|
Lịch Sử Tổng Giáo Phận Hà Nội - Phần 3
11.12.2008 03:39
1.3. Thời kỳ Chính tòa 1960-2008
Thời Chính tòa bắt đầu từ ngày 24/11/1960, khi Tòa Thánh ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum về việc thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, theo đó GP Hà Nội trở thành Tổng GP và Đức cha Giuse-Maria Trịnh Như Khuê làm Tổng Giám mục Hà Nội.
Từ thập niên 1960,đau thương và thử thách dành cho TGP Hà Nội còn nhiều hơn những năm 1954-1959, vì chút tự do và tài sản cuối cùng rơi rớt lại sau năm 1954 sẽ bị tước đọat nốt. Hơn nữa, từ năm 1960, Miền Bắc tiến lên “chủ nghĩa xã hội” bước vào cao điểm của thời kỳ chuyên chính vô sản và cuộc chiến tranh Bắc-Nam bắt đầu, kéo theo nhiều mất mát cho TGP.
Trong thời gian này, Tiểu Chủng viện Gioan Hà Nội- liên tiểu chủng viện cuối cùng của Miền Bắc bị giải tán (1960) và cũng vì thế suốt thập niên 1960, TGP Hà Nội không có một ai được phong chức linh mục.
Trong khi đó, nỗi lo sợ chiến tranh leo thang và Miền Nam Cộng Hòa có thể “Bắc tiến”, giống như Miền Bắc Cộng sản đã “Nam tiến” đã khiến nhà cầm quyền ở Miền Bắc ra tay bắt giam hay đưa đi quản chế hàng loạt các linh mục, tu sĩ và giáo dân ưu tú của TGP: Cha Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh bị đưa đi quản chế ở Chuôn (1965), cha Nguyễn Văn Thông (1965) và nhiều tu sĩ và giáo dân khác cũng lần lượt bị bắt đưa đi “học tập cải tạo” cho đến cuối những năm 1970 hoặc cuối những năm 1980 mới được trả tự do. Riêng cha Tổng Đại diện Antôn Đinh Hữu Nhân bị chết vì bom Mỹ bỏ trúng nhà thờ Nam Định năm 1968.
Cũng trong thập niên 1960, các trường học và các nhà in, nhà xuất bản của TGP và của các Dòng tu dần dần bị đình bản, bị đóng cửa và kết cục là bị chiếm dụng bất công và bất hợp pháp: Điền hình là Tòa Khâm sứ, Nhà in Têrêra, Trường Dũng- Lạc, Tu viện Cát Minh, Tu viện DCCT Hà Nội, Nhà thờ Đa Minh, Tu viện Sainte Marie, v.v. Nhà thờ nhiều giáo họ từng bước bị chiếm dụng, đôi khi trắng trợn, đôi khi khéo léo và tinh vi, khiến cho nhiều nơi không còn nơi thờ phượng. Nói chung hầu hết ruộng đất của GH và các cơ sở vật chất tạo lập trong hơn nửa thể kỷ trước đó bằng mồ hôi và công sức của các thành phần dân Chúa đến lúc này đều bị cướp đọat toàn bộ. Ngay cả nhà thờ cũng bị xâm phạm hay chiếm dụng ít nhiều ở mức độ khác nhau.
Hai thập niên 1960 và 1970, đời sống đạo của giáo dân bước vào giai đoạn có thể nói là gặp nhiều khó khăn nhất trong thế kỷ XX. Nguyên nhân thì nhiều. Một phần do các linh mục không được làm mục vụ ngoài địa bàn mình cư trú. Một phần do chiến tranh. Một phần do lối tổ chức đời sống và sản xuất trong trào lưu hợp tác hóa XHCN. Một phần do chính quyền tuyên truyền chủ thuyết duy vật-vô thần trong khi ra sức cô lập, mạt sát, đe dọa và lọai trừ người Công giáo tại trường học, cơ quan, công sở và các nơi lao động sản xuất. Phận giáo dân bị long đong, khổ sở, nhục nhã và nguy hiểm từng ngày. Đứng trước sự bách hại này, một số đông người Công giáo đã bị lung lạc đức tin, một số bỏ đạo, nhiều giáo điểm vùng Hà Nội, Hà Tây của các thừa sai DCCT và của các thừa sai MEP bị xóa xổ. Hầu như không còn ai dám gia nhập Công giáo và cũng không còn ai dám truyền giáo công khai. Nỗ lực của TGP trong giai đoạn này cũng như trong suốt thời gian từ năm 1954 cho đến hết những năm 1990, chỉ là để bảo đảm cho các tín hữu được đón nhận các bí tích và giữ vững được niềm tin trước sự tấn công GH cách dữ dội và có hệ thống của các thế lực chống phá GH.
