A.CHA SỞ THỨ SÁU : CHA SỞ LOUIS-MARIE JOSEPH MARTIN (NGHI) (1901 – 1916)

1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ :

Ø Sinh ngày 24/08/1851 tại Nimes
Ø 18 tuổi đăng vào quân đội giáo hoàng (chỉ vài tháng) ở Ý, sau đó giải tán đội binh, Ngài về Pháp
Ø Sau đó gia nhập Đại Chủng Viện Avignon
Ø 22/05/1875 chịu chức phó tế (Thầy Sáu)
Ø 29/09/1875 vào chủng viên Thừa Sai
Ø 23/09/1876 chịu chức linh mục
Ø 30/11/1876 đến Tây Đàng Trong
Ø Học tiếng Việt và phong tục tập quán Việt Nam ở họ Cái Mơn
Ø 1878 coi sóc họ đạo Rạch Dâu
Ø 1885 – 1890 : Coi sóc họ Chợ Lớn
Ø 1890 – 1892 : Coi xứ Bà Rịa, và xây nhà cha sở ở đó
Ø 18 tháng nghỉ ở Pháp vì đau yếu, Cha Lambert thay Ngài coi xứ Bà Rịa
Ø 12/1894 – 1896 : Trở lại coi sóc họ Bà Rịa
Ø 12/1896 – 1901 : Hướng dẫn các nữ tu Dòng Thánh Phaolô ở Sài Gòn
Ø 1901 – 8/1916 : Cha sở Họ Đạo Búng
Ø 08/08/1916 : Qua đời đột ngột ở Sài gòn (lúc đi chữa bệnh)

2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ :

[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Việc xây dựng :

Ø Xây nhà cha sở hiện nay (1902) :

Một tài liệu ghi rằng Cha xây nhà này bằng tiền của gia đình Cha ở bên Pháp gửi qua. Còn Cha thì không ghi lại gì, nhưng trước khi viết bài khảo sát này, về việc cha sở Giuse Nguyễn Tri Thơ xây nhà thờ có bán đi một số bất động sản của họ đạo thì Cha rất lấy làm tiếc (‘On vendit alors, ce qui est fort regrettable, les quelques biens fonds de la chrétienté’). Sau này, khi viết về việc trả lương cho thầy cô ở trường, cha cũng nói : ‘Ở Búng , tất cả tài sản đã được bán hết cách đây 20 năm khi xây cất nhà thờ’(À Búng, tours ces biens ont été vendus il ya 20 ans lors de la construction de léglise). Nhà cha sở được xây dựng trong những điều kiện tốt đẹp, có một lầu, vào năm1902. Đến nay (2010 ), nhà cha sở tròn 115 năm.
Ø Hai trường học : 1 dành cho năm avf 1 dành cho nữ. Các trường này được dựng bằng gỗ khá tốt và mái lợp tranh. Tô phía bên ngoài nhà thờ (Còn phía bên trong nhà thờ trước đó đã được cha Frison tô rồi).
Ø Tu sửa phòng Thánh :
Ø Nhà thờ Bình Sơn (Họ Đạo Búng) :

Trước khi chết (08/08/1916, cha Martin cho xây lại nhà nguyện phụ (La Chapelle de secours) dưới tên gọi là nhà thờ Bình Sơn. Nhà thờ này được thánh hiến trong thể do ĐGM Quinton ngày 21/02/1919 với thánh hiệu ‘Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp’ (24/05)
Trong sổ rửa tội đầu tiên, trang 86, số 169, có ghi tên Tôma Đoàn Công Tửu, con của ông Raymond Đaòn Công Huy và bà Anê Nguyễn Thị Nhiệm sinh 03/05/1877, ở Bình Sơn, Tổng Bình Chánh.
Như vậy từ thàhh lập họ đạo Búng, thì Bình Sơn thuộc Búng, nhà thờ được cha Martin cất sau (1916). Đến 19/02/1970 Bình Sơn được Đức Cha Thiên chính thức nâng lên giáo xứ, cử cha Giuse Nguyễn Văn Cung làm cha sở đầu tiên.
Ø việc đi tu :
Cha Martin ghi : Họ Búng đã cung cấp cho Giáo Hội Miền Nam vIỆT Nam 12 linh mục, trong đó thật hãnh diện có một vị tử đạo : Chân phước (Á Thánh) Phêrô Đaòn Công Quí (Lúc đó P. Quí được ĐGH Piô X phong Chân phước ngày 02/05/1909 và bài khảo luận của cha Martin được viết ngày 10/02/1911…NV). Cháu của Á Thánh là cha P. Triệu. Còn có các cha : Gia, Dư, Cậy, Vật (3 cha Gia, Cậy, Vật đã qua đời khi cha Martin viết bài này), Tự, Quí, Vàng, Trương, Lắm, Kiểm, Việc (cha Dư mất năm 1883, cha Cậy mất năm 13/01/1902, cha Vật mất năm 1897).
§ Ở Dòng Kín có 6 nữ tu : Ba người chết ở Sài Gòn, ba nữ tu còn lại đã đi Hà Nội để lập một tu viện ở đó. Năm 1895, dòng Cát Minh (Carmel) Sài Gòn lập dòng Cát Minh Hà Nội.
§ Ở dòng Thánh Phaolô : có 18 người
§ Ở 2 tu viện Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và Chợ Quán : Có 15 người.
§ Với những con số trên, họ đạo Búng cho đến thời Cha Martin có 12 linh mục và 39 nư tu.
[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Việc đạo đức

