|
GHI CHÚ:
(1) Nơi đây, cần phải chú ý tới sự khác biệt về suy tư và ngôn ngữ giữa đông và tây. Nếu thờ lạy theo Thần học Tây phương là một thái độ, hành vi, tâm tình chỉ dành cho Thượng Đế hay vị thần tối cao, trong khi tôn kính dành cho thánh nhân, anh hùng, liệt sĩ, vĩ nhân, thì trong tư tưởng người Việt và Trung Hoa (và cả Nhật và Đại Hàn), lạy (chữ nôm) bái, tôn, kính (chữ Hán Việt), vân vân, chỉ là những cử chỉ, hành vi, thái độ khác biệt, áp dụng vào một số dịp, hay lễ lạy. Lạy cha, mẹ, thầy giáo và cả vợ, chồng vào dịp nhậntừ biệt (tang lễ, hay bỏ đi xa như vợ về nhà chồng, đi xa lập nghiệp, du học, vân vân, hay van xin một chuyện (hay điều gì) rất hệ trọng liên quan tới sinh mệnh (lạy quan khi được tha, lạy vua khi được bổ nhiệm, lạy cha mẹ, anh em, hay cả bà con khi được tha thứ, vân vân). Bái chỉ hành động biểu tả cảm ơn, khâm phục, chấp nhận, hay xin ân huệ (bái sư phụ, bái bạn, bái phục, bái anh hùng, liệt sĩ, vân vân). Kính chỉ tâm tình tôn trọng, khâm phục (khả kính), hay chỉ địa vị cao hơn (bậc đáng kính). Tôn nói lên lối xưng hô trọng vọng, qúy trọng (như tôn phu nhân, tôn ông, tôn bà, tôn huynh, vân vân). Thờnói lên phương cách, nghi lễ, hay trong một buổi sinh hoạt chung. Chữ thờ (nôm) cũng có nghĩa lễ, tế (hán), thế nên chỉ trong nghi lễ ta mới nói thờ lạy, thờ bái (hay bái thờ), thờ kính, tôn thờ, vân vân. Vì thế, ý nghĩa của đạo tôn kính, hay thờ kính, hay thờ lạy ông bà khác hẳn với lối suy tư Tây phương. Các nhà truyền giáo vì không thấu hiểu ngôn ngữ Trung Hoa và Việt, hay vì không tìm ra ngôn ngữ tương xứng nên đã dịch thờ lạy theo nghĩa La tinh adorare (và Hy lạp ) trong khi tôn kính theo nghĩa venerare Sự hiểu nhầm ngôn ngữ đã từng là một trong những yếu tố quan trọng trong tranh chấp nghi lễ và làm sai lệch tinh thần của việc rao tuyên xưng và rao truyền Tin Mừng. Xin tkh. các luận văn của Nguyễn Thái Hợp, Trần Văn Đoàn trong Triết Đạo, số 1 (03. 2001), và của Phan Đình Cho, Võ Tá Đề trong số Triết Đạo này, số 2 (10. 2001). cha, mẹ, thầy, chồng, vợ (như dịp hôn nhân, nhận cha mẹ (vợ, chồng), nhận thầy (nhập môn), hai vợ chồng trong lễ hôn nhân), hay vào dịp
(2) Thí dụ bộ sách rất đồ sộ và công phu của linh mục Léopold Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens (Paris: S.E.I., 1958). Các bộ sách của Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam (Sài Gòn: Khai Trí, 1969) và Tín Ngưỡng Việt Nam (Sài Gòn: Khai Trí, 1970), tái bản 1996.
(3) Đối với Khổng Tử, người man dã là người thiếu đạo đức, nhất là hiếu đạo. Ngài nói: "Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính, hà dĩ biệt hồ." Luận Ngữ, 2:7. (Ngày nay ngừơi ta thường cho rẳng nuôi nấng cha mẹ đã là hiếu rồi. (Song thử hỏi) ngay cả khi ta nuôi ngựa, chó (cũng là hiếu sao?). (Thực ra nuôi mà) không kính thì có khác chi nuôi gia súc).
