Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 27 trên 27

Chủ đề: SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 04/2011

  1. #1
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 04/2011

    01/04

    Giới răn trọng nhất


    Thứ Sáu tuần Thứ 3 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Mc 12,28-34


    28Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?" 29Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." 32Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." 34Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.


    Suy niệm:
    Sau thế chiến thứ nhất 1914-1918 và chiến thứ hai 1939-1945, nhân loại đã rất lo sợ chiến tranh, và mong ước có một thế giới hoà bình, yêu thương. Người đã tạo ra những hội khác nhau, như Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, để kiểm soát và ngăn ngừa thế chiến thứ ba, vì nếu thứ chiến thứ ba xảy ra, thì với những vũ khí tối tân, qui mô chắc chắn nhân loại sẽ bị huỷ diệt. Người ta kêu gọi hoà bình khắp nơi trên thế giới. Tôn giáo cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoà bình.
    Trong Tin Mừng hôm nay, một Luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều nào trọng hơn cả. Chúa Giêsu đã trả lời: "Giới răn trọng nhất là người hãy yêu mến Chúa hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn." Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chúa tể vũ trụ, cho nên không được tôn thờ một Chúa nào khác. Ngài là Chúa hay ghen, nghĩa là không chấp nhận chia sẻ tình cảm cho bất cứ một ai khác. "Không ai có thể làm tôi hai chủ, và họ sẽ yêu chủ này và ghét chủ kia." Và ngược lại. Ngài đòi hỏi một sự trung thành trong tình yêu đối với Ngài.
    Giới răn thứ hai, đó là "Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi." Chúng ta tin Chúa ngự trong tâm hồn và chúng ta tuân giữ giới răn thứ nhất là yêu mến Ngài trên hết mọi sự, thì cũng phải giữ giới răn thứ hai vì có Chúa ở trong mọi người. Kinh Thánh đã xác định với ta: nếu nói mình mến Chúa mà không yêu anh em, thì đó là kẻ nói dối.
    Tất cả chúng ta đều thuộc mười giới răn Thiên Chúa được gồm tóm trong hai điều này là mến chúa và yêu người. Mười giới răn Thiên Chúa ban cho con người qua Môsê trên núi Sinai tóm trong hai ý đó, và hôm nay được Chúa Giêsu lặp lại qua hai câu đáp trả cho người Luật sĩ. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, mỗi ngày trở thành anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời hơn. Ở đây tác giả tập sách Đường hy vọng nhắn nhủ như sau:
    "Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của Thiên Thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp những phiền phức, những thách thức đòi buộc lòng bác ái của chúng ta phải mở rộng ra. Bác ái không có biên giới, nếu có biên giới thì không còn gọi là bác ái nữa. Chúng ta cần có một con tim mở rộng như Chúa để có thể yêu thương như Ngài và với Ngài"
    Đây là giới răn hết sức ngắn gọn. Tôi xin được trao cho bạn:
    Đó là HÃY YÊU THƯƠNG,
    Rồi bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn.
    Nếu bạn cần thinh lặng, hãy thinh lặng vì yêu thương.
    Nếu bạn phải nói, hãy nói vì yêu thương.
    Nếu bạn sắp khiển trách một ai đó, hãy khiển trách vì yêu thương.
    Nếu bạn muốn tha thứ, hãy tha thứ vì yêu thương.
    Bạn hãy luôn giữ trong tim cội rễ yêu thương,
    Vì những điều tốt đẹp chỉ mọc lên từ cội rễ yêu thương...”
    Thánh Augustino, Tiến Sĩ Hội Thánh.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan đã diễn tả thật ngắn ngọn về Chúa: Chúa là tình yêu. Vì yêu nhân loại, nên Chúa đã chẳng nề gian lao vất vả. Đau khổ đắng cay. Dầm mưa giãi nắng. Yêu thương và phục vụ là biểu tượng của Chúa. Từ trẻ nhỏ đến cụ già. Từ người giầu đến người nghèo. Từ kẻ quyền thế đến kẻ thấp hèn. Chúa đều thi ân giáng phúc.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con mỗi lần được kết hiệp với Chúa qua Bí tích Thánh Thể là một lần chúng con cũng trở nên giống Chúa hơn. Giống Chúa trong yêu thương, phục vụ. Giống Chúa trong cách nghĩ và cách làm. Xin cho chúng con trong đời sống hằng ngày luôn biết từ bỏ cái tôi ích kỷ để mở rộng tâm hồn đến với tha nhân. Xin cho chúng con không chỉ trao tặng nhau lời nói, ánh mắt cảm thông mà còn cả cuộc sống sẵn sàng phục vụ quên mình. Xin cho chúng con luôn quảng đại, yêu thương và phục vụ tha nhân với tất cả nhiệt tình và khả năng mà Chúa đã ban cho chúng con. Xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng con luôn trung tín với giới luật yêu thương của Chúa là mến Chúa và yêu người.
    Lạy Chúa là nguồn mạch tình yêu, xin cho chúng con được tắm mát trong lòng thương xót của Chúa, và xin giúp chúng con cũng biết trao ban tình yêu đó cho anh em. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    __________________________


