quyền lực, lạm dụng tính dục của những người sống đời độc thân dâng hiến trong bậc giáo sĩ, tu sĩ đem đến những hệ lụy đau thương cho Giáo hội. Căng thẳng giữa công lý và lòng thương xót liên quan đến những người lạm dụng luôn tồn tại. Làm sao Giáo hội có thể làm chứng cho Đức Giêsu và Tin Mừng của Người giữa những tiêu cực nghiêm trọng của con cái mình? Làm sao Giáo hội có thể thực thi vai trò ngôn sứ, trong khi con cái Giáo hội sống ngược với kho tàng đức tin (depositum fidei) mà Giáo hội đón nhận, sống, và chuyển tải?
Chúng ta có thể khẳng định rằng những tiêu cực trong xã hội và Giáo Hội khởi đi từ khủng hoảng đức tin (the crisis of faith). Sự khủng hoảng này dẫn tới các hình thức khủng hoảng khác, đặc biệt, khủng hoảng các chiều kích trong đời sống cá nhân và các tương quan giữa con người với nhau, với thế giới thụ tạo và với Thiên Chúa. Khi trái tim con người không còn chỗ cho đời sống nội tâm, cho đời sống tâm linh và cho Thiên Chúa, cũng là khi con người cho mình là đỉnh cao và trung tâm của vũ trụ này. Khi con người “quy ngã”, cũng là khi con người không còn là chính mình nữa và hậu quả là con người tự mình vùng vẫy giữa bóng đêm tội lỗi, sự dữ, và sự chết.
Trong thế giới hôm nay, cuộc sống của những người trẻ được đan dệt bởi các yếu tố nảy sinh từ các môi trường văn hóa, truyền thống và tôn giáo khác nhau. Họ dễ chấp nhận những gì mới mẻ nảy sinh từ các môi trường này. Không ai có thể thông thạo tất cả các lãnh vực để hướng dẫn họ cách thấu đáo. Do đó, sự cộng tác của mọi người trong tất cả các lãnh vực là cần thiết, để có thể giúp người trẻ sống tốt hơn, đồng thời, giúp họ trung tín, kiên vững hơn với niềm tin Kitô Giáo của mình giữa những bấp bênh và đổi thay của cuộc sống.
Giáo hội được mời gọi tìm hiểu, đánh giá, lượng định những dấu chỉ thời đại để có thể giúp các bạn trẻ sống và diễn tả niềm tin của mình. Giáo Hội giúp các bạn trẻ biết đọc những dấu chỉ thời đại, biết phân định, biết chọn lựa những gì phù hợp với bản chất của niềm tin Kitô Giáo. Không những thế, Giáo hội luôn đồng hành với các bạn trẻ, để giúp họ trở thành những chứng nhân thực thụ của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người trong mọi hoàn cảnh. Trước những dấu chỉ của thời đại, Giáo Hội nhắc lại câu hỏi của Đức Giêsu đối với các môn đệ tại Xêdarê Philípphê: “Anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,16). Khi các bạn trẻ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Kitô của Thiên Chúa hay Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, cũng là khi họ ý thức hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình. Đồng thời, họ cảm nhận được sự cần thiết phải gắn bó với Người trong hành trình trần thế và chia sẻ kinh nghiệm cũng như cảm nhận của mình đối với những người xung quanh.
Giáo hội tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn hiện diện và hoạt động trong thế giới thụ tạo, và Thiên Chúa luôn diễn tả chương trình của Người qua những dấu chỉ thời đại. Trong hành trình dương thế, một mặt, Giáo hội trung tín với căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình, mặt khác, Giáo hội quan tâm đến những dấu chỉ thời đại. Tác vụ của Giáo hội không chỉ giúp các bạn trẻ đọc những dấu chỉ thời đại, mà còn giúp họ trả lời cho những dấu chỉ đó dưới ánh sáng Lời Chúa. Giáo hội luôn ý thức rằng Lời Chúa không lệ thuộc trực tiếp vào bất cứ nền văn hóa hay truyền thống đặc thù nào, nhưng là thực thể sống động, luôn thích ứng với mọi nền văn hóa và truyền thống trong gia đình nhân loại (Evangelii Nuntiandi 20). Như vậy, giữa những dấu chỉ thời đại, với ánh sáng Lời Chúa, các bạn trẻ luôn nhận ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo hội, đồng thời, nhận ra sứ mệnh của mình giữa lòng nhân thế.