Đời cha Simon (1893 – 1895) báo cáo nói họ Búng có gần 1.500 giáo dân. Đến thời cha Martin viết khảo luận này (10/02/1911) thì khoảng 18 năm. Vậy số giáo dân có lẽ đã tăng thêm.
Về vấn đề đạo đức, cha Martin viết như sau (trích nguyên văn)
‘Có thể chia giáo dân ra thành 3 nhóm’ :
§ Những người sốt sắng : Tham dự thánh lễ hằng ngày và lãnh Bí Tích mỗi tháng hay thường xuyên hơn. Con số này khoảng 60 đến 80 người.
§ Những người thông thường : Phần đông giữ luật chung của Giáo Hội và rước lễ 1 hay 2 lần trong một năm.
§ Những người trễ nải : Nói chung là giữ đạo bê bối, họ theo đạo vì cha họ đã theo đạo, và vì họ đã được rửa tội rồi. Họ không ngần ngại đi làm việc ngày chủ nhật (Thời đó, luật buộc nghỉ làm việc xác ngày chủ nhật). Thỉnh thoảng họ bỏ lễ chủ nhật. Trong số này có khoảng 20 gia đình.
Tất cả giáo dân đều biết những chân lý căn bản của đạo, nhưng trong nhà, họ ít nói đến việc đạo. Các em nhỏ chỉ có thể được dạy cho biết đạo khi đến học giáo lý trong các trường họ đạo.
Như tôi đã nói trên, có 60 đến 80 người rưiớc lễ đều đặn mỗi tháng, 5 hay 6 người rước lễ mỗi tuần, không có ai rước lễ thường xuyên. Nên biết cha Martin ghi con số như trên về việc rước lễ, trong khảo luận viết ngày 10/02/1911 vì trước đó, ĐGH Piô X, ĐƯỢC GỌI LÀ Giáo Hoàng của Thánh Thể, ra sắc lệnh về Thánh Thể như sau :
v Sacra Tridentína Synodus (20/12/1905) cổ võ việc siêng năng Rước Lễ và Rước Lễ hằng ngày, miễn là sạch tội trọng và có ý ngay lành.
v Quam Singulari (04/08/1910) cho phép trẻ em xưng tội Rước lễ từ khi có tuổi khôn.
It người đọc kinh vào ngày chủ nhật. Phần lớn họ đến khi đọc kinh xong và Thánh Lễ sắp bắt đầu. Các ông chức việc không làm gương tốt về việc này. Cách chung họ giữ luật kiêng việc xác ngày chủ nhật.
Về việc sùng kính, cha Martin viết tiếp :
Ø Thánh Tâm : Thứ sáu đầu tháng có khoảng 70 đến 80 người rước lễ. Trong tháng Thánh Tâm (tháng sáu), người ta đọc kinh cầu trong thánh lễ.
Ø Đức Mẹ : Vì tháng Đức Mẹ (tháng năm) rơi vào mùa hái măng cụt, và phần lớn giáo dân là người nhà nông, hoặc là người làm công nhật, nên tất cả không đến dự được. Người ta làm việc kính Đức Mẹ vào buổi tối, có khoảng 100 người lớn dự, còn trẻ em học trò thì từ 200 đến 250.
Hội Môi Khôi được thành lập trong họ đạo và có 130 thành viên. Trong tuần có vài người đến nhà thờ lần chuỗi và trong tháng mười (tháng Môi Khôi) có đông người hơn đến lần chuỗi trong nhà thờ. Mỗi chủ nhật đầu tháng thì giáo dân đi kiệu Đức Mẹ. Trong một vài gia đình người ta lần chuỗi trước khi đi ngủ. Trên bàn thờ Đức Mẹ, có một số của dâng chủ yếu là nến sáp.
Ø Thánh Giuse : Hơi bị quên lãng. Ít chăm lo bàn thờ của Người. Trong tháng kính Người (tháng ba) giáo dân dự thánh lễ đọc kinh cầu Thánh Giuse/
Ø Thánh Antôn : Có một tượng của ngài và những ai muốn xin ơn thì đến dâng cúng, số tiền này không vượt quá 2 đồng mỗi tháng.
Ø Các linh hồn trong luyện ngục:

