Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Chủ đề: Thảo kính cha mẹ trong ngày tết

Threaded View

  1. #3
    nguyễn văn xuân's Avatar

    Tham gia ngày: May 2009
    Tên Thánh: Micae
    Giới tính: Nam
    Đến từ: TP Hồ Chí Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 325
    Cám ơn
    1,298
    Được cám ơn 2,223 lần trong 308 bài viết

    Default Thảo kính cha mẹ

    DÂNG TÌNH MẸ CHA
    Sáng tác: Nguyễn Văn Xuân - CS Thụy Nhiên

    Audio player

    --->DOWNLOAD<---

    Lược truyện 24 hiếu tử
    Trong: NHỊ THẬP TỨ HIẾU
    của tác giả: Lý Văn Phức


    1.- NGU THUẤN
    Vua Thuấn họ Diêu, tên hiệu là Thuấn, quốc hiệu là Đại Ngu, cha là Cổ Tẩu, (có mắt cũng như mù, vì không biết kẻ hay người dở, người đời bấy giờ mới tặng cho tên là Cổ Tẩu), mẹ đẻ mất sớm, mẹ kế là người ương gàn, em (cùng cha khác mẹ) là Tượng, tính lại hỗn xược, cha và mẹ kế cùng em ngày ngày chỉ kiếm cách để giết ngài đi; nhưng ngài vẫn một lòng trên hiếu với cha mẹ, dưới hòa cùng em, lòng hiếu cảm động đến trời, như khi cha ngài bắt ngài cày ruộng một mình ở núi Lịch Sơn, thì voi về cày ruộng, chim về nhặt cỏ. Khi sai ngài dánh cá ở hồ Lôi Trạch thì gió lặng sóng yên. Vua Nghiêu nghe tiếng, gọi gả hai con gái cho ngài và truyền ngôi cho ngài. Khi ngài làm vua, trong 18 năm chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam Phong mà thiên Hạ rất thái bình thịnh trị .

    2.- VĂN ĐẾ
    Vua Văn Đế nhà Hán, tên là Hằng, con thứ vua Hán Cao Tổ, em vua Huệ Đế, mẹ là Bạc Hậu (vợ lẽ vua Hán Cao Tổ), trước phong là Đại Vương, tức là thân vương ở đất Đại bên ngoài, tính rất hiếu, sau Huệ Đế chết không có con nối nghiệp, các quan trong triều đón ngài về làm vua. Khi ngài đã làm vua rồi, Bạc Hậu bị ốm trong ba năm trời, ngài lúc nào cũng đóng mũ áo đai cân đứng hầu mẹ, thức suốt đêm không dám ngủ, thuốc thang dâng đến, ngài tự nếm trước rồi mới dâng cho mẹ xơi, vì sợ có thuốc độc. Dân gian thấy ngài hiếu thảo như thế, ai cũng bắt chước, mọi người đều hiếu thảo cả, thiên hạ rất thịnh trị, không kém gì đời tam đại (nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu) ngày xưa.

    3.- TĂNG TỬ
    Tăng Tử tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ấp Vũ Thành nước Lỗ, sinh vào thời Xuân Thu, là học trò vào bậc giỏi của đức Khổng Tử, sau được liệt vào bậc tứ phối (bốn ông phối hưởng với đức Khổng Tử). Ông thờ cha mẹ rất hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai, thì ông vâng theo lời mà cho người ấy. Một hôm ông đi vào rừng kiếm củi vắng, ở nhà có khách đến chơi, mẹ ông không biết làm thế nào cho ông về ngay, bèn cắn ngón tay mình, để cho động lòng con, quả nhiên ông ở trong rừng thấy quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi về ngay.