Nhìn lại lịch sử, Giáo hội luôn ý thức đặc tính của mình là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tuy nhiên, Giáo hội cũng ý thức mặt tối nơi các thành phần trong Giáo hội luôn còn đó. Giữa những căng thẳng, khó khăn và thử thách của hành trình trần thế, Giáo hội luôn vững tin rằng, trong Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu luôn hiện diện với Giáo hội. Người không để Giáo hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người quỵ ngã trước sự tấn công của ba thù: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Con thuyền Giáo hội giữa biển đời có khi yên tĩnh, có khi tròng trành, có khi nguy khốn, tuy nhiên, không bao giờ bị chìm xuống, vì có Đức Giêsu là Thuyền Trưởng luôn ở đàng lái (Mc 4,38). Người luôn đồng hành và dẫn dắt Giáo hội, như Người đã đồng hành và dẫn dắt các môn đệ trên các nẻo đường của miền Paléttin (Palestine), đặc biệt, sau khi Phục Sinh, Người đã đến với hai môn đệ trên đường Emmau để trao ban bình an và hy vọng cho họ. Cùng với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, họ đã trở nên những nhân chứng thực thụ của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.
3. Đường Emmau
Ba tài liệu quan trọng nhất liên quan đến Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ là Tài Liệu Làm Việc (Instrumentum Laboris), Tài Liệu Đúc Kết (Final Document) và Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống (Christus Vivit) của Đức Thánh Cha Phanxicô. Việc đặt tiêu đề của phần này là “Đường Emmau” để trình bày “Nhãn Quan Giáo Hội về Giới Trẻ trong Thế Giới hôm nay” khởi đi từ kinh nghiệm cá nhân được tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ (Rôma, 2018). Đây là Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đầu tiên được tổ chức để tìm hiểu, đánh giá, lượng định về vị trí, vai trò và sứ mệnh của giới trẻ trong đời sống Giáo Hội. Nhờ vậy, Giáo Hội có được bức tranh tổng thể về giới trẻ để đồng hành, chăm sóc mục vụ và giúp họ lớn lên trong đức tin, chọn lựa, và phân định ơn gọi.
Tài Liệu Làm Việc gồm ba phần, Phần I – Nhận Diện: Giáo Hội lắng nghe thực tại; Phần II – Giải Thích: Đức tin và sự phân định ơn gọi; Phần III – Chọn Lựa: Những con đường hoán cải về mục vụ và loan báo Tin Mừng. Sau gần bốn tuần làm việc, các Nghị Phụ đã thống nhất Tài Liệu Đúc Kết Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ cũng gồm 3 phần, nhưng đổi lại các đề mục, dựa trên câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau: Phần I – Đức Giêsu đi với họ; Phần II – Mắt họ mở ra; Phần III: Ngay lúc ấy, họ ra đi. Như chúng ta thấy, các đề mục trong Tài Liệu Đúc Kết phản ánh nhãn quan mới mẻ của các Nghị Phụ so với Tài Liệu Làm Việc. Ngôn ngữ Kinh Thánh đóng vai trò chủ đạo trong Tài Liệu Đúc kết, trong đó, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau là xương sống (backbone) hay mô hình (model) cho sự khai triển các chủ đề mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ quan tâm.
Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau cũng phản ánh cách thấu đáo 3 phần căn bản của Tài Liệu Làm Việc là: Nhận diện, giải thích và chọn lựa. (1) Nhận Diện – Họ nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; (2) Giải Thích – Họ giải thích kinh nghiệm gặp gỡ Người; (3) Chọn Lựa – Họ trở về với cộng đoàn mà họ đã bỏ đi vì thất vọng. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là hai môn đệ có khả năng nhận diện, giải thích và chọn lựa, mà nhờ “sự đồng hành bất chợt của người khách lạ”, sự đồng hành của Đức Giêsu Phục Sinh.
Khi nghiên cứu Tài Liệu Làm Việc, các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ đề nghị đưa vào Tài Liệu Đúc Kết nhiều tham chiếu Kinh Thánh hơn nữa. Bởi vì Tài Liệu Làm Việc quan tâm đến ngôn ngữ nhân loại học và các khoa học xã hội, trong khi ngôn ngữ Kinh Thánh ít được đề cập tới. Theo quan điểm của nhiều Nghị Phụ, cần có sự ưu tiên cho ngôn ngữ Kinh Thánh so với các hình thức ngôn ngữ khác, bởi vì ngôn ngữ Kinh Thánh là ngôn ngữ chính của nội dung đức tin Kitô Giáo, đồng thời, cũng là ngôn ngữ chính của Giáo Hội. Một số Nghị Phụ cho rằng ngôn ngữ của Tài Liệu Làm Việc nặng tính logic, hàn lâm và nghiên cứu, hơn là tính mục vụ, áp dụng và thực hành. Để có được Tài Liệu Đúc Kết, khoảng 400 góp ý sửa đổi liên quan đến Tài Liệu Làm Việc. Dĩ nhiên, những điểm căn bản của Tài Liệu Làm Việc đã được tích hợp trong Tài Liệu Đúc Kết. Cuối cùng, trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả rất thấu đáo những tư tưởng chính mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Giới Trẻ quan tâm, khai triển trong Tài Liệu Làm Việc và Tài Liệu Đúc Kết.