    Tu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà
    Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con

    Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
    Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
    Ði được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
    Dương Phủ hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy".
    Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật mà vị lão tăng đã mô tả.
    Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
    Thứ nhất thì tu tại gia
    Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
    Tu đâu cho bằng tu nhà
    Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
    Ðể yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
    Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
    Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  2. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  3. #2
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    02/04

    Chìa khoá của tự do


    Thứ Bảy tuần Thứ 3 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Lc 18,9-14

    9Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: 10"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." 14Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."


    Suy niệm:
    Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau: Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui dịnh của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: "Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được." Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát của ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên họa đồ chi tiết của nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa thành những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn khỏi nhà tù.
    Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: Một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng cầu nguyện, còn người thu thuế không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
    Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tin thác ấy sẽ xóa tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
    Như con người hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, mùa chay luôn mời gọi chúng con trở về với Chúa. Trở về để sống trong ân sủng và tình thương của Chúa. Chúa mời gọi chúng con đừng đi vào con đường tội lỗi. Đó là con đường dẫn đến cái chết không chỉ ở đời này mà cả đời sau. Xin giúp chúng con biết thành tâm sám hối tội lỗi của mình, biết dâng lên Chúa quá khứ tội lỗi của chúng con. Xin Chúa hãy mặc cho chúng con chiếc áo ân sủng của Chúa để loại trừ những tính hư nết xấu trong con người cũ chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, có lẽ Chúa cũng rất đau khổ khi nhìn thấy những gì đang diễn ra trong thế giới quanh con. Một thế giới mà Chúa đã tạo dựng từ ban đầu đều tốt đẹp. Thế mà, ngày nay đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi tội lỗi chúng con. Chúa rất buồn vì đời sống thiếu nhân cách, thiếu tình người của nhân loại chúng con. Ngay cả bản thân chúng con, có lẽ Chúa cũng rất buồn vì những lần chúng con đã lạc xa tình Chúa. Chúng con đã buông mình theo những đam mê xác thịt bất chính, chúng con đã để lòng trí mình xuôi theo những tư tưởng, những toan tính tội lỗi. Xin Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, xin thương tha thứ cho tội lỗi chúng con.
    Lạy Chúa, Chúa là tình yêu, là sự tha thứ và khoan dung. Xin tha thứ cho những yếu đuối của chúng con. Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    ___________________________


    Thánh Phanxicô ở Paola
    (1416-1507)


    Thánh Phanxicô ở Paola là một người chân thành yêu quý sự chiêm niệm cô độc và ao ước duy nhất của ngài là trở nên "người thấp hèn nhất trong nhà Chúa." Tuy nhiên, khi Giáo Hội kêu gọi ngài làm việc phục vụ xã hội, ngài đã trở nên một nhà hoạt động phi thường và có ảnh hưởng đến đường hướng của nhiều quốc gia.

    Sau khi tháp tùng cha mẹ trong chuyến hành hương đến Rôma và Assisi, Phanxicô bắt đầu cuộc sống ẩn tu trong một cái hang hẻo lánh ở ven biển gần Paola. Trước khi ngài 20 tuổi, đã có một môn đệ đầu tiên muốn theo lối sống của ngài. Mười bảy năm sau, khi số môn sinh ngày càng gia tăng, Phanxicô đặt ra một quy luật cho cộng đoàn khắc khổ của ngài và xin Giáo Hội chuẩn nhận. Từ đó phát sinh tổ chức các Ẩn Tu của Thánh Phanxicô Assisi, được Toà Thánh chấp thuận năm 1474.


    Vào năm 1492, Phanxicô đổi tên cộng đoàn thành "Minims" vì ngài muốn họ trở nên những người bé mọn nhất trong nhà Chúa. Sự khiêm tốn là tiêu chuẩn của các tu sĩ này cũng như cuộc đời của Phanxicô. Ngoài các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, Phanxicô còn thêm một bó buộc thứ tư là luôn luôn ăn chay. Ngài tin rằng sự hãm mình quyết liệt rất cần thiết để phát triển tâm linh.