Suốt những năm 60 và 70 của thế kỷ này, hầu như GH không còn được in ấn và xuất bản các tài liệu kinh sách. Chỉ một vài lần được xuất bản cuốn lịch Công giáo và 1 lần vào năm 1975 được in 5000 nghìn cuốn Phúc âm. Thiếu linh mục chăm sóc mà cũng thiếu sách vở nuôi dưỡng đời sống tinh thần, các giáo hữu trong TGP lấy các sinh họat đạo đức bình dân trong nhà thờ làm lương thực nuôi dưỡng đời sống đạo. Các cuộc chầu Thánh Thể, các cuộc dâng hoa kính Đức Mẹ, các buổi ngắm nguyện theo mùa phụng vụ và việc lần hạt mân côi trở nên quan trọng hơn đối với các tín hữu. Truyền thống này còn được tiếp tục cho đến ngày nay (2008).
Giữa những đau thương chồng chất có một tin vui là TGP có giám mục phó. Lúc bấy giờ, Đức TGM Giuse-Maria Trịnh Như Khuê dự đoán có thể sẽ còn nhiều thách đố và nguy hiểm hơn nữa cho GP cũng như cho bản thân ngài, đồng thời ngài cũng đề phòng bất trắc có thể xảy ra gây thiệt hại cho TGP, trong trường hợp TGP không có giám mục, mà ngài đã kinh nghiệm trong các GP ở Miền Bắc, cho nên ngày 2/6/1963, ngài đã bất ngờ và nhanh chóng truyền chức cho cha Giuse-Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Đại diện, Chính xứ Nhà thờ Chính Tòa, làm Tổng Giám mục Phó Hà Nội. Đức Tân Giám Mục sẽ là vị giám mục và hồng y can trường và thực hiện nhiều việc lớn lao nhằm bảo vệ và xây dựng GH như vị tiền nhiệm của ngài.
Từ thập niên 1960 cho đến nay (2008) TGP bước vào thời kỳ thiếu thốn linh mục trầm trọng. Trong khi các linh mục trẻ có khả năng phục vụ nhất bị bắt, bị quản chế, thì các linh mục lớn tuổi lại lần lượt ra đi. Suốt thập niên 1960 không có một lễ phong chức linh mục nào khiến cho năm 1974 TGP chỉ còn 23 linh mục phục vụ cho khoảng 160.000 tín hữu. Mãi đến năm 1973 chính quyền cho phép ĐCV Hà Nội được tuyển Khóa I. Năm 1980 được tuyển sinh khóa II, năm 1989 khóa III. Mỗi khóa TGP được không quá 10 chủng sinh. Vì thế số người được phong chức linh mục rất ít, dù đã phải lấy cả các thầy giảng lớn tuổi: Từ năm 1954 cho đến năm 1995, tức 31 năm, chỉ thêm được 30 linh mục, một số lượng không đủ để bù đắp số các linh mục lớn tuổi nghỉ hưu và qua đời.
