|
11/02
Hãy mở ra!
Thứ Sáu Tuần thứ 5 Thường Niên
Lời Chúa:
Mc 7,31-37
31Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. 32Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. 33Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. 34Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Épphatha", nghĩa là: hãy mở ra! 35Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. 37Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
Suy niệm:
Thường thường đã bị điếc thì cũng bị câm, vì người điếc khi mới sinh ra không được nghe tiếng người khác nói cho nên không bắt chước, nên không nói được gì. Nhưng theo bản dịch LXX nguyên chữ Hy Lạp dùng chữ Mogilaon: câm thôi. Về sau bản dịch phổ thông dịch là câm và điếc. Thật ra chữ Molilalon không có nghĩa là câm hẳn, nhưng là khó nói, nói ngọng. Đúng với c.35 “Nút cột lưỡi liền tuột ra và người ấy liền nói được rành rọt.”
Dù sao thì câm và ngọng cũng mất đi nhiều hạnh phúc cho cuộc đời. Hiểu như thế, thân nhân đã đem anh ta tới gặp Chúa và xin Chúa đặt tay trên anh ta. Đặt tay là dấu chúc lành như thói tục Israel (St 18,14) và đó cũng là dấu Chúa hay làm khi chữa bệnh hay chúc lành cho trẻ em (Mc 6,5-8, 23-25). Lời cầu xin được Chúa chấp nhận. Có điều đặc biệt trong phép lạ này là Chúa kéo nạn nhân ra khỏi dân chúng và Chúa dùng nước miếng để chữa bệnh.
Tại sao Chúa lại đưa ra như thế? Có hai lý do:
1. Để tránh sự tò mò háo hức, tình cảm nồng nhiệt nhất thời của dân chúng, chỉ muốn xem sự kỳ lạ mà không muốn mở rộng con mắt đức tin. Thật ra cũng có những phép lạ Chúa làm trước công chúng, thí dụ bánh hoá nhiều (Mt 14,13t), người bại tay (Mc 3,1-6). Chúa chỉ làm phép lạ khi có lợi cho đức tin và ơn cứu rỗi cho nhiều người hoặc để sửa soạn lòng tin cho lương dân. Ngoài ra có những trường hợp Chúa làm phép lạ cho một số người mà thôi. Chẳng hạn khi cho con của Giairô sống lại (Mc 3,37) thì chì có năm nhân chứng là 3 môn đệ, hai cha mẹ. Khi chữa bệnh cho người mù thành Betsaida. Chúa cũng đưa ra xa xa với một số nhân chứng thôi. Lý do là củng cố lòng tin của người hiện diện trong phép lạ đó.
2. Để tránh những tiếng rỉ tai đồn thổi có hại khi họ thấy những cử chỉ bên ngoài họ có thể cắt nghĩa là phù phép bùa chú. Nên tránh xa họ. Thật ra những cử chỉ bên ngoài Chúa dùng để chỉ những thúc đẩy bên trong cần phải đủ. Đối với người câm và ngọng này, còn cách nào hơn là chạm vào tai anh ta và Chúa dùng chút nước bọt chạm vào lưỡi anh ta nữa.
Tại sao Chúa lại dùng nước bọt để chữa bệnh, là thứ mà những thầy Babbin tối kỵ như có ghi trong lề luật rằng là khi chữa bệnh cấm đọc lời nào trầm trầm và nước miếng cấm dùng. Những người ngoại giáo coi đó là thứ quỉ thuật. Riêng trong y học, nước bọt là một thứ nước vị toan do hạch nước miếng tiết ra cho đồ ăn dễ tiêu hóa và dễ xuôi. Nước bọt có thể làm bớt sưng mụn nhọt. Nước miếng trẻ con cắn nhau còn có thể làm độc, cho nên việc dùng nước bọt không phải là một vị thuốc xét theo y học.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã dùng nó để xóa bỏ quan niệm coi khinh nước miếng; về phía dân Do Thái coi là lỗi luật. Nước bọt không xấu đến nỗi bị cấm đoán như thế. Nếu như xưa kia Chúa đã dùng nước biến ra rượu thì việc Chúa dùng nước miếng để làm phép lạ có gì là khó, và không có gì là mất vệ sinh với Thiên Chúa Đấng dựng nên mọi sự đều tốt lành. Nếu như Thiên Chúa có thể đổi sự dữ thành sự lành thì Ngài có thể dùng một hành động như thế để tăng cường lòng tin còn thiếu sót. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết được đường lối của Thiên Chúa đâu.
