PDA

View Full Version : Ý nghĩa và nguồn gốc Ngày Tết Cổ Truyền Việt Nam



cafeda2009
11-02-2010, 08:26 AM
Ý nghĩa và nguồn gốc Ngày Tết Cổ Truyền Việt Nam




T4, 10/02/2010 - 20:41


http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/y_nghia_tet_1.jpg



1. Nguồn gốc Tết Nguyên Đán

Tết còn gọi là Tết cổ truyền của dân tộc luôn mang ý nghĩ rất sâu sắc. nhưng có bao giờ bạn tự hỏi: nguồn gốc của Tết Nguyên Đán là như thế nào chưa?

Theo lịch sử Trung Quốc, Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ.
Đời Tam Vương:

- Nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, tức tháng Dần.

- Nhà Thương thích màu trắng nên chọn tháng Sửu, tức tháng Chạp, làm tháng đầu năm.

- Nhà Chu ưa màu đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng một làm tháng Tết.

Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ tạo thiên lập địa như sau:

- giờ Tý thì có trời,

- giờ Sửu thì có đất,

- giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.

Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần.

Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thuỷ Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười.

Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng.

Từ đó về sau, trải qua bao thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc. Ông cho rằng:

- ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà,

- ngày thứ hai có thêm Chó,

- ngày thứ ba có thêm Lợn,

- ngày thứ tư sinh Dê,

- ngày thứ năm sinh Trâu,

- ngày thứ sáu sinh Ngựa,

- ngày thứ bảy sinh loài Người

- và ngày thứ tám mới sinh ra Ngũ Cốc.

Vì thế ngày Tết thường được kể từ ngày mùng một cho đến ngày mùng bảy tháng giêng (8 ngày).

Ngày nay, Việt Nam quy định viên chức và công nhân lao động được nghỉ Tết vào ngày 29 hoặc ngày
30 trước Tết và từ mùng một đến mùng ba (tổng cộng 4 ngày)

Nguyên nghĩa cũa Tết là “Tiết”. Văn hoá Việt - thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước - do nhu cầu canh
tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau và ứng với mỗi tiết
này có một thời khắc “giao thời”, trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh
tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết là Tết Nguyên Đán.

Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, Tết Nguyên Đán trước hết là Tết của gia đình. Chiều 30 Tết, nhà
nhà làm lễ “rước” gia tiên và gia thần, thể hiện tình cảm uống nước nhớ nguồn.

Trong ba ngày Tết diễn ra ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại một nhà:

- Thứ nhất là cuộc gặp gỡ của các gia thần: Tiên sư hay Nghệ sư - vị tổ đầu tiên dạy nghề gia đình mình
đang làm. Thổ công - thần giữ đất nơi mình ở và Táo Quân - thần coi việc nấu ăn của mọi người trong
nhà.

- Thứ hai là cuộc gặp gỡ tổ tiên, ông bà,… những người đã khuất. Nhân dân quan niệm hương hồn
người đã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết.

- Thứ ba là cuộc gặp gỡ của những người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất,
mỗi năm Tết đền, dù đang ở đâu làm gì… hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về đoàn tụ với
gia đình.

2. Ý nghĩa của Ngày Tết

Người Việt ăn mừng Tết với niềm tin thiêng liêng Tết là ngày đoàn tụ, là ngày làm mới, ngày tạ ơn và là
ngày hi vọng.

Ngày Đoàn Tụ:

Tết luôn luôn là ngày đoàn tụ của mọi gia đình. Dù ai buôn bán, làm việc hay đi học ở xa, họ thường cố
gắng để dành tiền và thời gian để về ăn Tết với gia đình. Đó là nỗi mong mỏi của tất cả mọi người, người đi xa cũng như người ở nhà đều mong dịp Tết để gặp mặt và quây quần cùng gia đình.
Tết cũng là ngày đoàn tụ với người đã khuất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình theo Phật pháp đã thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên đã qua đời về ăn cơm Tết với các con các cháu.

Ngày Tết người ta cũng thường hay thực hiện các nghi lễ, để dâng hương lên các vị thần theo huyền
thoại là người ban phước cho gia đình chúng ta được nhiều sức khoẻ, nhiều tiền tài, nhiều may mắn và
an lành hạnh phúc trong năm vừa qua.

Ngày Làm Mới:

Tết là ngày đầu tiên của năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Việc làm mới có thể về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa nhà cửa. Hoặc làm mới về mặt tình cảm và tinh
thần của con người, để mối liên hệ giữa người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần được thoải
mái, tươi mát hơn. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. Bàn ghế giường tủ

được lau chùi, phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới
bảnh bao. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo
một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối
thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hoà với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối
liên hệ được tốt đẹp.

Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là
chúc nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ con và các cụ già để chúc các cháu hay ăn
chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được nhờ phúc.

Ngày Của Lạc Quan Và Hi Vọng:

Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm mới sắp đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm
cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.

