|
HÃY NẾM THỬ
VÀ HÃY NHÌN XEM ...
Đaminh Đinh Viết Tiên op
“Anh chị em hãy tôn thờ Chúa Giêsu nơi lòng anh chị em, luôn luôn sẵn sàng để minh chứng cho bất cứ ái hỏi anh chị em về niềm hy vọng của anh chị em” (1 Pr 3,15). Phải chăng đây là lúc cần minh chứng cho các chị niềm hy vọng về Chúa Giêsu, Đấng chúng ta tôn thờ ? Có nhiều cách minh chứng, ở đây chia sẻ cảm nghiệm, một cảm nghiệm đã giúp Tôi sống đời tận hiến, và hy vọng cũng là của các bạn.
Trong sách Đại Học có ghi lời của Đức Khổng Tử: “Tri chỉ, nhi hậu hữu đỉnh: định nhi hậu năng tĩnh: tĩnh nhi hậu năng an: an nhi hậu năng lư; lự nhi hậu năng đắc” (11,2). Nghĩa là: “Biết dừng đúng chỗ mới định được tâm: có định tâm mới có thể bình tĩnh; có bình tĩnh mới có bình an; có bình an mới có thể lo toan; có lo toan mới có thể làm việc được”
Chúa Giêsu mời gọi con người dừng lại nơi Ngài. Ai biết dừng lại nơi Ngài, Ngài sẽ thánh hoá con người họ trở thành con Thiên Chúa (Ga 1,12), ban cho con người được nghỉ ngơi, bồi dưỡng (Mt 11,28-30), được bảo tồn, phát triển (Ga 10,10), được an bình (Ep 2,17). Đó là nền tảng giúp tinh thần con người an tĩnh và sáng suốt, để toan tính lo liệu cho tốt công việc thường ngày.
Vâng, Chúa Giêsu trở thành điểm dừng thiết yếu cho con Người cần phải dừng lại nơi Chúa Giêsu, để lấy sức vươn lên Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu (Ga 14,6). Nói cách khác, con người chọn Chúa Giêsu làm hồn sống của mình, hay nói đúng hơn, con người được Chúa Giêsu chọn làm Thánh Điện của Ngài vì Ngài là Emmanuel (Mt 1,23). Con người được vinh dự có Đức Kitô sống cùng (Gl 2,20).
Vinh dự đã có, nhưng con người lại cảm thấy xa vời hoặc đang bận chen chân giữa cuộc đời. Mặc dầu vậy, Chúa Giêsu vẫn mời gọi con người cảm mến hạnh phúc này. Để cảm mến hạnh phúc này, cần diễn tiến qua ba giai đoạn:
1. Môi trường thanh vắng và tâm hồn an tĩnh
Có lẽ nhiều người đã có kinh nghiệm và lại dễ dàng chấp nhận rằng, trong thanh vắng an tĩnh, con người dễ tìm được việc nghỉ ngơi cho bộ óc cũng như cho tâm hồn, nhất là tâm hồn được thanh thoát để chỉ còn đương sự và Thiên Chúa (Os 2,16). Môi trường thanh vắng thật là lý tưởng. Nhưng cần hơn phải có tâm hồn an tĩn, nhờ đó, con người rút sâu vào thâm cung cõi lòng, để tìm gặp Chúa, ngõ hầu sức bật càng mạnh hơn, bung xa hơn và vươn cao hơn.
An tĩnh nội tâm, đòi bản thân cách ly thụ tạo, nhiều khi phải cách ly ngay cả những kỷ niệm thân thương êm đẹp nhất và tưởng chừng như nhỏ nhất không đáng kể. Một luân khúc của cuộc đời diễn ra: Có an tĩnh nội tâm, mới có thể được bình tĩnh, có bình tĩnh, tâm hồn mới có bình an, có bình an mới dám sống trong thanh vắng an tĩnh.
Chúa Giêsu biết rõ giá trị và tầm quan trọng của “an tĩnh”, nên trong đời hoạt động công khai – Tin Mừng ghi lại nhiều lần – Ngài thường tìm vào nơi vắng vẻ cô tịnh. Chúa Giêsu cũng không giấu điều này, một dịp các môn đệ đi giảng dạy về, Ngài nói các Môn Đệ: “Các con nên tìm vào nơi cô tịnh để nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Phải chăng vì trong cô tịnh, tâm hồn an tĩnh, con người dễ thấy mình hơn, ở đó, con người dễ hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa, để nghe tiếng Ngài dễ hơn, dù là có thể nhận ra tiếng Chúa phán dạy trong bất cứ dấu chỉ nào của thời đại. (Và có lẽ trong cô tịnh, tâm hồn an tĩnh, con người khám phá ra dấu chỉ thời đại giữa đời thường).