Mỗi thứ hai người ta cầu lễ. Ngày 02/11 đối với toàn họ đạo là một ngày định ra để đi dự lễ.
Khoảng một nửa giáo dân không xin lễ (cầu hồn) trừ khi trong nhà có người qua đời, vì phần đông họ nghèo hay vì lơ là. Còn những người khác thì họ xin lễ cho một Linh mục duy nhất.

Về giáo lý, Cha Martin nêu rõ :
‘Nói chung các cô gái theo học giáo lý khá tốt. Còn thanh niên thì bỏ học giáo lý từ khi lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức xong, khoảng 12 người sẵn sàng tham dự. Một số bà con cũng đến dự lớp giáo lý này, các ông thì rất ít.
Các chức việc có khoảng 20 người, nhưng mới có 3 hay 4 người điều khiển đọc kinh tối’.
Về lòng nhiệt thành :
‘Giáo dân không có địa vị cao, cũng không có tài sản lớn nên gây ảnh hưởng ít đến lương dân ở quanh họ (phải nói lòng nhiệt thành nung đốt họ thì không sốt nóng cho lắm), nhưng người lương gần bên họ từ lâu đã biết đến đạo giáo của ta, nếu họ không theo đạo, chính vì họ không muốn trở lại’
Về Hội Hài Đồng :
‘Giáo dân ít đi tìm các trẻ em ngoại đạo sắp chết, nhưng khi họ có dịp gặp chúng, thì họ sẵn sàng cưu mang chúng. Nếu trẻ qua bú mẹ, thì họ sẵn sàng nhận nuôi, nhưng nếu trẻ còn bú mẹ thì họ gửi chúng đến cô nhi viện ở Lái Thiêu. Khi họ nhận nuôi thì nói chung họ chăm sóc và đối xử chúng như con ruột của họ’(năm 1910, Cô nhi viện ở Lái Thiêu được thành lập do cha sở Ernest Verney đến năm 1954 thì chuyển các em cho Cô nhi viện Gò Vấp. Xem lịch sử nhà thờ Lái Thiêu, trang 21).
Về trường học :
Cha Martin báo cáo như sau :
Ø Bà Trà : có 90 giáo dân, không có trường học
Ø Bình Sơn : Có một trường hỗn hợp (nam, nữ học chung) do một Thầy đã có gia đình đứng lớp. Tiền lương cho Thầy do các gia đình góp lại.
Ø Búng : Có hai trường : một dành chon am và một dành cho nữ. Trường nam do một Thầy cựu chủng sinh dạy. Ngoài giáo lý, còn dạy học, viết và bốn phép tính. Tuy nhiên, không đạt kết quả nhiều vì còn một số con em bị lôi đến trường, ngoài ra cha mẹ chúng không thúc giục chúng đi học và không muốn cho chúng thức ăn giáo khoa. Trường nữ do một ông Biện đồng nhi dạy. Cũng những môn học như trường nam, nhưng ít dạy cho viết và làm tính.
Khi việc truyền giáo được chính phủ trợ cấp, thì các em nữ được các Dì Thủ Thiêm dạy. Khi không còn trợ cấp, tôi (cha Martin) bắt buộc phải đi tìm thầy dạy trong giáo dân. Nhiều lần tôi nói với các chức việc để mời các dì đến dạy, nhưng tôi luôn nhận được câu trả lời này: “Bẩm cha, chúng tôi nghèo”. Để lập khoản tiền lương của các giáo viên, thì phải đóng góp nhưng cũng không đủ để trả lương hoàn toàn, cho dù tiền lương của một cô giáo thật tiếc kiệm chỉ có 60 đồng. Có một năm, tôi phải gánh phí tổn này (năm 1902, chính phủ Pháp hủy bỏ trợ cấp hằng năm về trường học cho các nhà truyền giáo ở Việt Nam. Xem tiểu sử ĐGM Lucien Emile Mossard)
Sau năm 1975, chính quyền trưng thu hai trường học trên, để lập thành trường Tiểu học, trung học,
Đến nay (2007) hai trường này được sửa chữa như sau:
Ø Tháng 12/2006 trường nữ được sửa thành hội trường của họ đạo, hình thức hai mái, ngói móc, 2 hành lang trước sau vẫn còn, còn dàn cây chịu nóc vẫn còn tốt.
Ø Trường nam (sau đài Thánh Quí) trước đó chỉ có hai căn phòng, mái ngói móc như trường nữ. Sau năm 1975, Chính quyền trưng thu làm trường học Tiểu học và đập bỏ nó để xây các phòng hiện đại hơn. Hiện nay (2007), trở thành trung tâm học tập cộng đồng, và vào mỗi chủ nhật các lớp giáo lý vào đời học ở đây, và thành trường Mẫu Giáo Hoa Mai (2009).