    4.- MẪN TỬ KHIÊN
    Tên chữ là Tổn, sinh vào đời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, mẹ ông mất sớm, cha ông lấy người vợ sau (tức là mẹ kế) sinh được hai con. Mẹ kế đối với ông rất cay nghiệt, nhưng ông vẫn thờ cha và thờ mẹ kế rất hiếu . Mùa rét, mẹ kế cho hai con mình mặc áo bông dày, cho ông mặc áo bằng hoa lau, chứ không có bông. Ông tuy thấy không đủ ấm, nhưng kgông hề nói gì. Một hôm ông đẩy xe cho cha đi chơi, vì rét quá cóng tay, rời tay xe ra. Cha ông suy xét mãi mới biết là ông bị mẹ kế để cho mặc rét, cha ông tức lắm định đuổi ngay người vợ kế đi, ông khóc và cố kêu van với cha, xin đừng đuổi mẹ kế, vì rằng: có mẹ kế thì chỉ một mình ông bị rét thôi, nếu đuổi mẹ kế đi thì cả ba anh em ông cùng phải khổ sở cả. Cha ông nghe lời ông không bỏ người vợ kế nữa. Người mẹ kế nghe biết chuyện, về sau đối đãi với ông rất tốt, thành ra một người mẹ hiền.

    5.- TỬ LỘ
    Tử Lộ tên là Trọng Do, người ấp Biện, nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò đức Khổng Tử. Thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, thường phải đi đội gạo đường xa trăm dặm về nuôi cha mẹ; bữa ăn không có thức ăn, phải ra vườn hái rau dền, rau muống về nấu canh cho cha mẹ ăn. Sau cha mẹ ông chết cả, ông mới đi sang nước Sở, được vua nước Sở dùng, cho làm quan sang, bổng lộc nhiều. Nghĩ đến công cha mẹ, ông lấy làm đau tủi, muốn lại được đi đội gạo và nấu canh rau để phụng dưỡng cha mẹ, thì không được nữa.

    6.- DIỄM TỬ
    Diễm Tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ rất hiếu; cha mẹ tuổi già, mắt lòa, thèm uống sữa hươu, Diễm Tử lấy da hươu khô là áo mặc, giả làm hươu con, vào rừng lân la đến gần những con hươu mẹ để vắt lấy sữa. Một hôm gặp bọn người đi săn, tưởng là hươu con, dương cung toan bắn, Diễm Tử vội bỏ lốt hươu con ra và bày tỏ cho người đi săn biết, người ấy mới thôi không bắn nữa.

    7.- LÃO LAI TỬ
    Lão Lai Tử người nước Sở, sinh vào đời Xuân Thu, đã 70 tuổi hãy còn cha mẹ. Ông thờ cha mẹ rất hiếu. Không muốn để cho cha mẹ thấy ông đã già mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, nhởn nhơ múa hát trước mặt cha mẹ, lại có khi ông bưng nước hầu cha mẹ, ông giả cách ngã, rồi khóc oa oa, làm như đứa trẻ lên 7 lên 3 vậy. Ý ông là cốt để làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng.

    8.- ĐỔNG VĨNH
    Đổng Vĩnh sinh vào đời Hậu Hán, nhà nghèo, tính rất hiếu, cha chết không có tiền chôn cất, phải đến một nhà giàu ở làng khác, vay tiền công dệt non, hẹn sau sẽ dệt trả 300 tấm lụa. Khi vay được tiền về chôn cất cha xong rồi, định đi đến nhà giàu để dệt trả lụa, đi được nửa đường, thì gặp một người con gái xin kết làm vợ chồng, nhưng giao hẹn hãy cùng đi đến nhà giàu kia dệt lụa trả nợ đã, rồi mới về ăn ở cùng nhau. Khi đã dệt đủ 300 tấm lụa, trả nợ xong rồi, hai người cùng về, đến chỗ gặp nhau khi trước, thì người con gái ấy biến mất. Vì Đổng Vĩnh có lòng hiếu thảo cảm động đến trời. nên Trời sai tiên nữ xuống giúp.