Cô tịnh để có an tĩnh, đó là bầu khí thuận lợi của một người với người, nhất là của tình yêu thương. Trong an tĩnh, lòng bên lòng mà không bị quậy phá: Đích thực là chốn thâm sâu của tâm hồn (Intinior meo), một chỗ lý tưởng cho tình yêu thương gặp gỡ, và hơn thế nữa, đó là nơi con người gặp Thiên Chúa, như cảm nghiệm của Thánh Bernard De Claivaux tưởng tượng qua câu chuyện giữa Chúa Giêsu và Thánh Nữ Madeleine: “Sao con khóc, con tìm ai? Con đang có trong lòng Đấng mà con đang tìm bên ngoài. Con đã đứng ngoài mộ để khóc. Tâm hồn con lại là mộ của Ta. Ở trong đó, Ta không chết nhưng Ta vẫn sống an vui. Con đã có Ta trong con mà con lại không biết, nên con đã đi tìm Ta bên ngoài. Ai tìm Ta, phải vào trong nội tâm người” (Trích bài giảng số 15 về Lễ Phục Sinh).
Môi trường thanh vắng cô tịch, là phương tiện giúp tâm hồn an tĩnh, nhờ đó con người cảm nhận được Chúa đang hiện diện trong con người, Chúa đang là hồn sống của con người, và Chúa đang làm cho con người bao kỳ công tuyệt diệu trong đời thường của con người.
2. Hiền lành và khiêm nhu
Trong an tĩnh, con người dễ nhận ra mình, vâng, con người sẽ nhận ra Chúa là Đấng Chí Thánh Chí Tôn, còn con người cũng sẽ khám phá ra mình chỉ là phàm nhân tục lụy. Biết được như vậy vẫn chưa đủ, còn phải chấp nhận và sống cái biết đó nữa mới có ích lợi cho con người (Thánh Phanxicô Salesiô).
Làm sao để chấp nhận và sống cái biết đó? Tác giả thư Do Thái chỉ cho con người biết kinh nghiệm của Chúa Giêsu thế này.
“Chúa Giêsu dẫu là con Thiên Chúa. Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân đã tới mức thực toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai từng phục Ngài” (Dt 5,89).
Điểm nổi bật cần lưu ý ở đây là động tác “học” của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về học tập, nên Ngài mới gọi con người dương thế đến học với Ngài, điều con người không biết cần tìm học cho biết.
Điều kiện để việc học có kết quả khả quan là học nơi Chúa Giêsu đức tính hiền lành và khiêm nhu. Con người muốn học, nghĩa là muốn giải thoát mình khỏi điều u mê tăm tối, cần có thái độ hiền lành và khiêm nhu như trẻ em. Đó là phương thế để đón nhận mặc khải của Thiên Chúa (Mt 11,25). Nhận ra được chân lý là chính Chúa (Ga 14,6) và Chân Lý này sẽ giải thoát con người khỏi sai lạc bất hạnh (Ga 8,32).
Cái thùng, đáy càng sâu chứa càng nhiều. Con người hiền lành và khiêm nhu cũng thế. Tuy nhiên, con người cần có lý trí tinh thần nên không phải hoàn toàn thụ nhận cách vô ý thức như cái thùng chứa đồ. Học với Thầy Giêsu, con người không sợ sai lầm, không sợ phải tiếp thu dư thừa, nên càng hiền lành khiêm nhu bao nhiêu, càng tiếp thu được phong phú bấy nhiêu.
Tầm nhìn của môn sinh có nhiều khiếm khuyết và thiển cận, nên cũng có lúc không thể hiểu ra ý muốn của Lời Thầy Giêsu dạy. Đức Maria luôn thưa tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời của Mẹ là chuỗi tiếng xin vâng, đâu phải Mẹ thấu hiểu tất cả, nhưng vì Mẹ hiền lành, khiêm nhu và phó thác cho Chúa. Con người theo gương đó, vẫn một lòng hiền lành, khiêm nhu và phó thác cho Chúa, rồi cũng sẽ cảm nghiệm được lời Thầy Giêsu dạy.