3. NHỮNG GHI NHẬN VỀ CHA SỞ MARTIN :

Suốt đời cha giữ sự hăng say và tính ổn định của một chủng sinh. Cha lo việc mục vụ một cách trung thành và được mọi ngườikính trọng….Tiết kiệm trong những việc nhỏ, nhưng trái tim Cha bao la quảng đại đối với những việc lớn lao.
Đức Giám Mục Mossard trong báo cáo năm 1916 có nhắc đến cha Martin như sau: “Cha Martin dường như còn phải sống lâu dài nhưng đã bỏ chúng tôi vì cơn bệnh bất ngời, chỉ kéo dài 3 hay 4 ngày.” “Đầu tháng 8/1916, Cha đi Sài Gòn để chữa bệnh đau ngực(angine), mong hết bệnh trở về Họ Đạo Búng sau một vài ngày trị bệnh, nhưng bệnh tiến quá nhanh, 2 ngày sau khi nhập viện của bác sĩ Angier, cha qua đời đột ngột ngày 08/08/1916, saui khi đã lãnh các bí tích sau cùng.”

1. CÁC CHA PHÓ TRONG THỜI CHA SỞ MARTIN :

Trong thời Cha Martin phục vụ tại họ Búng, có một cha phó giúp Ngài. Đó là cha Giuse Quận. Trong khi ở Búng. Ngài đã cho diễn tuồng “Cố Du tử đạo”(Cố Du sinh 1803, đến Lái Thiêu 1830, có đến Búng). Cha Phó Quận dựng lầu chuông bằng cây ở bên đài Thánh Quí bây giờ. Cha qui tụ thanh niên Hưng Định và An Thạnh để giúp việc nặng nhọc này.
Một Cha Phó khác: Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Phuông
Ø Sinh 1861 ở Mỹ Tho
Ø Linh mục 1897(lúc 36 tuổi)
Ø Qua đời 1919 (hưởng dương 56 tuổi)
Ø Dạy giáo lý rước lễ lần đầu cho ông Nguyễn Thới Linh năm 1911.

2. CÁC DÌ TRONG THỜI CHA MARTIN

Năm 1915. Cha Martin (Nghi) xin các Dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm về giúp họ đạo. Bề trên là dì Maria Nguyễn Thị Hiếm gửi 2 dì trong hội dòng đến Búng là:
Ø Dì Anna Nguyễn Thị Hải
Ø Dì Maria Huỳnh Thị Lai.

B.CHA SỞ THỨ BẢY: CHA ANRÊ NGUYỄN VĂN MIỀU (1916 – 1925)

1. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ:

Sinh 1863 tại Gia Định, chịu chức linh mục năm 1893, phục vụ tại Búng 1916 – 1925. Ngài được phong chức linh mục năm 30 tuổi. Có rất ít tài liệu về Ngài, lúc 53 tuổi Ngài được bổ nhiệm làm cha sở họ Búng