    Ðó là ý muốn của Phanxicô khi trở nên một vị ẩn tu chiêm niệm, nhưng ngài tin rằng Thiên Chúa đã gọi ngài trong đời sống tông đồ. Ngài bắt đầu dùng các ơn sủng được Chúa ban, tỉ như ơn làm phép lạ và nói tiên tri, để giúp đỡ dân Chúa. Là một người bảo vệ người nghèo và người bị áp bức, Phanxicô chọc giận vua Ferdinand của Naples vì ngài khiển trách cả hoàng gia.

    Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng Sixtus IV, Phanxicô đến Pháp để giúp vua Louis XI chuẩn bị từ trần. Trong thời gian giúp đỡ nhà vua, Phanxicô đã có cơ hội ảnh hưởng đến chiều hướng chính trị của quốc gia này. Ngài giúp vãn hồi nền hoà bình giữa Pháp và Anh qua sự khuyến khích cuộc hôn nhân giữa hai hoàng tộc, và giữa Pháp và Tây Ban Nha bằng cách thúc giục vua Louis XI trả lại một số đất chiếm đóng.

    Phanxicô đã sống một cuộc đời lâu dài để ca ngợi và mến yêu Thiên Chúa. Ngài từ trần khi chín mươi mốt tuổi, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1507.

    Lời Bàn

    Cuộc đời của Thánh Phanxicô ở Paola là câu trả lời rõ ràng cho thế giới quá sôi động. Ngài là một người chiêm niệm được kêu gọi để hoạt động xã hội và chắc rằng ngài phải cảm thấy sự căng thẳng giữa đời sống cầu nguyện và việc phục vụ xã hội. Tuy nhiên, sự căng thẳng này không làm mất đi hiệu quả của đời sống thánh nhân, vì ngài biết đưa kết quả của sự chiêm niệm vào trong hoạt động xã hội. Ngài đáp ứng lời mời gọi của Giáo Hội một cách sẵn sàng và tốt đẹp là nhờ có nền tảng vững chắc của sự cầu nguyện và hãm mình. Khi ngài đến trong thế gian, không phải ngài hoạt động nhưng chính Ðức Kitô hoạt động trong ngài -- là "người hèn mọn nhất trong nhà Thiên Chúa."

    Trích từ NguoiTinHuu.com

    _____________________________


    Ve Sầu Kêu Ve Ve

    "Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Ðến kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối...".

    Trên đây là bốn câu đầu trong bài thơ mà cụ Nguyễn Văn Vỉnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn "Con ve và con kiến" của thi sĩ Pháp La Fontaine.

    Ở Việt Nam chúng ta cũng như tại nhiều nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.

    Theo sinh vật học thì có đến 23 loại ve sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: loại 2 năm, loại 3 năm. loại 17 năm v.v... Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngầm dưới đất đến 17 năm. Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17 năm.

    Sinh vật học còn cho rằng, khi chu kỳ 17 năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng ra khỏi lòng đất và hàng trăm triệu con nhộng đã đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò lên mặt dất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất để bám chặt vào, rồi lột voe, biến thành con ve với hai cánh dài để bay... Nhưng cuộc sống của ve rất ngắn ngủi: vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ vừa đủ để làm một công tác duy nhất làđẻ trứng rồi chết.

    Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu: trong 33 năm sống kiếp con người, Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.

    Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới đất như nhộng không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của Ngài cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt. Kiếp sống lam lũ của người thợ mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: tất cả đều mặc cho cuộc sống con người một ý nghĩa.

    Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu. Trong ánh sáng ấy, chúng ta sẽ hiểu dược dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của chúng ta là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Con ve sầu phải tôi luyện trong suốt 17 năm trời mới có thể xuất hiện để sinh ra một mầm sống mới. Những lam lũ vất vả từng ngày của người Kitô chúng ta cũng có sức mang lại mầm sống mới cho rất nhiều người.

    Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi vào cuộc sống của chúng ta, để, dù vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng ta luôn vui vẻ tiến bước vì tin rằng cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống cho nhiều người.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  4. #3
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    04/03

    Đức tin đưa tới phép lạ


    Thứ Hai Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 4, 43-54


    43Sau hai ngày, Đức Giêsu bỏ nơi đó đi Galilê. 44Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. 45Khi Người đến Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ. 46Vậy Đức Giêsu trở lại Cana miền Galilê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Caphácnaum. 47Khi nghe tin Đức Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. 48Đức Giêsu nói với ông: "Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!" 49Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!" 50Đức Giêsu bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống." Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. 51Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. 52Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt." 53Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin. 54Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê.