Bước vào thập niên 1970, tình hình dường như có những dấu hiệu hy vọng hơn cho TGP ở một số phương diện nào đó. Năm 1973 ĐCV Hà Nội khóa 1 được khai giảng với 9 chủng sinh của Hà Nội. Năm 1974, sau hơn 20 năm, dường như bị cắt đứt giao tiếp với thế giới bên ngoài, nhờ sự can thiệp tích cực của Tòa Thánh, Đức TGM Phó G.M Trịnh Văn Căn đã được đi dự Thượng hội Đồng Giám mục Thế giới. Tiếp theo, ngày 27/5/1976 Đức TGM G.M Trịnh Như Khuê được sang Rôma nhận chức Hồng Y. Ngài còn sang Rôma tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới năm 1977, tham dự bầu cử và lễ nhận chức của hai đức giáo hoàng năm 1978, trước khi ngài qua đời vào ngày 27/11/1978.
Đức TGM G.M Trịnh Văn Căn lên kế vị ĐHY Trịnh Như Khuê. Lúc này TGP có khoảng hơn 160.000 tín hữu và 30 linh mục trong đó quá 2/3 là các linh mục lớn tuổi. Vì thế mỗi cha phải coi sóc nhiều giáo xứ. Cá biệt có trường hợp coi sóc đến 10 giáo xứ thuộc 2 GP như cha Gioan Đỗ Tông phụ trách 7 giáo xứ thuộc GP Hà Nội và 3 giáo xứ thuộc GP Bắc Ninh.
Cuối những năm 1970 đầu những năm 1980, cơ sở vật chất tiếp tục bị mất thêm do đổ nát, do phong trào tiến lên hợp tác xã bậc cao, do nhà cầm quyền địa phương muốn thừa cơ chiếm dụng làm công sở để từng bước xóa dấu tích của GH tại địa phương. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa do không có linh mục chăm sóc và hướng dẫn giáo dân bảo vệ nơi thờ tự, trong khi đó, các cán bộ địa phương lại hành xử cực đoan đối với Công giáo.
Năm 1979, Đức TGM G.M Trịnh Văn Căn được phong hồng y và ngài đã tích cực chu toàn vai trò của mình trong việc xây dựng TGP và xây dựng GH Việt Nam. Năm 1980, ngài đã đóng một vai trò tích cực trong việc thành lập HĐGM Việt Nam thống nhất mà trong đó ngài được bầu làm Chủ tịch tiên khởi khi Đại hội thứ I của Hội đồng họp tại Hà Nội. Ngài cũng đã liệu cách cho các đức giám mục trong nước đi Rôma viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô trong năm 1980-1981, in 50.000 cuốn Tân ước phát cho tín hữu Miền Bắc năm 1981, xuất bản kinh bổn, các tập Thánh ca Phụng vụ và hoàn thành bản dịch Kinh Thánh trọn bộ vào năm 1988, phong chức Giám mục Phụ tá cho Đức cha F.X Nguyễn Văn Sang (1981), truyền chức linh mục cho 8 chủng sinh khóa 1981-1987.
Đỉnh cao trong sứ mạng phục vụ của ĐHY G.M Trịnh Văn Căn là sự kiện ngài đã kiên trì xúc tiến việc tuyên thánh tử đạo Việt Nam. Bất chấp sự chống đối, ngăn cản và áp lực từ phía chính quyền, ngài đã can đảm nhân danh HĐGM Việt Nam gửi thỉnh nguyện thư lên Tòa Thánh. Nguyện ước của ngài và cũng là của GH VN được thành sự khi ngày 19/6/1988, 117 chân phúc tử đạo Việt Nam đã được Đức Giáo hòang Gioan Phaolô II nâng lên hàng hiển thánh.
Cũng trong năm 1988, một biến cố quan trọng đối với TGM Hà Nội là sự kiện Đức TGM P.X Nguyễn Văn Thuận, sau 4 năm bị biệt giam và 9 năm bị quản chế tại Giang Xá, đã được chuyển về cư trú tại Tòa TGM Hà Nội. Đồng thời, các cha Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Văn Thông cũng được giải quản cùng năm. Cha Nguyễn Ngọc Oánh mau chóng nhận chức Phó Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội trong khi cha Nguyễn Văn Thông đã bị bệnh nặng không thể tiếp tục phục vụ và ngài đã qua đời 3 năm sau, khi vừa vào Sài Gòn chữa bệnh được mấy tháng. Những sự kiện này ít nhiều vực dậy sức sống của TGP Hà Nội trong lúc thiếu thốn nhân sự, nhất là thiếu những người yêu mến GH đồng thời có khả năng phục vụ.