Và, học bằng phương thế hiền lành và khiêm nhu, đó là tinh thần của một Anawin (Người nghèo của Thiên Chúa). Chúa sẽ ban phúc lành cho con người và con người trở nên hạnh phúc cho nhau.
3. Sở kỷ dục, tất thi ư nhân
Điều mình muốn, cũng làm cho kẻ khác (x. Lc 6,31). Trong thanh vắng an tĩnh, người môn sinh của Thầy Giêsu đang hiền lành và khiêm nhu thụ giáo. Con người thụ giáo với Thầy Giêsu điều gì ?
Điều con người đang thụ giáo cùng Thầy Giêsu, mượn lời Thánh Gioan để nói: “Chúa Giêsu là Đấng đã ban cho con người bản thân Ngài; phần ta, ta cũng làm như thế cho anh chị em mình” (1 Ga 3,15). Như vậy, tính quảng đại, vị tha, sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác mà Thầy Giêsu đã thực hiện, chính là điều con người đã thụ giáo. Và tính quảng đại, vị tha hy sinh cho kẻ khác, đó là thứ tình yêu thương cao qúy nhất (x. Ga 15,13).
Con người nhận “bản thân” của Thầy Giêsu, đó là nhận chính tình yêu thuơng của Ngài dành cho con người. Mà “yêu” và “được yêu” lại là nhu cầu khẩn thiết của con người, là bản tính của con người. Bởi đó, con người cũng muốn chia sẻ bản thân mình cho người khác, là chia sẻ chính tình yêu thương mình đã nhận được nơi Thầy Giêsu. Con người nào làm như thế, đó mới thực sự là môn sinh của Thầy Giêsu. Vì đó là niên hiệu để người đời nhận ra ai là môn sinh. (x. Ga 13,35)
Chúa Giêsu đã không diễn tả tình yêu thương chỉ bằng lời nói trên đầu môi chót lưỡi, nhưng Ngài đã dùng chính sinh mạng của Ngài để minh chứng. Đó không chỉ là lý do siêu nhiên mà còn là lý do thiên nhiên, vì Chúa Giêsu là một con người rất là người. Quy luật tâm lý con người cho thấy trong tình yêu thương, xảy ra ba tín hiệu làm thành ba chặng đường nhưng liên kết lại thành một.
- Yêu thương thì muốn hướng về nhau ? (Vì cần hiện diện bên nhau).
- Hiến tặng cho nhau kỷ vật (Tùy theo mức độ tình yêu thương để tặng cho nhau từ món quà đơn sơ đến qúy báu).
- Để được kết hiệp với nhau làm một. Thông chia hạnh phúc cho nhau.
Chính vì quy luật này, tâm tình yêu thương được biểu lộ ra bằng hành động. Nên điều mình muốn mình cũng làm cho người khác với nhiều hình thức đầy sáng tạo, hết lòng yêu chiều nhau mà vẫn tôn trọng cá tính của nhau, vì:
Đâu có ai tẻ nhạt ở trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
Mỗi số phận rất riêng, dù rất nhỏ
Chắc hành tinh nào đã sánh nổi đâu
(E.Eptusenco)
Nhờ đó, bản sắc riêng vẫn đuợc phát triển và tinh thần phục vụ vẫn luôn đề cao, để tình yêu thương luôn luôn triển nở, vì “Mức độ yêu thương là thương yêu không mức độ” (Thánh Benard De Claivaux)
Các thi sĩ thường có kiểu nói: “Đời người không có tình yêu thương, như bầu trời không có ánh nắng, như mùa xuân không có tiếng chim ca, như mặt hồ thiếu làn sóng gợn, như cảnh vật không màu xanh lá, như lá vườn thiếu làn gió nhẹ…”. Vâng, tình yêu thương rất cần cho con người, nên con người có yêu thương mới làm cho nhau hạnh phúc, mới tôn trọng nhau và vui tươi sống bên nhau.
Và như thế, con người phải dành cho Chúa Giêsu một chỗ đứng trân trọng nhất trong đời người : Chúa Giêsu phải là hồn sống của mình, đời người phải quy về đó, dừng lại ở đó, và từ đó vươn ra./.
|
|