Trở lại với câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau, diễn ra trong ngày Đức Giêsu Phục Sinh, câu chuyện này được thánh ký Luca trình thuật ở chương cuối cùng trong Tin Mừng ngài biên soạn (Lc 24,13-35).Chỉ 23 câu, nhưng thánh nhân đã diễn tả những điểm chính yếu trong cuộc gặp gỡ đầy ngạc nhiên, lý thú và ý nghĩa giữa Đức Giêsu và hai môn đệ trẻ. Câu chuyện này có thể áp dụng cho mỗi cá nhân, cho toàn thể Giáo Hội, đặc biệt, cho cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Luca trình thuật rằng hai môn đệ trên đường trở về Emmau, sau khi chứng kiến hành trình rao giảng, sự đau khổ và sự chết của Đức Giêsu. Ban đầu, Đức Giêsu xuất hiện và đi cùng hai ông, nhưng họ không nhận ra Người. Đức Giêsu hỏi họ về những chuyện họ đang bàn tán và đã giải thích cho họ về những gì liên quan đến Người theo Kinh Thánh Cựu Ước: “Bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27). Đến gần làng của họ, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ đã mời Người ở lại. Khi đồng bàn với họ, Đức Giêsu đã cầm bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ mở ra và nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Trước cảnh tượng đó, họ đã hồi tưởng lại những gì Đức Giêsu trao đổi với họ trên đường đi. Sau đó, họ trở về Giêrusalem để loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ khác. Hình ảnh hai môn đệ khi sum họp với các môn đệ đang ở Giêrusalem hết sức đặc biệt. Vừa tới nơi, hai môn đệ chưa kịp cất lời, thì các môn đệ ở Giêrusalem đã mừng rỡ báo cho họ biết: ”Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn” (Lc 24,34). Hai ông cũng thuật lại cho các môn đệ ở Giêrusalem về những gì xảy ra đối với họ trên đường Emmau, đặc biệt, khi người khách bộ hành ở lại nhà họ.
Thánh ký Luca không cho chúng ta biết thêm nhiều về những gì Đức Giêsu đã nói, đã làm trong thời gian ở lại với họ. Tuy nhiên, những gì thánh nhân trình bày cho phép chúng ta hiểu được rằng khi Đức Giêsu ở lại với họ, Người không chỉ quan tâm đến đời sống tâm linh, mà còn quan tâm đến tất cả các chiều kích khác của đời sống họ nữa. Biến cố Emmau có thể được chia làm ba ”thì”: (1) Chia sẻ Lời Chúa, (2) cử hành Bí Tích Thánh Thể và (3) loan báo Tin Mừng. Đây cũng là ba thì trong đời sống Giáo Hội, ba thì trong đời sống mỗi Kitô hữu. Đặc biệt, đây là ba thì của cộng đoàn tham dự Bí Tích Thánh Thể.
Tâm trạng của hai môn đệ trên đường Emmau là tâm trạng của những người vô vọng. Cũng như các môn đệ Đức Giêsu và nhiều người khác, họ mong đợi Đức Giêsu sẽ giải thoát họ, giải thoát dân tộc Do Thái. Họ nói với người khách lạ đang đồng hành: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (Lc 24,21). Giấc mơ giải phóng trong họ cũng như nhiều người Do Thái khác đã tan biến thành mây khói khi Đức Giêsu đã chết. Đó là lý do giải thích tại sao họ rời bỏ cộng đoàn Giêrusalem để trở về làng quê Emmau, trở về đường xưa lối cũ của mình. Khi họ quay lưng lại với cộng đoàn Đức Giêsu thiết lập, cũng là khi “trời tối dần”, trí tối dần, tâm tối dần. Tuy nhiên, họ không ngừng trăn trở về Đức Giêsu, và quả thực, họ có cơ hội được khai trí mở lòng. Đức Giêsu, người khách lạ, đã giải thích cho họ về những trăn trở đó, dựa trên tâm tình tôn giáo của cha ông họ trong Cựu Ước.