Ngày Tết người ta đốt pháo nhiều để xua đuổi ma xui xẻo đi và đồng thời người ta múa rồng, múa lân
sư tử khắp mọi nơi, nhất là những cửa hàng buôn bán để rước may mắn, thịnh vượng.

Mùa Tết cũng là mùa cưới hỏi: các cặp trai gái thích làm đám cưới vào dịp đầu năm, mùa xuân đất trời
đang đẹp và đang mùa hi vọng. Họ hi vọng cho một cuộc đời mới, vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau
và sẽ có đàn con ngoan.

Ngày Tạ Ơn:

Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn ân nghĩa mình đã được hưởng năm vừa qua. Con cái tạ ơn
cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, cấp chủ nhân cũng cám
ơn nhân viên qua những buổi tiệc đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết.

Nguồn:
Sưu tầm và tổng hợp

cafeda2009
13-02-2010, 08:33 AM
Ý nghĩa ngày Tết Nguyên Đán




T6, 12/02/2010 - 08:38


http://tgpsaigon.net/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/dao_2.jpg



Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất và là ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc. Từ những thế kỷ trước, từ đời Lý - Trần - Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ.

Chữ “Nguyên” có nghĩa là bắt đầu, chữ “Đán” có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ, tri ân ông bà tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, Tết là do xuất xứ từ “tiết” (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, điều đó có ý nghĩa rất đặc biệt đối với một nước thuần nông như Việt Nam.

Theo tín ngưỡng dân gian, bắt đầu từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì” người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan đến nông nghiệp như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước… Người nông dân cũng không quên ơn các loài vật đã cùng họ sớm hôm vất vả như trâu, bò, gia súc, gia cầm và các loại cây lương thực, thực phẩm đã nuôi sống họ.

Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có phong tục hằng năm, mỗi khi năm hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả người xa xứ cách hàng ngàn cây số vẫn mong được về sum họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được khấn vái dưới bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà, ngôi mộ, nhìn lại nơi mà một thời bàn chân bé dại đã tung tăng và mong được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Mấy tiếng “Về quê ăn Tết” không chỉ là khái niệm đi về, mà đằng sau nó là cả một quá trình hành hương về với cội nguồn, về nơi chôn nhau cắt rốn.


***

Hiện nay, theo luật thì người Việt chỉ được nghỉ ăn Tết trong 4 ngày, từ 30 tháng Chạp tới mùng 3 tháng Giêng (âm lịch). Trên thực tế, không khí Tết sẽ dùng dằng ở lại cho đến hết tháng Giêng, thậm chí lâu hơn theo tinh thần câu ca dao mà người Việt ai cũng thuộc lòng:

“Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”

Trước và sau Tết Nguyên Đán, người Việt có nhiều phong tục khác nhau, tùy theo từng địa phương. Dưới đây chúng ta sẽ cùng điểm qua một số phong tục chính:

Lễ ông Công ông Táo

Ông Công ở đây là Thổ Công, là vị thần cai quản đất đai, giới tính được xác định là nam. Ông Táo là thần bếp, hay Táo Quân, thực chất lại không phải một vị mà là hai ông và một bà. Lễ ông Công ông Táo được thực hiện vào ngày 23 tháng Chạp.

Trong ngày này, ông Công được cúng ở bàn thờ chính trên nhà, còn ông Táo được cúng dưới bếp. Đồ cúng thường đi kèm với mấy con cá chép, vì người ta cho rằng vào dịp cuối năm, ông Công ông Táo cưỡi cá chép bay về Thiên đình, trình bẩm những việc xảy ra trong dân gian trong năm vừa qua.

Lễ Tất niên

Tất niên có nghĩa là hoàn tất công việc một năm cũ. Vào chiều 30, nhà người Việt nào cũng chuẩn bị một mâm cơm cúng ông bà tổ tiên để tiễn biệt năm cũ. Sau đó, cả nhà quây quần bên mâm cơm.

Theo phong tục, trong thời điểm tất niên, mỗi người phải thu xếp thanh toán hết nợ nần, xóa bỏ những xích mích trong năm cũ để hướng tới một năm mới thuận hòa hơn.

Lễ Giao thừa

Giao thừa là thời khắc thiêng liêng của năm, khi mà năm cũ ủ rũ ra đi và năm mới rộn ràng bước tới. Vào thời điểm giao thừa, các gia đình làm lễ Trừ Tịch. Lễ Trừ Tịch được hiểu là lễ đem vứt những điều không may mắn của năm cũ đi, và đón lấy những điều tốt đẹp của năm mới đến.

Một điều không thể thiếu trong lễ Giao thừa trước đây, mà nay đã bị cấm, đó là đốt pháo đón giao thừa. Theo dân gian truyền lại, tiếng pháo là để xua đuổi ma quỷ của năm cũ. Cảm xúc đốt một bánh pháo dài, khói thuốc pháo thơm nồng tràn đầy trong phổ và con mèo chạy tọt vào gầm giường vì sợ là những ký ức không bao giờ phai của người Việt Nam về cái Tết của một thời xa xưa...