(4) Nơi đây chúng tôi phân biệt giữa hiếu đạo và cái đạo hiếu. Hiếu đạo nói lên cái nguyên lý, nguyên do tạo thành hiếu, trong khi cái đạo hiếu chỉ nói lên theo cách thế nào, dùng hành vi nào, nói ngôn ngữ chi, vân vân, để tỏ bày, tỏ lòng, biểu ta.hiếu. Các câu truyện trong Nhị Thập Tứ Hiếu thuộc loại sau tức cái đạo hiếu. Như vậy, chữ đạo ở đây đã mang hai nghĩa: đạo là nguyên lý, và đạo là phương cách (thế). Xin xem các chú thích 4, 5 và 6. Trong tiếng Việt thường dụng, hiếu đạo cũng đồng nghĩa với đạo hiếu, thế nên khi nói về hành vi hiếu chúng tôi nhấn mạnh đến chữ cái đạo hiếu.
(5) Toan Ánh, một học giả thế giá về dân tộc học, đã hiểu đạo theo một nghĩa rất hạn hẹp của một giáo phái, có tổ chức, quy chế. Oâng viết: "Thực ra thờ phụng tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là Đạo Oâng Bà được. Là một đạo phải có giáo chủ và giáo điều và việc hành đạo phải qua trung gian tu sĩ." Tín Ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng, tr. 23. Không cần phải nói, Toan Ánh không chỉ hiểu chữ đạo qúa hạn hẹp, mà ngay cả về quan niệm tôn giáo, ông cũng không thông. Oâng chưa phân biệt được tổ chức (tôn giáo) và thái độ, tâm tình (tôn giáo), tôn giáo (tây phương) và tông giáo (đông phương). Xin tham khảo tập luận văn của chúng tôi: Trần Văn Đoàn, Những Suy Tư về Thần Học Việt Nam (Washington, D.C.: Vietnam University Press, 2001).
(6) Cụ Phan Bội Châu định nghĩa đạo như sau: "Đạo chẳng có chi lạ đâu, chỉ y theo tính mình mà không trái với lý tự nhiên; đã phù hợp với mệnh trời mà lại hoàn thiện được tính người thời gọi là đạo." Xin tkh. Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng (1929; Tái bản: Hà Nội: Nxb Văn Hóa Thông Tin, 1998), tr. 393. Một định nghĩa như vậy mà cụ Sào Nam cho là "chẳng có chi lạ." "Lạ" ở chỗ là sau khi đọc xong chẳng ai hiểu đạo là gì! Bởi lẽ, để hiểu đạo, ta phải biết "tính mình," tính người, "lý tự nhiên," "mệnh trời," "hoàn thiện," rồi tính có hợp hay trái với mệnh, với trời, với vạn vật hay không, vân vân. Tính, lý, mệnh, thiện, hợp. là những quan niệm "hóc búa" mà cả bao ngàn năm cũng chưa có những lý giải thỏa đáng, thế mà cụ Phan cho là "chẳng có chi lạ đâu."
(7) Độc giả muốn tìm hiểu thêm về lịch sử, ý nghĩa của đạo, xin tham khảo tác phẩm của một số học gỉa Trung Hoa và Nhật: Quách Mạt Chược, Tiên Tần Thiên Đạo Quan chi Phát Triển (Thượng Hải: Thương Vụ, 1936); U Côn Như, Trang Tử dữ Cổ Đại Hy La Triết trung đích Đạo (Đài Bắc: Trung Hoa thư cục, 1972); Sâm Tam Thụ Tam Lương, Tự Thượng Cổ đáo Hàn Đại Tính Mệnh Quan chi Phát Triển (Đông Kinh, 1971) (Nhật ngữ), Phó Bội Vinh, Nho Đạo Thiên Luận Phát Uy (Đài Bắc: Lí Minh, 1985).