    Suy niệm:
    Chúa Giêsu chữa lành con trai người quan chức tại Caphacnaum khi Ngài ở Giuđa về Galilê và thánh sử Gioan ghi rõ đây là phép lạ thứ hai Ngài thực hiện tại Cana. Phép lạ thứ nhất là hóa nước thành rượu vào giai đoạn đầu đời rao giảng công khai. Hóa nước thành rượu theo lời đề nghị của Ðức Maria, Mẹ Ngài, để cứu vãn danh dự cho gia chủ tiệc cưới. Chữa lành người con một quan chức nhà vua, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đến vì mọi người và ở mọi tầng lớp xã hội. Ngài đã ra tay để mang lại hạnh phúc cho mọi người không cần biết họ là ai và điều kiện đón nhận phép lạ là đức tin. Ðức tin của con người cộng với ơn của Thiên Chúa tạo nên phép lạ.
    Mỗi ngày sống hôm nay của chúng ta là sự lạ lùng Thiên Chúa thực hiện. Không nhận ra được sự lạ lùng ấy là vì chúng ta không có đức tin. Không có thì không phải Thiên Chúa không ban ơn đức tin cho chúng ta đâu mà là do chúng ta không muốn lãnh nhận ơn ấy vì sợ sệt, sợ phải sống theo Tin Mừng, sợ nên thánh, sợ phải sống tốt hơn. Chẳng hạn như sự kiện cha sở đề nghị chia sẻ Lời Chúa thì rút lui, tránh né. Nhưng quả thật là họ dự lễ chứ chưa dâng lễ. Ðã từ lâu họ quen cảnh linh mục chủ tế, công bố Tin Mừng và giảng trong khi họ mơ mơ màng màng với giấc ngủ chưa dứt, những suy nghĩ viễn vông. Nay phải tiếp cận Lời Chúa và để cho Lời Chúa soi dọi trong mọi ngõ ngách trong lòng họ, nhắc họ ra khỏi tình trạng ươn lười và khoán việc cho người khác thì họ thấy sợ. Không lạ lùng gì họ không thể và không bao giờ có thể chứng kiến được những kỳ diệu Thiên Chúa làm trong đời sống họ mỗi ngày.
    Lời loan báo Tin Mừng cũng trở nên vô nghĩa ngay trong nhà thờ đông nghẹt người đến dự lễ chứ không dâng lễ. "Ông hãy về đi, con ông sống rồi," viên quan chức tin không đòi hỏi gì hơn. Vào trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta chần chờ để xin thêm một vài dấu chỉ nào đó chứng minh Lời Chúa thật sự có kết quả. Ông về nghe tin con đã khỏe, ông hỏi giờ và nhận ra giờ đó Chúa đã chữa lành cho con ông. Có lẽ gia nhân không biết gì. Chuá vẫn thế, Ngài có những thực hiện kỳ diệu một cách rất bình thường, một câu nói đơn giản, quyền lực vượt không gian và thời gian để mang lại kết quả mong muốn miễn là chúng ta tin.
    Ðức Giêsu chữa cho con một viên quan chức khỏi chết, vì ông đã tin vào Ngài. Ông đã từ Caphácnaum lên tận Galilê để gặp Ðức Giêsu và xin Ngài thương chữa lành con ông. Ðức Giêsu sẵn sàng thực hiện sứ vụ đó. Vì Ngài được sai đến để giải thoát con người khỏi khổ đau bệnh tật, chết chóc và tội lỗi. Nhưng với một điều kiện duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta là lòng tin.
    Sự hiện diện của Ðức Giêsu đem hạnh phúc và bình an cho con người. Mỗi chúng ta đã sống thế nào để sự hiện diện của chúng ta trong cuộc sống là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa? Niềm tin của chúng ta thế nào mỗi khi chạy đến với Ðức Giêsu để xin Ngài cứu giúp?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, chúng con có đạo nhưng hổ thẹn: Có người chỉ một lần nghe, gặp Chúa và tin ngay. Họ nhận thấy được tình yêu thương họ, nhận ra được những hành động vì tình yêu thương Chúa. Còn chúng con tuần nào cũng gặp gỡ Chúa, mà chúng con đến với Chúa như cái xác không hồn của chúng con. Nguyện xin Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho những ai tin cậy vào Chúa. Xin củng cố niềm tin của chúng con, để khi đã được ơn Chúa tái sinh, cuộc đời chúng con trở nên dấu chỉ sống động cho tình thương và sự hiện diện của Chúa. Amen.