Khi Đức Giêsu Bẻ Bánh, mắt họ mở ra và họ nhận ra Người. Chúng ta có thể lý giải rằng nếu họ không được chuẩn bị trước đó, nếu Đức Giêsu đã không trò chuyện với họ trước đó, nếu Đức Giêsu không đánh thức con tim của họ trước đó, thì khi Đức Giêsu bẻ bánh, họ không thể nào nhận ra Người được. Trên đường Emmau, con mắt thể lý của hai môn đệ luôn mở ra, mở ra để thấy đường về cố hương. Tuy nhiên, mắt tâm linh của họ vẫn bị đóng lại, bởi vì họ đi ngược hướng, đi ngược đường. Hướng họ đi là hướng chiều tà, hướng mặt trời lặn, hướng của đêm tối. Đức Giêsu muốn họ đi về hướng Giêrusalem, hướng Đức Giêsu là “Hừng Đông Rực Rỡ”, là “Mặt Trời Công Chính”. Đức Giêsu là Đường, nhưng không phải là con đường nhung lụa của vinh quang trần thế, càng không phải là con đường trở về quê quán trần gian. Người là Đường Xuống Với Con người, Đường Đau Khổ, Đường Thập Giá, Đường Trái Tim, Đường Thánh Thiện, Đường Về Với Thiên Chúa.
Dưới sự hướng dẫn của Thần Khí Đấng Phục Sinh, họ đã trở về Giêrusalem và cùng với các môn đệ khác, họ ra đi loan báo Đức Giêsu Phục Sinh và Tin Mừng của Người khắp nơi. Những gì họ được nghe, được chia sẻ khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh trở thành động lực cho sứ mệnh của họ đến hơi thở cuối cùng. Như vậy, tất cả mọi sự bắt đầu bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, được Người chia sẻ, được Người hướng dẫn. Điều này, cho phép chúng ta rút ra hệ luận rằng ai không muốn gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, ai không muốn Người chia sẻ, ai không muốn Thánh Thần của Người hướng dẫn, người đó không thể là chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh và Tin Mừng của Người được.
Ai ý thức sự hiện diện của Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, thì cũng hiệp thông với Người cách mật thiết và cảm nhận được sự thúc đẩy “sống Bí Tích Thánh Thể” cách chân thành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Người tham dự Lễ Bẻ Bánh, cũng là người biết chia sẻ tình bác ái và những gì thuộc về mình cho những người xung quanh. Khi làm như vậy, họ minh chứng rằng mình là dấu chỉ khả tín của Đức Giêsu và Tin Mừng của Người. Họ có thể đồng hành với những người khác như Đức Giêsu đồng hành với họ, yêu người khác như Đức Giêsu đã yêu họ và chia sẻ với người khác như Đức Giêsu đã chia sẻ với họ.
Trong Tông Huấn Đức Kitô Đang Sống, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: ”Đức Giêsu cùng đi với các môn đệ trên đường Emmau, ngay cả khi họ đang đi lạc hướng. Khi Đức Giêsu dự định đi xa nữa, họ nhận ra rằng Đức Giêsu đã cho họ món quà thời gian, vì vậy họ quyết định cho Người thời gian của họ bằng sự tiếp đón Người chu đáo” (Christus Vivit 292). Hai môn đệ có quyền tự do mời người khách bộ hành ở lại với họ hoặc để người khách bộ hành tiếp tục đi. Nếu hai môn đệ trên đường Emmau không mời người khách bộ hành cùng đi, không mời Đức Giêsu cùng đi, và đặc biệt không quảng đại mời Người ở lại nhà họ, thì họ đã không có cơ hội nhận ra Người, cũng như nhận ra mình để biến đổi và trở thành khí cụ hữu hiệu của Người.
Mời người lạ vào nhà mình, mời những người chưa biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Người về nhà mình, tỏ lòng tốt, lòng hiếu khách và phục vụ khách lạ cách tận tình như hai môn đệ trên đường Emmau là cách tốt nhất để mọi người thể hiện mình là môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu giữa dòng đời. Hôm nay, Đức Giêsu vẫn nhắc nhở chúng ta: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,35-36). Là những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không chỉ quan tâm đến việc giữ Mười Giới Răn và những bổn phận khác thuộc luật Chúa, luật Giáo Hội, mà còn quan tâm đến “những việc tốt” cần phải làm trong tương quan với anh chị em chúng ta nữa.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|