2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ

Trong suốt 9 năm tại Búng, Ngài đã làm nhiệm vụ của một chủ chăn nhiệt thành. Đến 63 tuổi Ngài được đổi đi. Năm 1928, lúc Ngài đã 65 tuổi, Đức Giám Mục Dumortier đã ghi lại như sau:
“Việc mục vụ 1927 – 1928 khởi đầu bằng việc đặt một linh mục An-nam ở Côn Đảo, nhà tù lớn nhất Đông Dương. Ngày 01/09, linh mục De Coopman, người đã lo việc mục vụ này vừa là cha xứ nhà thờ chánh tòa Sài Gòn, cùng với linh mục Anrê Miều, đáp tàu đến Côn Đảo, để giới thiệu người mục vụ mới với Giám Đốc trại tù, và xin phép để cha có thể chăm lo cho những tù nhân. Côn Đảo ở giữa biển, mất 15 tiếng đồng hồ đi tàu từ Sài Gòn ra đó, và chỉ liên lạc với Miền Nam 3 lần mỗi tháng…..Trong số 2000 tù nhân, gồm người An-nam, Cambốt, Trung Hoa, thì chỉ có khoảng 100 người công giáo, nhưng rất nhiều công giáo trong số nhân viên dân sự và quân sự để canh gác hay phục vụ nhà tù; Ngoài ra còn hy vọng đưa vào đạo công giáo một số tù người lương dân, thiếu thốn sự an ủi. Cha Anrê Miều đã có 50 tân tòng. Chính quyền đã cho phép cha viếng thăm các trại tù mỗi chúa nhật, và kêu gọi tù nhân sống đạo đức. Mỗi ngày cha có thể tự do thăm các bệnh nhân ở các bệnh xá và cha đã rửa tội ở đó 5 người lớn sắp qua đời.”
Như vậy, với con số giáo dân trên 1500 đời cha Martin, thì trong 9 năm ở Búng, cha Anrê Miều một mình phải lo toan về mặt mục vụ cũng khá vất vả….Theo sổ rửa tội còn lưu tại họ đạo Búng, cha đã rửa tội:
Cha Anrê Miều ký sổ Rửa Tội từ 18/09/1916 đến 27/02/1925.
Các dì Mến Thánh Gía Thủ Thiêm luân phiên đến Búng trong thời gian cha Anrê là 34 dì.

C.CHA SỞ THỨ TÁM: CHA ROBERT KELLER
(1925 – 1963)

1. TIỂU SỬ:

Sau cha Anrê Miều là cha R.KELLER
Robert, Jacques KELLER sinh ngày 18 tháng 02 năm 1885 ở Soultz (Sulz) giáo phận Strasbourg, trong một gia đình công giáo đạo đức. Gia đình này đã dâng cho Hội Truyền Giáo Paris ba con trai là :Charles, Adolphe, và Robert.
Robert học tiểu học ở Soultz. Tháng 10/1899, Ngài bắt đầu học cấp hai ở học việc Thánh Maria, ở Belfort, và đã hoàn tất việc học ở đó vào tháng 07/1906.
Ngày 08/09/1906, Ngài vào chủng việc của Hội Truyền Giáo, ngày 20/09/1907, chịu chức cắt tóc. Ngày 27/09/1908, các chức nhỏ. Ngày 18/12/1909, chịu chức phụ phó tế. Ngày 12/03/1910 chịu chức phó tế. Ngày 24/09/1910, thụ phong linh mục (lúc 25 tuổi). Nhận nhiệm vụ ở Sài Gòn, Ngài đã đến vào ngày 11/12/1910. (sau 3 tháng lãnh chức linh mục).
Khi đến Đông Dương, Ngài gặp lại 2 người anh : Cha Charles, người anh cả đang làm việc trước đó một vài năm ở Cambốt. Còn cha Adolphe, anh kế thì trước đó 3 năm đã làm việc ở Sài Gòn. Người anh này đã bị sát hại ngày 02/01/1946 ở Cái Bè, và nơi này cha Adolphe đã xây một nhà thờ đẹp nhất Nam Kỳ.
Cha Charles Keller sinh ngày 03/10/1876, thụ phong linh mục ngày 24/06/1900, đi Cambốt ngày 25/07/1900. Năm 1902, về Cô co, Sóc Trăng. Năm 1921, quản trị Sóc Trăng, qua đời tại Sóc Trăng ngày 22/10/1953, thọ 77 tuổi.
Cha Adolphe Keller sinh ngày 24/12/1877, thụ phong linh mục ngày 22/06/1902, đến Việt Nam 30/07/1902. Sau khi học tiếng Việt, cha được nhận nhiệm sở Cái Bè. Năm 1930, bắt đầu xây nhà thờ. Ngày 24/12/1945 bị bắt dẫn đến đồng trồng cây cói và 2 tuần sau đó, bị sát hại ngày 02/01/1946, thọ 69 tuổi.
Ø Đức Giám Mục Mossard đưa nhà truyền giáo R.Keller đến Cái Mơn, họ đạo này có hơn 5000 tín hữu , để Ngài học tiếng Việt, và làm quen với phong tục tập quán xứ sở. Cha Robert đã sống ở đó năm 1911 và 1912.
Ø Năm 1912 – 1913 Ngài ở Phú Hiệp gần Cái Mơn
Ø Năm 1913 – 1914 Ngài đi đến Cấp St.Jacques (Vũng Tàu).
Ø Năm 1914 – 1916 Ngài phục vụ Cau – Ngan
Ø 1916 – 1919 Ngài phục vụ Mai Phốp, gần Bãi San.
Ø Năm 1919 – 1922 Ngài ở Cái Bè
Năm 1921 lúc 36 tuổi Ngài bị đau nặng, và đầu năm 1922 Ngài buộc phải trở về nước Pháp và ở đó hai năm. Ngày 31/12/1924, khi trở lại xứ truyền giáo, Ngài được chọn làm cha quản hạt và là cha sở họ Búng, lúc đó Ngài 39 tuổi. Họ đạo Búng là một họ tốt với 2000 tín hữu, cách Sài Gòn 24 km và Ngài ở lại Búng cho đến chết ngày 17/06/1963, thọ 78 tuổi.