    ______________________________


    Ðánh Nhau Bằng Gậy Gộc

    Họa sĩ Goya, người Tây Ban Nha vào đầu thế kỉ 19, đã để lại một loạt những bức tranh mô tả thân phận con người thật ý nghĩa. Một trong họa phẩm mà ông đã thực hiện trong thời nội chiến của người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18 mang tựa đề: "Ðánh nhau bằng gậy gộc".

    Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân xô xát nhau. Mỗi người cầm trong tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ chiếc dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời không để lộ một nét nổi bật nào. Người ta không đoán được trời sắp giông bão hay sắp sáng rỡ.

    Thoạt nhìn qua cũng nghĩ đây chỉ là một bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: đó là hai người nông dân đang hầm hầm sát khí để loại trừ nhau này lại mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối.

    Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng trên nhau cho bằng chính cát bụi đang từ từ chôn vùi họ.Thế nhưng thay vì giúp nhau để ra khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào thú dữ: họ cắn xé nhau. Họa phẩm "Ðánh nhau bằng gậy gộc" trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua.Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.

    Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở quy mô thế giới, một nơi nào đó ngoài cuộc sống của chúng ta, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của chúng ta với những người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm tâm hồn chúng ta.

    Bức tranh của họa sĩ Goya cũng chính là bức tranh của thân phận con người chúng ta. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, thay vì liên đới để bảo vệ nhau, người ta vẫn có thể đâm chém lẫn nhau.

    Một nhạc sĩ nào đó đã có lý để tra vấn chúng ta: giết người đi thì ta ở với ai? Một trong những phương thế tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn.

    Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc: nếu có ai vả má bên phải của ngươi, hãy chìa luôn cả má còn lại... Trong những giờ phút cuối đời, khi đứng giữa những người đang đằng đằng sát khí muốn hủy diệt mình, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho họ.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  5. Được cám ơn bởi:


  6. #4
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    05/03

    Ðừng Phạm Tội Nữa


    Thứ Ba Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 5, 1-3a.5-16

    1Sau đó, nhân dịp lễ của người Do Thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem. 2Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Hípri gọi là Bếtdatha. Hồ này có năm hành lang. 3Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, chờ cho nước động.
    5Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. 6Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: "Anh có muốn khỏi bệnh không?" 7Bệnh nhân đáp: "Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!" 8Đức Giêsu bảo: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!" 9Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày Sabát. 10Người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: "Hôm nay là ngày Sabát, anh không được phép vác chõng!" 11Nhưng anh đáp: "Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: "Anh hãy vác chõng mà đi!" 12Họ hỏi anh: "Ai là người đã bảo anh: "Vác chõng mà đi?" 13Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: "Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!" 15Anh ta đi nói với người Do Thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. 16Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày Sabát.


    Suy niệm:
    Qua bài Tin Mừng hôm nay, nếu chúng ta đặt mình vào vai bệnh nhân ba mươi tám năm, chúng ta mới cảm thấy những người hạch hỏi anh thật độc ác. Tại sao họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt ba mươi tám năm dài? Ðúng lý ra, họ phải vui mừng với anh, vì ngày hôm nay anh đã được giải phóng khỏi tình trạng khốn nạn. Ðúng lý ra, họ phải cùng với anh tôn vinh tạ ơn Vị đã cứu giúp anh mới phải. Tại sao họ lại bắt bẻ Ngài? Ngài và họ, ai là người thương yêu anh đích thực? Ngài và họ, ai là người đi trong đường lối của Thiên Chúa?
    Việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát là một trong những nguyên nhân khiến cho người Do Thái tức tối. Họ chống đối Chúa ra mặt. Thậm chí còn muốn trừ khử Ngài cho rảnh mắt.
    Trong bài Tin Mừng trên đây, chúng ta thấy có ba tuyến nhân vật: một là Chúa Giêsu, hai là người mắc bệnh nan y và ba là những người Do Thái.
    Hôm nay chúng ta đặc biệt lưu ý đến thái độ của người Do Thái và thái độ của Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ của người Do Thái, chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có quá cứng nhắc trong các nguyên tắc, các luật lệ, đến độ vô cảm trước những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh hay không, chúng ta có lên án những người vì phục vụ lợi ích của anh chị em đồng loại mà làm những việc có vẻ như bất chấp luật lệ hay không. Phản ứng nông cạn của những người Do Thái trong bài đọc trên đây là một lời nhắc nhở để chúng ta nhớ lại cung cách sống của mình trong các tương quan với kẻ khác. Chúng ta đừng để mình rơi vào trường hợp đáng buồn như những người Do Thái.
    Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể xét mình theo thái độ của mình đối với anh chị em. Chung quanh chúng ta không bao giờ thiếu những người bất hạnh. Họ đau khổ trước nỗi bất hạnh của mình và chờ mong một ai đó chia sẻ nỗi khổ với họ. Con tim chúng ta có đủ can đảm để nhận ra tình cảnh khốn khổ của anh chị em mình hay không? Lời và việc làm của chúng ta có mang theo đủ tình thương để xoa dịu nỗi đau khổ của họ hay không? Chúng ta có đủ can đảm và quảng đại vượt qua những trở ngại bên ngoài để giúp đỡ người ấy ra khỏi tình cảnh khốn khó của họ hay không? Hình ảnh Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta can đảm dấn thân chia sẻ nỗi đau khổ với anh chị em chung quanh.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, nhân loại chúng con đối với nhau quá tàn ác. Chúng con không biết thương nhau. Chúng con không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, vì chúng con quá ích kỷ. Chúng con chỉ nghĩ đến mình. Chính vì thế chúng con chỉ biết bắt bẻ và kết án.
    Xin Chúa giúp chúng con biết sửa lại con người vẹo vọ, lệch lạc của chúng con. Ðặc biệt trong mùa chay thánh này, xin cho chúng con biết giao hòa với Thiên Chúa và với anh em, để chúng con đáng được Chúa xót thương.
    Lạy Chúa, xin cho con học được những bài học thiết thực khi suy niệm bài Tin Mừng của ngày hôm nay. Xin cho con biết kiên trì hy vọng lúc gặp đau khổ, biết lưu tâm chia sẻ những nỗi đau khổ của những người khác và biết uyển chuyển linh động khi đáp ứng những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh. Amen.