    9.- QUÁCH CỰ
    Quách Cự sinh vào đời nhà Hán, cửa nhà sa sút, thờ mẹ rất hiếu. Hai vợ chồng mới sinh được một đứa con lên 3 tuổi, ông thường thấy bữa ăn mẹ ông không dám ăn no, cứ bớt lại để phần cho con mình ăn, vợ chồng bàn nhau rằng : vợ chồng mình đương thì sinh đẻ, mẹ già chỉ có một lần, đã chẳng phụng dưỡng mẹ được sung túc, lại để cho con mình xẻ ngọt chia bùi của mẹ, thì không phải đạo. Bèn bàn nhau đào hố đem chôn đứa con đi; vợ cũng nghe theo lời ông. Khi đào hố mới được đâu độ 3 thước, thì thấy có một hũ vàng, trên có chữ đề là: "hiếu tử Quách Cự, hoàng kim nhất hũ, dụng dĩ tứ nhữ". Nghĩa là: "người con hiếu là Quách Cự, một hũ vàng đây để cho mày ". Hai vợ chồng lại đem con về.

    10.- KHƯƠNG THI
    Khương Thi sinh vào đời nhà Hán, vợ là Bàng thị; hai vợ chồng đều hiếu thảo cả. Mẹ chồng muốn uống nước sông, Bàng thị hàng ngày đi gánh nước ở sông xa về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố đi tìm kiếm cho được đủ thứ đem về. Lại sợ mẹ có một mình buồn, thường thường mời các bà già ở hàng xóm sang chơi với mẹ cho vui. Sau tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra, đúng như vị nước sông và ở suối ấy hàng ngày lại có hai con cá chép, đủ dùng làm gỏi ghém. Từ đấy vợ chồng không phải đi quảy nước sông và đi kiếm cá nữa.

    11.- THÁI THUẬN
    Thái Thuận sinh vào đời nhà Hán, nhà nghèo, mồ côi cha từ thủa bé, thờ mẹ rất có hiếu. Bị năm loạn lạc kém đói, phải đi vào rừng tìm kiếm những quả dâu chín đem về ăn cho đỡ đói. Tìm được quả nào chín đem để ra một bên. Gặp người tướng giặc Xích My đi qua, trông thấy hỏi: "Vì cớ gì để làm hai nơi như thế?" Ông trả lời: "Quả nào chín đen thì ngọt, để riêng để biếu mẹ tôi, còn quả nào đỏ thì chua, để riêng tôi ăn". Người tướng giặc khen là có hiếu, bèn truyền quân lấy ra một thúng gạo và một cái đùi trâu để tặng ông.

    12.- ĐINH LAN
    Đinh Lan sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ lúc bé, đến khi lớn lên, nhớ ơn cha mẹ thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để phụng thờ, ngày thì dâng hai bữa cơm, tối thì sửa soạn chăn gối, hầu hạ chăm nom như lúc cha mẹ còn sống vậy. Phụng thờ như thế hằng mấy mươi năm, sau người vợ ông sinh ra nản lòng, có một hôm người vợ lấy kim châm vào kẽ tay tượng gỗ, tức thì có máu tươi chảy ra. Đến bữa cơm, ông bưng cơm vào cúng, thấy tượng gỗ rớm rớm nước mắt, ông xét kỹ mới biết là vì vợ ông châm kim vào tay tượng gỗ, ông tức thì đuổi bỏ ngay người vợ ấy đi.

    13.- LỤC TÍCH
    Lục Tích sinh vào đời Đông Hán, mới lên 6 tuổi, đã biết hiếu thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu giang với Viên Thuật; Thuật làm tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy dấu 2 quả bỏ vào tay áo, khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao lấy quít dấu như thế?" Tích trả lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân thấy quít ngon, dấu đi vài quả đem về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người có hiếu.

    14.- GIANG CÁCH
    Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn lạc, cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau, nay bị bắt đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ bì, rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn lạc.