Việc Chúa chữa bệnh hôm nay là một phép lạ chữa được câm điếc. Nhưng đó cũng là một dấu chỉ Thiên Chúa uy quyền toàn năng. Chúa Giêsu đã để lại trong Giáo Hội Ngài một số cử chỉ còn được dùng trong Bí tích Rửa tội.
- Phép rửa tội mở tai người dự tòng để được nghe và hiểu lời Thiên Chúa.
- Phép Rửa tội cởi lưỡi người dự tòng, để từ đó tuyên xưng đức tin rao truyền Phúc Âm.
Chúng ta đã được qua rửa tội là để nghe và thực hành Lời Chúa, làm chứng cho Lời Chúa trong cuộc đời mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thương ngự đến linh hồn chúng con. Xin Chúa cũng mang ơn thánh nâng đỡ và chữa lành hồn xác chúng con. Xin quyền năng Chúa mở tai chúng con để có thể nghe được tiếng Chúa. Xin mở miệng chúng con để có thể ca khen danh Chúa. Xin mở mắt chúng con để có thể thấy những mảnh đời bất hạnh mà cảm thông nâng đỡ. Xin hãy mở tay chúng con để có thể đón nhận nhau trong yêu thương chân thành.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con khả năng biết yêu thương đồng loại. Xin đừng để chúng con giả điếc làm ngơ trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Xin đừng để chúng con mù quáng trước nỗi đau của anh em. Xin giúp chúng con biết làm vơi đi những khổ đau cho anh em. Cuộc đời quanh chúng con còn biết bao nỗi thống khổ tột cùng, xin cho có nhiều người mang trái tim của Chúa để xoa dịu những thương đau.
Lạy Chúa, Chúa là vị lương y từ mẫu. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết lắng nghe và an ủi nhau, biết chạnh lòng thương và chia sẻ những đau thương vất vả trên đường đời. Xin giúp chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen
http://tgpsaigon.net
__________________________________
11 Tháng Hai
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Vào ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11 tháng Hai 1858, một trinh nữ đã hiện ra với Bernadette Soubirous, mở đầu cho một chuỗi thị khải. Trong lần hiện ra ngày 24 tháng Ba, trinh nữ này tự xưng là: "Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội."
Bernadette là một thiếu nữ yếu ớt, con của hai ông bà người nghèo và không có tham vọng. Việc sống đạo của họ cũng không có gì đáng nói. Bernadette chỉ biết đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và kinh Tin Kính. Cô còn biết đọc kinh cầu Linh Ảnh(*): "Ôi Ðức Maria được thụ thai mà không mắc tội."
Trong những lần phỏng vấn, Bernadette cho biết những gì cô được nhìn thấy. Cô cho biết "cái gì đó mầu trắng trong hình dạng một thiếu nữ." Cô dùng chữ "Aquero," tiếng địa phương có nghĩa "cái này." Ðó là "một thiếu nữ xinh đẹp với chuỗi tràng hạt trên tay." Áo choàng trắng của ngài có viền xanh. Ngài đội khăn trắng. Trên mỗi bàn chân đều có hoa hồng màu vàng. Bernadette cũng ngạc nhiên ở sự kiện là trinh nữ này không gọi cô với danh xưng bình dân "tu", nhưng với ngôn từ rất lịch thiệp "vous". Người trinh nữ khiêm tốn ấy hiện ra với một cô gái bình dân và đã đối xử với cô như một người có phẩm giá.
Qua một cô gái bình dân, Ðức Maria đã làm hồi sinh và tiếp tục làm sống dậy đức tin của hàng triệu người. Dân chúng bắt đầu đổ về Lộ Ðức từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như toàn thế giới. Vào năm 1862, giới thẩm quyền Giáo Hội công nhận tính cách xác thực của những lần hiện ra và cho phép sùng kính Ðức Mẹ Lộ Ðức. Năm 1907, lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức được cử mừng khắp hoàn vũ.
Lời Bàn
Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhưng nhất là đức tin. Giới thẩm quyền của Giáo Hội công nhận 64 phép lạ chữa lành, mặc dù trên thực tế có lẽ nhiều hơn thế. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.
Nhiều người cho rằng các phép lạ lớn lao hơn thì rất bàng bạc. Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim "Song of Bernadette": "Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ."
Trích từ NguoiTinHuu.com
________________________________________
Ðức Mẹ Lộ Ðức
Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện
Trích sách Lẽ Sống |
|