    http://tgpsaigon.net

    ____________________________


    Thánh Vinh Sơn Ferrer

    (1357 - 1419)



    Sự phân hóa trong Giáo Hội ngày nay chỉ là cơn gió nhẹ so với trận cuồng phong đã xé Giáo Hội ra từng mảnh trong thời Thánh Vinh Sơn Ferrer. Ngài là quan thầy của những người xây cất vì ngài nổi tiếng đã "xây dựng" và kiên cường Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.


    Sinh ở Valencia, Tây Ban Nha năm 1357, khi lên 17 tuổi, bất kể sự chống đối của cha mẹ, ngài gia nhập Dòng Ða Minh trong thành phố gần nơi sinh trưởng. Sau khi hoàn tất việc học một cách tốt đẹp, ngài được thụ phong linh mục bởi Ðức Hồng Y Phêrô "de Luna" -- là người đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời ngài.

    Với bản tính hăng say, ngài tận tụy thi hành nhân đức khắc khổ theo quy luật dòng. Sau khi được thụ phong linh mục không lâu, ngài được chọn làm bề trên tu viện Ða Minh ở Valencia.

    Cuộc Ðại Ly Giáo Tây Phương đã chia cắt Kitô Giáo, lúc đầu với hai giáo hoàng, sau đó là ba giáo hoàng. Ðức Clêmentê ở Avignon nước Pháp, Ðức Urbanô ở Rôma. Cha Vinh Sơn tin rằng việc bầu cử Ðức Urbanô là vô giá trị (mặc dù Thánh Catarina ở Siena là người hỗ trợ đức giáo hoàng Rôma). Trong thời gian phục vụ Ðức Hồng Y "de Luna", Cha Vinh Sơn thuyết phục người Tây Ban Nha theo Ðức Clêmentê. Và khi Ðức Clêmentê từ trần, Ðức Hồng Y "de Luna" được bầu làm giáo hoàng ở Avignon và lấy tên là Bênêđictô XIII.

    Cha Vinh Sơn được Ðức Bênêđictô triệu về làm việc trong Tòa Ân Giải Tối Cao và là Trưởng Ðiện Tông Tòa. Nhưng vị giáo hoàng ở Avignon không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên trong mật nghị hồng y đều thề như vậy. Và Ðức Bênêđictô vẫn ngoan cố bất kể sự ruồng bỏ của vua nước Pháp và hầu hết các hồng y.

    Cha Vinh Sơn vỡ mộng và lâm bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đã đảm nhận công việc "rao giảng Ðức Kitô cho thế giới," dù rằng bất cứ sự canh tân nào trong Giáo Hội thời ấy đều tùy thuộc vào việc hàn gắn sự ly giáo. Là một người có tài rao giảng và hăng say, Cha Vinh Sơn dành 20 năm sau cùng của cuộc đời để loan truyền Tin Mừng ở Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Ðiển, Hòa Lan và vùng Lombardy, ngài nhấn mạnh đến nhu cầu sám hối và khuyên nhủ mọi người hãy lo sợ ngày phán xét. (Ngài có tên là "Thiên Thần của Sự Phán Xét").