(8) Trong các tác phẩm do học gỉa Việt viết, quan niệm đạo thường được bàn đến rất nhiều, song thường theo kiểu liệt kê hơn là phân tích, thế nên khiến độc giả không dễ phân biệt thuộc loại đạo nào. Tiến bộ hơn, trong tác phẩm Đại Cương Triết Học Trung Quốc (Sài Gòn, 1963), hai ông Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê đã phân tích đạo theo hai phương diện: hình nhi hạ và hình nhi thượng. Hình nhi hạ, đạo có nghĩa là "đường đi." Theo hai ông, Khổng Tữ hiễu đạo theo khía cạnh hình nhi hạ. Thí dụ như câu "Xuất tính chi vị đạo" (Trung Dung), hay nhân đạo (Mạnh Tử). Chỉ tới thời Lão Tử mới hiểu đạo từ khía cạnh hình nhi thượng. Đạo nơi đây mang nghĩa: "tổng nguyên," "lý," "tổng quy luật," "đường lối noi theo." Quyển Thượng, ctr. 147-48. Hay theo danh từ của Lãõo Trang, đạo biễu hiện qua đức (Đạo Đức Kinh, hạ thiên: "Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi." Trang Tử viết trong Nam Hoa Kinh, chương Thiên địa: "Vật đắc dĩ sinh vị chi đức" ). Đạo cũng được hiểu như phác (Đạo Đức Kinh, Thượng thiên: "Phác tán tắc chi khí" và "Phác tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần." mà Phùng Hữu Lan lý giải là đạo (Tân Lý Học, tr. 71). Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê, ctr. 161-162. Không cần phải nói, lối phân biệt đạo theo hình nhi thượng, hình nhi hạ, Nho giáo, Đạo giáo quả rất miễn cưỡng và có phần bóp méo lịch sử. Lý do, quan niệm đạo đã có từ thời Nghiêu Thuấn (xtkh. Phó Bội Vinh, Nho Đạo Thiên Luận Phát Uy , sđd., chương 1). Ngoài ra, cho quan niệm đạo mãi tới Lão Tử mới có nghĩa hình nhi thượng, qủa thực qúa võ đoán. Bởi lẽ Lão Tử có thể sinh ra trước Khổng Tử (xtkh. Hồø Thích, Trung Quốc Cổ Đại Triết Học Sử (Thượng Hải: Thương Vụ, 1919), hay ít nhất đồng thời với Khổng như đại đa số các sử gia, bao gồm Tư Mã Thiên (145-85 tr. TN) (Sử Ký) và nhiều triết gia như Phùng Hữu Lan (Trung Quốc Triết Học Sử (Thượng Hải: Thương Vụ, 1946) hay Hầu Ngoại Lư (Trung Quốc Tư Tưởng Thông Sử (Bắc Kinh: Nhân Dân, 1957), vân vân, công nhận. Thứ tới, trong các đoạn mà hai ông Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê trích, không nhất thiết hoàn toàn hình nhi thượng hay hình nhi hạ. Thí dụ nhân đạo mà hai ông cho là hình nhi hạ, thực ra là một nguyên lý siêu hình, nền tảng của Nho học và Mạnh Tử. Về phía công giáo, tác giả Đường Thi (Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo (California (?), 2000) có lẽ dựa theo Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê trong cách trình bày đạoĐạo (viết hoa, nguyên lý hình nhi thượng) khỏi đạo (viết thường, đường đi, bổn phận, nghĩa vụ. tức hình nhi hạ), ctr. 285-86. Tiếc thay, lối hiểu "nhị nguyên" phân biệt đạo thành hình nhi thượng, hình nhi hạ của ông có lẽ không phù hợp với lối nhìn của Nho và Đạo gia cách riêng, và của Đông phương cách chung. (tuy nhiên không thấy tác giả nhắc đến hai ông Lê và Chi). Cái mới của Đường Thi, đó là ông phân biệt
(9) Đạo Chích, nguyên tên một kẻ trộm thời Xuân Thu (722-481 trước Kỷ nguyên). Tiếng đạo nơi đây có nghĩa ăn cắp hay trộm, thí dụ như đạo văn, đạo tặc, đạo thi. Chữ đạo này (chữ viết, và ý nghĩa) khác với đạo mà chúng tôi muốn nói. Tuy nhiên, tại Việt Nam và tại Trung Hoa, những người ăn trộm thờ thần đạo chích, theo cái đạo (quy luật) của giới ăn trộm, thí dụ chỉ trộm chứ không "cắp" (cướp) hay giết người; thấy chủ nhà thì phải trốn, không trộm người nghèo, vân vân. Nói tóm lại, họ cũng theo một cái đạo, hay "đạo đạo."