***

Đón xuân, đón năm mới (hay Tân niên)

Sau giao thừa đến Tân Niên - đón một năm mới. Có rất nhiều phong tục cần tuân thủ vào thời điểm này. Thứ nhất là phong tục xông đất (hay "đạp đất" của người miền Trung). Người Việt quan niệm rằng ngày đầu tiên của năm sẽ quyết định "vận mạng" của cả năm: Do đó, người xông đất là người khách thứ nhất trong năm. Phải có người xông đất rồi, thì trong nhà mới mở cổng ngõ để đón tiếp mọi người và để cho người trong nhà ra đường. Người ta tin rằng, đức hạnh của người xông đất sẽ xua đuổi những cái xấu cũ ra khỏi nhà và đồng thời mang sự may mắn, hạnh phúc và thịnh vượng mới cho gia chủ.

Thứ hai, phải kể đến việc xuất hành du xuân. Cùng với các bà mẹ, nam thanh nữ tú thường thích đi ra đường đón xuân. Đích đến thường là các đình, chùa, miếu, điện... để cầu may và xin lộc. Người ta tin rằng việc cầu phúc cầu may đầu năm tại chùa chiền miếu mạo sẽ linh thiêng hơn, và nhiều người xin quẻ ở đây để đoán việc sẽ xảy ra trong năm. Đa số không quên bẻ lấy một cành cây trước cửa đình - cửa đền, để về nhà cắm trên bàn thờ cho đến hết Tết. Phong tục này gọi là hái lộc, tượng trưng cho việc đem lộc trời đất về nhà, khiến cho cây cối trước chùa thường tơi tả sau Tết.

Thứ ba là phong tục thăm hỏi, chúc tết và lì xì. Bố mẹ chúc con cái học giỏi và thành đạt, con cái chúc bố mẹ mạnh khỏe sống lâu. Họ hàng chúc nhau an khang, bạn bè chúc nhau thịnh vượng. Tới mỗi nhà, người lớn thường cho tiền trẻ con trong những bao màu đỏ, gọi là mừng tuổi (hay lì xì ở trong Nam). Tiền phong bao thường là tiền lẻ, với ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm.

Mồng một chúc Tết mẹ cha
Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy.

Kiêng kỵ trong ngày Tết

Trong mấy ngày Tết, người Việt kiêng không cãi nhau, bởi họ tin rằng cãi nhau, bực tức trong ngày Tết sẽ khiến cả năm xúi quẩy - mất thuận hòa. Ông bà cha mẹ nhắc con cháu trong nhà từ phút giao thừa trở đi không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau. Người lớn cũng tránh quở mắng trách phạt trẻ em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.


***

Hoa Tết

Hoa không thể thiếu trong ngày Tết của người miền Bắc là hoa Đào. Theo truyền thuyết, có cành Đào trong nhà vào dịp Tết sẽ giúp trừ tà ma. Hoa Đào có nhiều loại: bạch đào, bích đào, hồng đào... và nơi trồng đào nổi tiếng nhất miền Bắc là Nhật Tân, Nghi Tàm (Hà Nội). Nghệ nhân ở đây nổi tiếng với khả năng ghép đào, hãm đào, uốn sửa hình để cho những cây đào dáng đẹp nhiều hoa nở vào đúng tết. Nay làng đào Nhật Tân đã bị xóa sổ để nhường chỗ cho khu đô thị mới Nam Thăng Long.

Còn ở miền Nam, hoa Mai được dùng để đón Tết. Hoa mai cũng có rất nhiều loại: mai tứ quý màu đỏ, hồng mai, chi mai, bạch mai màu trắng pha hồng, hoàng mai màu vàng... nhưng phổ biến hơn cả là hoa mai vàng. Hoa mai cũng năm cánh nhưng không nhiều lớp như hoa đào. Cánh Hoa mịn màng như lụa. Cành mai nâu sẫm, ngắn, rất gân guốc nhưng cũng rất mềm mại. Chính vẻ đài các này mà nhiều người cho rằng từ xa ngắm cành mai như đàn bướm vàng đậu hờ trên các nhánh cây trông rất thanh nhã, khiêm nhường. Hoa mai tượng trưng cho phẩm tiết cao quý, khí phách của người quân tử, là niềm cảm hứng rất kinh điển trong thi ca. Đã hơn một nghìn năm trôi qua nhưng những câu kết trong bài thơ chữ Hán của Mãn Giác Thiền Sư vẫn còn vang mãi.

Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

nghĩa là:
Đừng tưởng (Chớ Bảo) xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

Dù sống xa quê nhà, hay dù sống ở bất cứ nơi đâu, chúng ta bằng mọi cách bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc Lạc Việt.

Nguồn:
http://www.vbcradio.net/spip.php?article2876