    Vào những năm 1408 và 1415, ngài cố gắng nhưng không thành công trong việc thuyết phục người bạn cũ của ngài từ chức. Sau cùng, Cha Vinh Sơn phải kết luận rằng Ðức Bênêđictô không phải là giáo hoàng thật. Mặc dù đang bệnh nặng, Cha Vinh Sơn đã lên tòa giảng trước một giáo đoàn mà chính Ðức Bênêđictô chủ sự và mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong chức linh mục cho ngài. Từ đó trở đi, Ðức Bênêđictô bỏ trốn, để lại sau lưng những người trước đây đã hỗ trợ mình.

    Cha Vinh Sơn sống cho đến ngày được chứng kiến sự chấm dứt ly giáo, với việc bầu cử tân giáo hoàng là Ðức Martin V. Cha từ trần ngày 5 tháng Tư 1419 và được phong thánh năm 1455.

    Lời Bàn


    Sự chia cắt trong Giáo Hội thời Thánh Vinh Sơn Ferrer quả thật là một tai họa -- 36 năm trường với hai "thủ lãnh." Chúng ta không thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội ngày nay nếu, trong một thời gian dài như vậy, một nửa theo các giáo hoàng ở Rôma, và một nửa khác theo số giáo hoàng "chính thức", tỉ như ở Rio de Janeiro. Quả thật đó là một phép lạ khi thời gian lụn bại ấy với những khối đá kiêu ngạo và ngu dốt, đầy tham vọng đã kéo dài không lâu. Chúng ta tin rằng "chân lý thì hùng mạnh, và sẽ thắng theá" -- mặc dù đôi khi phải mất một thời gian.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

    ________________________


    Chiếc Bong Bóng Bay

    Câu chuyện được thuật lại xảy ra tại vùng Nam Italia, nơi dân chúng không được sung túc cho lắm, so với những vùng khác. Câu chuyện trên mang tựa đề là : "Chiếc bong bóng bay màu hồng".


    Chiếc bong bóng này là kết quả của sự góp nhặt và tiết kiệm từng xu của Beppo, một em bé lên tám. Hôm ấy, trong lúc các trẻ đồng tuổi cắp sách đến trường, Beppo chốn học, chạy nhanh lên ngọn đồi để thả chiếc bong bóng màu hồng bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng, Beppo cẩn thận cột bức thư nó đã nắn nót viết từng chữ như sau: "Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có sáu anh em, nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường chiếu, nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của chúng con một ít quần áo và tã, quần áo xài rồi cũng được. Nhà con ở làng Arcol miền Nam nước Italia. Con tên là Beppo Sala".

    Sau khi thả chiếc bong bóng hồng mang bức tâm thư lên trời, Beppo đứng ngước mắt nhìn lên trời mãi đến khi chiếc bong bóng mất hút trong đám mây, nó mới thơ thẩn đi về nhà.

    Những ngày sau đó là những ngày tháng hồi hộp nhất đời của Beppo. Nhưng nó vẫn tiếp tục hy vọng và cầu nghuyện. Sáu ngày nặng nề trôi qua, nhưng một buổi kia, lúc đang chơi với các trẻ khác cùng xóm, Beppo thấy người giao bưu phẩm mang vào nhà một thùng quà. Nó hồ hởi chạy nhanh về và nghe cha nó đang lớn tiếng cãi vã với nhân viên bưu điện: "Chắc anh lầm rồi, tôi đâu có quen ai ở thành Rovigo. vả lại chúng tôi đào đâu ra tiền để mua quà cáp". Người giao bưu phẩm phân trần: "Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gửi cho ông thì còn gửi cho ai nữa? Ông nhận nhanh lên, tôi còn phải đi giao nhiều món hàng nữa chứ có phải chỉ có thùng này thôi đâu". Cha của Beppo trả lời: "Thôi đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi sau đó mang họa, làm gì có tiền mà bồi thường".