(10) Mạnh Tử 4: 11 (Ly Lâu, thượng): "Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn: sự tại dị, nhi cầu chư nan. Nhân nhân thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình." (Đạo ngay tại đây mà lại có người lại kiếm nơi xa; sự việc vốn dễ mà người ta cứ làm khó ra. (Nếu) ai cũng yêu cha mẹ, kính bậc trưởng thượng thì thiên hạ đã thái bình).
(11) Luận Ngữ, 12:11 (Nhan Uyên): "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử." (Vua sống ra vua, dân sống ra dân, cha phải như cha, con phải ra con."
(12) Luận Ngữ, 4 "Triều văn đạo tịch tử khà ai!" (Nghe đạo vào buổi sáng, thì buổi tối chết cũng cam tâm), hay Trung Dung: "Xuất tính chi vị đạo" (đạo phát xuất tự tính con người).
(13) Trong triết học Tây phương, Aristotle có thể được coi như một trong những người đầu tiên phân biệt mục đích thường, và mục đích tối hậu. Xin tkh. Aristotle, Ethica Nicomachea, 1094a.
(14) Lời dậy của Đức Phật. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri áp dụng câu nói bất hủ của Đức Phật để nhận định một số số người thường hay lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện. Xin tkh. Đỗ Mạnh Tri, Ngón Tay và Mặt Trăng (Paris: Tin 1996).
(15) Bái Phật Di Lặc, hay các loại Phật như Quan Aâm. không hẳn theo nguyên lý của Phật giáo nguyên thủy. Đây là một sự kết hợp giữa đạo dân gian (nhắm mụïc đích gần, hay mục tiêu) và đạo thuần túy (nhắm mục đích xa, hay cùng đích).
(16) Chính theo nghĩa này, mà chúng ta hiểu tôn giáo. Alfred North Whitehead (1861-1947), một triết gia và toán học gia hiểu tôn giáo theo những khía cạnh trên. Oâng nhận định, bất cứ một tôn giáo nào theo đúng nghĩa cũng phải có 4 điều kiện : (1) phải có một hệ thống giáo lý (giáo điều), (2) phải có nghi lễ, (3) phải có tổ chức, và (4) phải có tính chất siêu thế. Xin tham khảo A. N. Whitehead, Religion in Making (New York: McMillan, 1926), ctr. 32.