2. CÔNG VIỆC MỤC VỤ:

a. THEO SỔ RỬA TỘI CÒN LƯU TẠI HỌ BÚNG

Cha Anrê Miều rửa tội cho Tôma Nguyễn Văn Đỏ ngày 17/02/1925. Cha Robert Keller bắt đầu rửa tội cho Anrê Nguyễn Văn Sáu ngày 28/02/1925.
Vậy cha R.Keller đã ở Búng từ tháng 02/1925 đến07/06/1963 (38 năm)

b. CHA R. KELLER XÂY CẤT RẤT NHIỀU

Ø Nhà thờ Bến Sắn bị hư hại trong thế chiến thứ hai.
Ø Nhà thờ Bà Trà xây cất năm 1941, nay (2008) vẫn còn. Năm 2009, cha Micae Hoàng Đô Đốc, MF, đã xây mới ngôi nhà thờ khác lớn hơn.
Ø Nhà thờ Long Cầu, bị sập trong chiến tranh
Ø Nhà thờ Bố Mua (Vĩnh Hòa)
Ø Tháp nhà thờ Bình Sơn
Ø Nhà thờ Búng đã được xây từ năm 1888.
Đến năm 1953, cha R. Keller cho sửa lại: Bỏ 2 hiên có mái lợp chung quanh nhà thờ, thay kính màu ở cửa sổ, làm trần nhà thờ bằng gỗ Bời Lời, gỗ Sao từ Bến Sắn đem về, và tô bên ngoài các lối đi ở giữa và bên nam nữ được lót gạch bong, ba bàn thờ trong nhà thờ được sửa chữa lại hoàn toàn.
Ngày 04/09/2005, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt, sứ thần Tòa Thánh tại Cộng Hòa Trung Phi và Tchad đã cung hiến nhà thờ và bàn thờ giáo xứ Búng.
v Tháp nhà thờ Búng là công trình được xây cất năm 1956 kiểu tháp được sao chép lại tháp chuông ở nhà thờ Cái Bè, nơi người anh của Ngài là cha Adolphe Keller đã phục vụ.
Toàn họ đạo kẻ của người công, chung sức làm việc, dưới sự chỉ huy của ông Phêrô Nguyễn Văn Vui (1902 – 1969)(Cha của ông Sướng, Sáng (Lung), các dì Sáu, Vân, Tùng, ông nội của Linh mục Giuse Nguyễn Công Danh , giáo phận Đà Lạt,). Tháp này cao 42 mét.
Trước đó tháp chuông bằng cây được dựng ở đất đài Thánh Quí bây giờ. Khi tháp xây xong, thì đưa 3 quả chuông về tháp mới ngày lễ Đức Giêsu là Vua (theo lời một thợ xây tháp kể lại). Khi xây tháp, ÔNG Phêrô Nguyễn Văn Chấn (hai Chấn, nhà ở trước nhà thờ) là thợ đang ở trên cao (khoảng 20 mét) ngồi trên tấm ván để cột kẽm thì một cái ky hồ rớt trúng xuống, ông bật ngữa ra sau, và may thay có một cái cây ở sau lưng chịu ông lại….và sau đó ông trèo xuống đất!.
v Đài Thánh Quí:
Sau những tháng xây cất thì dựng tượng Thánh Quí. Tượng Thánh Quí được xe cẩu đưa lên theo chiều thẳng đứng và để ngay trên bệ xây sẵn. Phía sau lưng bức tượng có một khoảng trống, để các thợ hồ đem gạch thẻ chất vào trong bức tượng.
Ngày 17/02/1960, Đức Giám Mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, ở Sài Gòn đã làm phép tượng Thánh Phêrô Đoàn Công Quí, có đông các linh mục và giáo dân đến dự lễ tôn vinh Thánh Quí, người linh mục đầu tiên của họ đạo Búng đã anh dũng hi sinh (1826 – 31/07/1859).
v Hang núi Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes):