Năm 1989, năm cuối của thập niên 1980, TGP có thêm tin vui: Tháng 1 TGP đón phái đoàn HĐGM Hoa Kỳ thăm GH Việt Nam (1/1989), tháng 3 khai giảng Khóa IV ĐCV Thánh Giuse, tháng 7 đón ĐHY Etchegaray, Chủ tịch UB Công lý và Hòa bình và Chủ tịch Hội Đồng Tâm của Tòa Thánh, Đặc sứ của Đức Giáo hoàng, thăm GH Việt Nam. Tại Hà Nội ngài đã thăm Tòa TGM-Nhà thờ Chính Tòa và thăm giáo xứ Thạch Bích.
Ngày 18/5/1990, bất ngờ ĐHY G.M Trịnh Văn Căn đột ngột qua đời ở tuổi 69, đang lúc đảm nhiệm nhiều sứ vụ quan trọng trong GH: TGM Hà Nội, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Giảm quản các GP: Huế, Hưng Hóa, Thái Bình và Hưng Hóa. Đức Hồng Y Etchegaray đã đại diện Tòa Thánh đến chủ sự thánh lễ an táng ngài tại quảng trường Nhà thờ Chính tòa Hà Nội với sự tham dự của hàng chục nghìn người.
Ngày 20/6/1990 Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng làm Giám quản TGP Hà Nội và đến năm 1994, thì ngài được bổ nhiệm làm TGM Hà Nội, rồi được phong hồng y vào ngày 26/11/1994 tại Rôma. Ngài sẽ còn nắm các chức vụ quan trọng khác như Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Giám quản GP Hưng Hóa (1995), Lạng Sơn (1998), Hải Phòng (1999).
Trong khi đó Đức cha F.X Nguyễn Văn Sang được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Tòa rồi Giám mục Chính Tòa Thái Bình (1990). Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Chính xứ Nam Định, Tổng Đại diện lên làm Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội và được phong làm Giám mục Phụ tá TGP Hà Nội ngày 14/8/1994.
Nhờ nỗ lực của Đức Hồng Y Phaolô- Giuse, sang thập niên 1990 Chủng viện có thêm một số linh mục từ Miền Nam ra làm giáo sư thỉnh giảng hay giáo sư thường trực cho Chủng viện Hà Nội. Nhờ sự kiên trì đấu tranh của ngài và của các đức giám mục khác, từ năm 1995 ĐCV được tuyển sinh 2 năm/ khóa thay vì 6 năm/khóa như trước đây, nâng sĩ số chủng sinh lên đến gần 200 thầy. Cũng vì vậy năm 1998 TGP đã phải mở rộng cơ sở ĐCV, để đảm bảo chỗ ăn ở cho việc học tập và rèn luyện của chủng sinh.
Tính chuyện lâu dài cho tương lai của TGP, từ giữa những năm 1990, ĐHY cũng đã gửi một số linh mục đi du học ngọai quốc. Một số vị đã trở về và đã nắm các trọng trách trong ĐCV như Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Lạng Sơn, nguyên Tổng Đại diện và nguyên Phó Giám đốc ĐCV Hà Nội; Đức cha Lorenxô Chu Văn Minh, Giám mục Phụ tá, Giám đốc ĐCV Hà Nội. Tổng cộng từ giữa thập niên 1990 đến nay đã có 6 cha du học trở về và 9 cha còn đang tiếp tục nghiệp đèn sách ở Pháp, Ý, Mỹ.