(17) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, chương 2: "vạn vật tác yên." Trong triết học Trung Hoa, đạo mang nhiều nghĩa. Theo Phùng Hữu Lan, cố giáo sư Đại Học Bắc Kinh, đạo mang nghĩa (1) đường đi, (2) đạo đức, (3) nguyên nhân, (4) cái lý, (5) nguyên lý và (6) vô. Xin tkh. Fung Yu-lan, A History of Chinese Philosophy (New Jersey: Princeton University Press, 1973), lần in thứ ba,, tập 1, tr. 117. Trần Vinh Kết, guyên giáo sư Đại Học Columbia, cũng hiểu đạo tương tự như họ Phùng. Xin tkh. Chan Wing-tsit, A Source Book in Chinese Philosophy (New Jersey: Princeton University Press, 1974) lần in thứ tư, tr. 139. Phương Đông Mỹ (1899-1977), chính giáo Đại Học Quốc Gia Đài Loan, hiểu đạo như: (1) phạm trù tối cao, (2) vũ trụ và (3) các hiện tượng. Xin tkh. Thome Fang, Chinese Philosophy: Its Spirit and Its Development (Taipei: Linking, 1981), ctr. 123-25. Theo Trương Trung Nguyên, giáo sư Đại Học Nữu Ước, thì đạo có nghĩa (1) con đường, (2) lãnh đạo, (3) lý tưởng, (4) đạo niết bàn và (5) tác sinh. Xin tkh. Chang Chung-yuan, Creativity and TaoismTrung Tây Hình Thượng Học Tỉ Giảo (Đài Bắc, 1982), tập 1, ctr. 2-4. (New York, 1963), ctr. 20-21. Theo Lý Chấn, chính giáo Đại Học Phụ Nhân, đạo bao gồm (1) đạo lộ, (2) nguyên lý, (3) cội nguồn, (4) nguyên tắc, (5) động lực tương thông, và (6) nguyên lý tối hậu. Xin tkh. Lý Chấn,
(18) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, chương 1: "Hữu, danh vạn vật chi mẫu;" và chương 5: "Đạo sinh chi, đức súc chi" (Đạo sinh vạn vật, trong khi đức hằng nuôi chứa). Xtk. Nghiêm Toản, dịch và chú thích, Lão Tử Đạo Đức Kinh (Sài Gòn, 198), tr. 128.
(19) Đạo Đức Kinh, chương 1, thượng thiên: " Vô, danh thiên địa chi thủy."
(20) Đạo Đức Kinh, chương 1.
(21) Martin Heidegger, Was is die Metaphysik? (Frankfurt, 1949).
(22) St. Augustin, Confessiones, 1,1.
(23) Luận Ngữ 1 Hữu tử viết: "Kỳ vi nhân dã hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ; bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn giả, vị chi hữu giã. Quân tử vụ bẩn, bẩn lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư." (Thầy Hữu Tử nói: "Bất cứ ai có hiếu đễ, đều không phạm thượng. Mà không phạm thượng lại đi làm loạn thì tôi chưa hề thấy ai. Người quân tử phải lo căn bản. Có căn bản mới có đạo. Người hiếu đễ là người nắm được căn bản của đạo làm người (nhân).
(23) Luận Ngữ, 1 "Tử viết: "Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhị tín, phiếm ái chúng nhi thân dân. Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn." (Người học trò vào thì hiếu cha mẹ, ra thì kính bậc huynh trưởng; hành vi cẩn trọng, ngôn ngữ đáng tin, lại quan tâm tha nhân và thân cận với những người ngay thẳng. Thành tâm làm những việc trên, rồi mới nỗ lực học tập kiến thức).
(25) Luận Ngữ, 1: 1: "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?" (Làm sao màkhông vui được khi có bạn từ xa tới thăm).
(26) Mạnh Tử 1 "Vị hữu nhân nhi di kỳ thân giả dã." (làm sao mà có nhân nếu trước hết không có thân, tức hiếu cha mẹ).
(27) Di-Thư, 11. Giáo sư Trần Vinh Kết bình luận về quan niệm nhân của Trình Di như sau: "Như đã thấy quan niệm nhân như là một quan niệm quan trọng căn bản là một biến đổi cực đoan của thuyết Tân nho, đặc biệt trong thuyết của Trương Tái và anh em họ Trình. Trong sách Di Thư của họ, nhân được họ nói đến nhiều hơn cả. Trong đoạn 1, họ giải thích nghĩa, lễ, trí, tín như là những biểu tả của nhân. Đây là một phát triển mới lạ, bởi lẽ theo truyền thống thì tất cả ngũ thường đều được coi đồng hàng, trong khi hai anh em họ Trình lại đi xa hơn coi nhân như là nền móng của tứ đức khác." Chan Wing-tsit, sđd., tr. 530.