Cũng do cha R. Keller xây cất nhưng không rõ năm nào.

v Nhà các dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm :
Theo tài liệu của hội Dòng, khi nói về ‘BÚNG’ có ghi như sau : ‘Trong khoảng thời gian cha R. Keller coi sóc họ đạo Búng, đã có rất nhiều chị em luân phiên nhau đến cộng đoàn Búng phục vụ….Chính cha đã giúp xây ngôi nhà gạch, mái ngói mà các chị đang ở hiện nay.’
Lưu ý : Mái lợp ngói móc, gạch thẻ xây tường dầy 20 cm, nhà cao ráo, rất mát mẻ. Ngày 13/07/2006 Hội Dòng đã cất một ngôi nhà khác hiện đại hơn, thay cho ngôi nhà do cha Keller cho xây..

c. CÔNG VIỆC KHÁC :

Bên hông nhà thờ Búng trước năm 1945 có một ngôi nhà làm mủ cao su. Nhà này bị đốt cháy vào năm 1946, nay không còn.
Cha R. Keller đã trồng xung quanh nhà thờ nhưng cây sao. Đến nay (2007)còn lác đác một vài cây.
Đất đai nhà thờ cũng nhiều. Cha cho giáo dân ở để qui tụ họ lại dễ dàng cho công việc mục vụ. Sát cạnh nhà thờ, ở mỗi bên cũng có ba nhà giáo dân ở.

d. ĐÀO TẠO CON NGƯỜI :

[IMG]file:///C:/DOCUME~1/(-_-)A~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Đào tạo thiếu nhi :

v Việc đạo đức

Các thiếu nhi trong họ đạo phải học giáo lý Rước Lễ lần đầu, Thêm Sức và Bao Đồng. Việc này do các dì Mến Thánh Giá Thủ Thiêm phụ trách.
Mỗi ngày chỉ có một thánh lễ vào buổi sáng, nên các học trò từ lớp năm đến lớp nhất (bây giờ từ lớp một đến lớp năm) sau khi tan học ban chiều thì vào nhà thờ đọc kinh, viếng thánh thể.
Các thiếu nhi trong thời kỳ này siêng năng dự lễ, nhờ các dì khuyên bảo và hướng dẫn là chính yếu.

v Việc học vấn :

Có hai ngôi trường :
Một gần nhà các dì, một ở gần nhà cha sở. Các con em trong họ đạo được dạy học cấp tiểu học từ lớp năm đến lớp nhất. Các dì rất nhiệt thành lo cho các em. Theo thống kê của hội dòng, 38 năm cha sở Keller ở họ Búng. Hội Dòng đã gửi 87 dì và cô của hội dòng đến đây, để dạy đạo và dạy học.
Đào tạo ơn kêu gọi :
Họ đạo có truyền thống đạo đức tốt, do được các dì hướng dẫn từ nhỏ, nên có nhiều ơn gọi trong số các thiếu nhi nam cũng như nữ.
Nói riêng về các linh mục được thụ phong trong thời cha R. Keller là 12 linh mục và sau khi cha Keller mất thì lại trổ hoa linh mục thêm 5 người nữa.
về số nữ tu, có lẽ cũng trên 100 người.

Nguồn:http://vn.360plus.yahoo.com/giaoxubu...v=792&next=787