Bên cạnh đó, ĐHY cũng tìm cách xin chính quyền cho các thầy lớn tuổi đã theo đuổi ơn gọi đã lâu năm được theo học các khóa bổ túc trong chủng viện rồi truyền chức linh mục cho các thầy này, nhằm có người phục vụ cộng đồng dân Chúa đang càng ngày càng đông đảo. Tất cả những nỗ lực này cũng không làm dịu cơn đói khát linh mục trong TGP: Năm 1995 TGP có 34 linh mục, trong đó chỉ có 4 vị dưới 40 tuổi. Năm 1998 TGP có 43 linh mục phục vụ cho khoảng 300.000 tín hữu. Đối chiếu với thời điểm 1954 có 59 linh mục cho khoảng 140.000 tín hữu, mới thấy bước vào ngưỡng cửa hy vọng của Năm Thánh 2000, TGP còn bộn bề lo toan.
Đức Hồng Y Phaolô-Giuse cũng chăm lo đến đời sống tu trì để đảm bảo nhân sự phục vụ và sự đa dạng trong TGP. Dòng MTG bắt đầu tuyển sinh ơn gọi, mở tập viện và khấn dòng hằng năm, giúp cho nhân sự các tu viện vốn là các “nhà mụ” trong TGP được trẻ hóa và sinh động. ĐHY còn lập ra Tu đoàn Nữ Truyền Tin và Tu đoàn Nam Truyền Tin nhằm mục đích truyền giáo. Đến nay Tu đoàn Nam Truyền Tin đã có 4 linh mục, 16 tu sĩ và 3 ứng sinh. Trong khi đó Tu đoàn Nữ Truyền Tin có 13 nữ tu, 20 tập sinh, đệ tử. ĐHY còn bảo đảm sự hiện diện liên tục của các tu sĩ DCCT ở Đền Đức Mẹ HCG ở Thái Hà và mở đường cho sự tái hiện diện của các tu sĩ Dòng Salésien ở Hà Nội, bằng cách đưa tu sĩ của các dòng này từ Miền Nam ra phục vụ.
Đời sống đạo trong thập niên 1990 đã từng bước được phục hồi và khởi sắc nhờ sự giao lưu Nam-Bắc của các thành phần dân Chúa diễn ra tích cực, nhờ TGP có thêm các linh mục, nhờ chính quyền giảm bớt những biện pháp khắc nghiệt trong việc kiểm soát tôn giáo, nhờ đời sống vật chất và tinh thần của giáo dân được phần nào cải thiện. Nhiều nhà thờ được tu bổ, nhiều hội đoàn đạo đức phục hồi, sinh họat đạo nghĩa trong các nhà thờ trở nên tự tin và sinh động hơn. Đứng trước hiện tượng đạo đức phong hóa bị suy đồi trong bối cảnh mở cửa và hội nhập của đất nước, ĐHY lưu ý các tín hữu chăm lo trau dồi đời sống đạo đức, quan tâm giáo dục thế hệ trẻ và làm việc bác ái xã hội. Trong chiều hướng này mà một số hội đoàn tông đồ-đạo đức được hồi sinh hoặc du nhập vào Tổng GP như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội Dòng ba Phan Sinh, Hội Legio Mariae, Hội Thánh Tâm (1995), Hội Gia đình cùng theo Chúa (2000), Gia đình Thánh Tâm (2003), Hội Sinh viên Công giáo TGP Hà Nội (1998).
TGP bước vào Năm Thánh 2000 vẫn còn ngổn ngang vấn đề và đầy dẫy những khó khăn thử thách. Lúc này, giáo dân TGP đã gia tăng nhanh chóng do tỷ lệ sinh tự nhiên và do giáo dân nhập cư từ các tỉnh về các thành phố trong TGP như Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Phủ Lý. Mặc dù vậy, cơ sở vật chất của TGP đã xuống cấp và thiếu thốn trong khi đó nhân sự còn thiếu thốn hơn nữa: TGP có 1 Đức Hồng y -Tổng Giám mục, 1 Đức Giám mục Phụ tá và 43 linh mục già trẻ cho hơn 300.000 giáo dân. Công việc hàng đầu của TGP được tiến hành đồng thời với việc rao giảng và tái rao giảng Tin mừng là vấn đề tổ chức việc thờ phượng ở các giáo xứ, vấn đề đào tạo nhân sự, tu bổ cơ sở vật chất.