(28) "Việt" nơi đây có nghĩa là vươn lên, vươn xa, vươn cao, đi sâu vào. Đặc tính làm con người khác với vạn vật đó chính là tính chất siêu việt. Thành thử, nhân bản, hay bản tính của con người nằm ngay trong chính cái siêu việt tính này. Một số học thuyết duy vật, duy cảm, duy nghiệm, hay duy tính (dục) không thể giải thích được sự khác biệt của con người với vạn vật nếu chỉ dựa vào cảm xúc, cảm quan, kinh nghiệm, hay phản ứng.
(29) "Giao" hay "thông" hay "hợp" nói lên tính chất xã hội hợp quần, tổ chức, tìm hiểu qua ngôn ngữ, nghệ thuật, văn hóa, tổ chức, hôn nhân, vân vân của loài người. Theo Giambattista Vico trong tác phẩm La scienzia nuova (Tân Khoa Học), thì giao hợp (đời sống tính dục qua hôn nhân), tôn (tông) giáo và việt tính (hy vong vĩnh cửu) qua các nghi lể ma chay, tống, táng là những nền tảng quan trọng nh6at1 của mọi nền khoa học, văn minh và văn hóa.
(30) "Tông" theo nghĩa "nguồn, gốc, rễ, hay cốt lõi." Đây là một trong những nguyên lý chính của việc thờ kính ông bà trong xã hội Việt. Cũng xin tham khảo: Trần Văn Đoàn, Những Suy Tư Thần Học Việt Nam, sđd., chương 1.
(31) Về các nguyên lý việt, nguyên lý giao (tương quan), và nguyên lý tông, xin tham khảo các bài viết của chúng tôi: Tran Van Doan, The Idea of a Viet-Philosophy - Vol. 1. The Formation of Vietnamese Confucianism (Washington, D. C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2001), chương 6: "What can be called Tradition?"; Tran Van Doan, The Idea of a Viet-Philosophy , vol. 2 (Washington, D. C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2002), chương về "The Logic of Relation" và Trần Văn Đoàn, Việt Triết Luận Tập, Thượng tập (Washington, D.C.: Vietnam University Press, 2000), chương 3: "Bản Thể và Bản Chất của Việt Triết."
(32) Luận Ngữ, 12:2 (Nhan Uyên): "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (Cái gì mình không muốn thì đừng nên làm cho người khác).
(33) Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam, sđd., quyển thượng, tr. 23.
(34) Có ba loại người bất hiếu, người không có con nối dõi là người tội nặng nhất. Trích từ Hiếu Kinh. Theo Mạnh Tử thì có ba tội bất hiếu, không con nối dõi tội nặng nhất. Mạnh Tử, 4:26 (Ly Lâu, thượng): "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại." Theo Kinh Lễ, có ba tội bất hiếu, đó là (1) làm bậy khiến cha mẹ mang nhục, (2) không chịu làm lụng (làm quan) để nuôi cha mẹ, (3) tuyệt tự, không con nối dõi tông đường.
(35) Mạnh Tử, 4: 27 (Ly Lâu, thượng): "Nhân chi thực sự thân chi giã. Nghĩa chi thực tùng huynh thị giã." (sự chân thật của đạo nhân chính là tình thân (thương cha mẹ). Mà sự chân thật của cái nghĩa là sự biệt theo huynh trưởng).
(36) Quách Mạt Chược, Thanh Đồng Sử Đại (Bắc Kinh, 1946), ctr. 9-12; cũng như Phó Tư Niên, Tính Mệnh Cổ Huấn Biên Chính (1940), 2: 3a.
(37) Luận Ngữ 2:4. (Vi Chính) (Tôi khi mới 15 tuổi thì đã thích học, 30 tuổi tự lập, 40 tuổi rõ ràng (không nghi hoặc về cuộc sống của mình), 50 tuổi biết mệnh trời, 60 tuổi biết lắng nghe trong khi 70 tuổi thì theo đúng lương tâm).