    15.- HOÀNG HƯƠNG
    Hoàng Hương sinh vào đời Đông Hán, năm lên chín tuổi mẹ chết, thương khóc thảm thiết, trong làng ai cũng khen là người có hiếu. Ở với cha, sớm khuya hầu hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì nằm ủ vào chăn chiếu của cha để lấy hơi nóng của mình vào chăn chiếu cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng, vì thế cha lúc nào cũng được vui vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa hè. Quan thái thú quận ấy thấy Hương là người hiếu thảo, làm sớ tâu lên vua Hán ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người con hiếu hạnh.

    16.- VƯƠNG THÔI
    Vương Thôi người nước Ngụy (đời Tam quốc) cha ông làm quan triều Ngụy, sau Tây Tấn diệt Ngụy, thống nhất thiên hạ, cha ông bị Tây Tấn giết hại, ông thương xót quá, phục ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước mắt của ông chảy ra thấm xuống gốc cây trắc bên mồ tươi lại. Cả đời ông không bao giờ ngồi ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây Tấn ở về phương tây ), để tỏ ý ông không làm tôi nhà Tây Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra áp mồ và khấn rằng: "Có con ở đây rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây Tấn thường mời ra làm quan, ông nhất định không chịu ra, ở nhà mở trường dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho học trò, đến thiên Lục Nga trong Kinh Thi có câu rằng : "phụ hề sinh ngã" thì ông lại thương cha chảy nước mắt khóc. Vì thế, học trò cũng cảm động, bỏ thiên Lục Nga không dám đọc đến nữa,

    17.- NGÔ MÃNH
    Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên 8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt không ngủ được, ông cởi trần nằm cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ chăng?

    18.- VƯƠNG TƯỜNG
    Vương Tường sinh vào đời nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xui dục, làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên váng nước, để tìm cá, bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu thảo như thế, sau cha và mẹ kế ông cảm động, lại yêu quý ông lắm.

    19.- DƯƠNG HƯƠNG
    Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu, cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy sổ đến định vồ cha ông, ông tay không, quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự cả.

    20.- MẠNH TÔNG
    Mạnh Tông người ở Giang Hạ, về đời Tam Quốc, mồ côi cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm được măng, ông lần vào rừng tre, một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy giò măng mọc ở dưới đất lên, ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi mẹ khỏi ốm.

    21.- SƯU KIM LÂU
    Kim Lâu người nước Tề, tính rất hiếu, được bổ làm thái thú ở quận Bình Lăng, đến nhận chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy ra như tắm, ông biết là ở nhà có việc chẳng lành, bèn từ chức về quê ; khi về đến nhà thì cha bị ốm đã hai ngày, ông thấy thầy thuốc nói rằng: "Những người ốm mà phân đắng thì dễ chữa, không đáng lo ngại, người nào ốm mà phân ngọt, ông lấy làm lo ngại, cứ đêm đêm ba lần đốt hương hướng về sao Bắc Đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha. Sau nằm thấy có người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: "Sắc trời cho bình an". Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi.

    22.- THÔI PHỤ ĐƯỜNG THỊ
    Đường thị là vợ một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không nhai được cơm. Đường thị cứ hàng ngày tắm rửa sạch sẽ, rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm mà cũng no. Cảm ơn ấy mẹ chồng không biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với trời xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng được hiếu thảo như Đường thị cả. Rồi sau các con cháu dâu nhà họ Thôi bắt chước nhau người nào cũng hiếu thuận. Vì thế, nhà họ Thôi được hưng thịnh.

    23.- CHU THỌ XƯƠNG
    Chu Thọ Xương sinh vào đời nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông lên bảy tuổi, thì mẹ đích ông đuổi mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình được sung sướng, để mẹ đẻ lưu lạc trong lòng không đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông có thề rằng: "Nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng Châu thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã 50 năm nay lại được gặp nhau, rất là vui vẻ, ông bèn đem mẹ về phụng dưỡng.

    24.- HOÀNG ĐÌNH KIÊN
    Hoàng đình Kiên sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái sử (quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy tớ hầu hạ nhưng các đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà lau rửa bao giờ cả.


  2. Được cám ơn bởi:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com