Giữa lúc bề bộn khó khăn và vấn đề ấy, nhận thấy mình không còn đủ sức khỏe để phục vụ TGP ở mức tốt nhất, ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng đã xin nghỉ hưu để Tòa Thánh sắp đặt một vị mục tử trẻ trung thích hợp hơn cho TGP trong thời kỳ mới. Nguyện ước của ngài và của TGP đã được Chúa nhận lời. Ngày 24/4/ 2003 Tòa Thánh chấp thuận cho ĐHY Phaolô-Maria được nghỉ hưu và trước đó, ngày 15/4/2003 Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Giám mục Lạng Sơn, được bổ nhiệm làm Giám quản TGP Hà Nội và ngày 19/2/2005 ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hà Nội.
Đức Tân TGM đã tìm cách gia tăng nhân sự phục vụ trong TGP: Ngoài việc phong chức linh mục cho các lớp chủng sinh của TGP vừa tốt nghiệp Chủng viện, ngài còn cho một số linh mục từ các GP và dòng tu nhập tịch Linh mục Đoàn Hà Nội và truyền chức cho các chủng sinh lớn tuổi sau khi liệu cho các thầy qua các khóa chủng viện bổ túc ở Nha Trang và Bùi Chu. Kết quả là từ năm 2003 đến năm 2008, TGP đã có thêm 54/95 linh mục, trong đó có 49 vị được phong chức tại Hà Nội dưới quyền của Đức TGM đương nhiệm.
TGP cũng đầu tư cho tương lai: Mặc dù còn đang rất thiếu linh mục coi sóc các giáo xứ, song le vì tương lai của TGP, hiện tại TGP đã gửi các linh mục trẻ đi du học ở Pháp, Ý và Mỹ. Hiện tại có 9 linh mục trẻ đang du học các chuyên ngành thần học và mục vụ ở Pháp, Ý và Hoa Kỳ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, TGP cũng đa dạng hóa nguồn đào tạo để phục vụ nhu cầu giao lưu, hội nhập và liên kết phục vụ ở bình diện quốc tế, vì thế một số chủng sinh của TGP cũng đã được gửi đi đào tạo tại các chủng viện ở Úc, Ý và Hoa Kỳ.
Cũng trong ý hướng mở đường cho việc sống đức tin, hội nhập và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa, đáp ứng truyền thống tốt đẹp trong GH, từ năm 2006 TGP Hà Nội đã kết nghĩa với GP Orange County, CA, Hoa Kỳ. GP Orange County đã bảo trợ đào tạo 4 chủng sinh tại Việt nam để trở thành linh mục đồng thời còn gửi người đến Hà Nội để giảng dạy tiếng Anh cho các linh mục, tu sĩ và chủng sinh.
Bước vào thế kỷ 21, nhằm đa dạng hóa việc phục vụ, đáp ứng các nhu cầu của TGP, các tổ chức tu trì được khuyến khích tạo lập cơ sở trong TGP để học tập và phục vụ. Vì vậy, trong gần 1 thập niên vừa qua, số lượng các tổ chức tu trì tăng nhanh trong TGP. Hiện tại, có 26 dòng tu, tu hội và tu đoàn hiện diện và phục vụ trong TGP trong đó có những dòng tu phục vụ ở đây từ lâu đời như Dòng MTG, Dòng Sainte Paul, Dòng Chúa Cứu Thế.
Sau nhiều thập niên bị chiếm dụng và bị tàn phá, vấn đề cơ sở vật chất để phục vụ của TGP vẫn là vấn đề cấp thiết: Nhiều nhà thờ cần xây dựng hoặc tái thiết, các cơ sở đào tạo, y tế, giáo dục cần được xây dựng để đáp ứng các sinh họat khác nhau cho số giáo dân ngày càng đông đảo do hiện tượng nhập cư. Từ những năm giữa thập niên 1990, Tòa TGM đã đề nghị chính quyền thành phố Hà Nội giao lại cơ sở Tòa Khâm Sứ cho TGP. Bên cạnh đó, nhiều giáo xứ cũng xin lại đất đai, nhà cửa của mình đã bị chiếm dụng bất công và bất hợp pháp như Sở Kiện thuộc Hà Nam, Thái Hà và Hà Đông thuộc Hà Nội.