(38) Trung Dung, 19. Bản dịch của Đoàn Trung Còn trong Tứ Thư (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 2000), tái bản. Hoạc Trung Dung, 17 : Tử viết: "Thuấn kỳ đại hiếu giã dư! Đức vi thánh nhơn, tôn vi Thiên tử, phú hữu tứ khải chi nội; tông miếu hưởng chi, tử tôn bảo chi. Cổ đại tức tất đắc kỳ vị, tất đắc kỳ lộc, tất đắc kỳ danh, tất đắc kỳ thọ."
(39) "Không biết cả ba trăm năm sau thiên hạ có còn ai khóc nhớ Tố Như hay không?" trong Thanh Hiền Thi Tập, bài 78: "Độc Tiểu Thanh Ký." Trích từ: Vũ Đình Trác, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du (Graden Grove: Hội Hữu, 1993), tr. 469.
(40) Từ ngữ nguyên, chúng ta thấy chữ hiếu (gồm chữ thủ (đất đai), với người (phết trên chữ thủ) và chữ tử (con) nói lên công năng "hộ" hay giữ gìn, tiếp nối. Chữ thân (gồm chữ kiến (nhìn) và tân (âm, không có nghĩa) nói lên sự tương quan mật thiết như gan dạ (gan đản dạ chiếu), tâm can.
(41) Đại Học, chương 1. "Mục đích của sự học đến nơi đến chốn là để đạt tới cuộc sống viên mãn (minh đức), và để hộ (yêu, giúp) dân."
(42) Trung Dung, 17. (Kinh Thi từng viết rằng) " Vui vẻ thay bậc quân tử trị nước! Người làm cho đức lành của mình sáng tỏ ra. Người cai trị hợp lòng dân chúng, hợp lòng bá quan. Trời cho người có lộc, lại gìn giữ người, phú thác cái mạng cho người; tất cả đều do nơi Trời xếp đặt vậy." Đoàn Trung Còn dịch, sđd., tr. 63.
(43) Nguyễn Du, Truyện Kiều: "Có tài mà cậy chi tài; chữ tài liền với chữ tai một vần;" Và "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài."
(44) Tập Gia Huấn Ca rất có thể là một tập sách được sao y và do nhiều nho gia vào các thời đại khác nhau bổ túc, chứ không nhất thiết của một tác giả nào đó.
(45) Chúng ta phải công nhận rằng, nhiều phong tục, tập quán như tang chay, cưới hỏi, khao vọng . từng học từ nho giáo. Thí dụ tang cha mẹ ba năm, không cắt tóc, cạo râu trong thời gian thụ tang. (Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam (Sài Gòn: NXb Đồng Tháp, 1998), tái bản, ctr. 316; Trung Dung, 18), chăm nom cha mẹ già (không đi xa, không làm quan) Luận Ngữ, 4: 19, 20.
(46) Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam (Sài Gòn: Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1996) tái bản. Quyển thượng, tr. 38.
(47) Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam, sđd., tr. 27: ". con cháu trình báo tổ tiên rõ để tổ tiên chia sẻ cái mừng với con cháu, và cũng nhiều khi là dịp con cháu tạ ơn tổ tiên đã phù hộ độ trì cho mình cầu được mong nên."
(48) Toan Ánh, như trên, tr. 27.
(49) Toan Ánh, như trên, tr. 28.
(50) Đây cũng là một lý do tại sao nhiều nhà trí thức hiện nay hiểu trung, hiếu theo phạm trù của giòng, giống, quốc gia. chứ không hoàn toàn theo lối hiểu thuần thể lý và tâm lý của cha mẹ.Thí dụ trung với nước, hiếu với dân chứ không hẳn trung với vua, hiếu với cha mẹ. Xtkh. Nguyễn Tài Thư, Nho Học và Nho Học tại Việt Nam (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1997), kết luận; Phan Đại Doãn, Một Số Vấn Đề về Nho Giáo Việt Nam (Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, 1998).
(51) Truyện Kiều, câu 2719.
(52) Xin tkh. Trần Văn Đoàn, "Mạt Thế Luận trong Ca Dao Tục Ngữ," trong Những Suy Tư Thần Học Việt Nam, sđd. |
|