Kết quả cho đến nay (2008) nhiều nhà thờ đã được trùng tu, một số nhà thờ đã được xây dựng mới hoàn toàn. Riêng vấn đề xin lại các cơ sở bị chiếm dụng bất công và bất hợp pháp trước đây, mới chỉ có trường hợp Sở Kiện là được giải quyết tương đối thỏa đáng, còn lại các trường hợp khác đều bị chính quyền dùng bạo lực chối bỏ yêu cầu chính đáng của GH. Hơn nữa, Đức TGM và một số linh mục, giáo dân bị kết án, chụp mũ bất công. Nhiều người Công giáo bị phân biệt đối xử. Mặc dù vậy, từ vấn đề đòi đất, TGP đã đã làm dậy lên ở trong và ngoài nước một phong trào làm chứng cho công lý và sự thật, đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo, cho công bằng, dân chủ và văn minh.
Bước vào thế kỷ 21, nhờ kinh tế của giáo dân ổn định hơn mà đời sống tinh thần cũng được chú trọng: Một số các khóa linh thao, hoặc học hỏi chuyên biệt về thần học, tu đức, quản trị, kỹ năng, thánh nhạc cấp TGP đã được tổ chức cho các đối tượng khác nhau. Sau nhiều năm bị cô lập vì hoàn cảnh khách quan, đến giai đọan này, TGP từng bước hội nhập với GH hoàn vũ và thực hiện giáo huấn của công đồng Vatican II.
Hiện nay trong TGP bên cạnh việc tu bổ hay xây dựng nhà thờ, nhà giáo lý, các giáo xứ đang củng cố ca đoàn, ban giúp lễ, đội dâng hoa, tổ chức các hội đạo đức, mở các lớp giáo lý khai tâm cho thiếu nhi, các lớp giáo lý cho người trưởng thành, chăm lo bồi dưỡng văn hóa cho các học sinh các cấp với ước mong cho giáo xứ có thêm người đậu cao đẳng và đại học, có thêm ơn gọi tu trì. Giáo dân từng bước vượt qua lối sống đạo khắc kỷ, có tính cá nhân để xây dựng đời sống đức tin dựa trên nền tảng Thánh Kinh và theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, sống trách nhiệm hơn, liên đới hơn và dấn thân nhiều hơn. Phong trào làm chứng cho công lý và sự thật khởi đi từ TGP cũng là kết quả của một tiến trình sống đức tin một cách trưởng thành và trách nhiệm của các thành phần dân Chúa trong TGP.
Tính đến cuối năm 2008, TGP có 1 Tổng Giám Mục, 1 Hồng Y, 2 Giám mục Phụ tá, 98 linh mục, 69 chủng sinh, 144 tiền chủng sinh, 22 nam tu, 392 nữ tu, giáo lý viên, phục vụ cho 141 giáo xứ với khoảng hơn 330.000 tín hữu, không kể hàng chục nghìn tín hữu từ các GP khác nhập cư sinh sống tại các thành phố lớn của TGP như Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Phủ Lý.
Chuyển biến tích cực bên trong, bên ngoài trên đây là những dấu chỉ lạc quan và hy vọng cho TGP. Mặc dù hiện tại còn nhiều khó khăn và thử thách, song từ những gì đang được các thành phần dân Chúa trong TGP thực hiện để sống và rao truyền niềm tin của mình, người ta đã có thể thấy rằng TGP đang bắt đầu bước vào giai đọan trưởng thành và đóng góp những giá trị tốt đẹp của mình cho GH và xã hội, góp phần mang lại hạnh phúc và sự phát triển, nhất là mang lại ơn cứu độ cho con người.
(còn tiếp)
Nhóm Biên Tập
|
|