    Thấy câu chuyện dai dẳng, Beppo bạo phổi nói xen vào: "Thì cha cứ mở ra xem thử, nếu không phải là của mình thì mình gói trả lại".
    Thùng đồ được mở ra, thấy toàn đồ cho trẻ sơ sinh.Nào tã, nào những chiếc áo nhỏ tí ti, nào băng rốn.Người gửi không quên gói vào hai hộp phấn và một lố những chiếc kim tây. Mắt của mẹ Beppo bừng sáng lên.Beppo cảm thấy vui như ngày tết, vui nhất là người gửi đồ không đề địa chỉ nên không thể gửi trả lại. Nó chạy nhanh ra ngọn đồi, nơi nó thả chiếc bong bóng màu hồng sáu ngày trước đây. Ðến nơi nó ngước mắt nhìn trời, miệng thì thầm: "Chúa ơi, con cám ơn Chúa".


    Tuổi trẻ thường được gọi là tuổi thơ, mà nói đến thơ là nói đến mộng. Trẻ thơ thường có những mơ ước đơn sơ: mong bắt được nhiều dế, mơ con diều mình đang thả được bay cao, mong cho mình khéo tay ăn được nhiều đạn trong cuộc chơi bi, mơ đội banh mình được thắng trong cuộc đá bóng sắp tới. Nhưng đã có những mái đầu xanh đã bắt đầu lo lắng cho cha mẹ, cho anh chị em như trong trường hợp của em bé mới lên tám tuổi Beppo.
    Theo cha Michel Bonnet, đã từng truyền giáo tại Nhật bản và nay đang làm cho phong trào quốc tế đặc trách mục vụ cho trẻ em, thì tại Á Châu, số trẻ emvì hoàn cảnh gia đình hay xã hội bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc vượt qua tuổi của chúng nhiều hơn là số trẻ em được cắp sách đến trường.


    Cũng theo cha Bonnet, đã đến lúc các tín hữu phải đọc dòng Phúc Âm mà mọi người đều thuộc nằm lòng, nhưng với cái nhìn khác: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, chớ ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng".

    Và cha Bonnet đề nghị: câu Phúc Âm trên tạo dịp cho chúng ta thấy Chúa Giêsu trong những trẻ con bị cưỡng bách phải làm việc nặng nhọc. Qua các em, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: "Hãy đến và theo Ta".

    Trích sách Lẽ Sống



    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  7. Được cám ơn bởi:


  8. #5
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    06/04

    Không Ngừng Yêu Thương


    Thứ Tư Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 5, 17-30

    17Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc." 18Bởi vậy, người Do Thái lại càng tìm cách giết Đức Giêsu, vì không những Người phá luật Sabát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. 19Đức Giêsu lên tiếng nói với họ rằng: "Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. 20Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. 21Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý. 22Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, 23để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. 24Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. 25Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến và chính là lúc này đây giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. 26Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, 27lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người. 28Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con 29và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án. 30Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi.


    Suy niệm:
    Qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu cho thấy sự liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài nhấn mạnh: "Ta không thể làm điều gì tự mình Ta... Ta không tìm ý của Ta mà là ý của Ðấng đã sai Ta."
    Bản thân chúng ta chỉ là cát bụi, yếu đuối và giới hạn. Chúng ta cũng chỉ đạt được cùng đích của mình khi biết gắn chặt vào Thiên Chúa: Lắng nghe và thực thi ý Chúa. Ý Chúa là gì? Nếu không phải là Ngài muốn chúng ta được hạnh phúc?
    Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy.” Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.
    Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống.”
    Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: "Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy.” Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, cuộc sống đầy khó khăn và cạm bẫy. Chúng con không thể đứng vững được nếu Chúa không ban sức mạnh cho chúng con. Xin cho chúng con luôn biết gắn bó cuộc đời chúng con với Chúa trong từng biến cố lớn nhỏ. Ðể từ đó, chúng con chỉ còn sống cho Chúa và làm vui lòng Chúa mà thôi.
    Lạy Chúa, xin cho con luôn hướng mắt nhìn lên Chúa, đặt đời con vào trong viễn tượng cuộc sống đời đời để con được luôn can đảm, kiên trì chu toàn thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen



    _______________________________


    Món Quà Cưới Ðẹp Nhất

    Mẹ Têrêxa thuật lại một câu chuyện như sau: "Một hôm kia, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".

    Ở Calcutta, mọi người đều biết là: mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái truyền giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.

    Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?". Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".

    Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".
    Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?". Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào".

    Trong sứ điệp Mùa Chay gửi toàn thể giáo hội, công bố vào ngày 09/02/1988, Ðức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.

    Ðức Thánh Cha nói: "Có những trẻ em chét trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa... Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái".

    Ngoài ra, sứ điệp Mùa Chay của Ðức Thánh Cha còn nhắc lại tình thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em và Ngài mời gọi mọi tín hữu trong Mùa Chay hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi, đồng thời thực thi tình liên đới, bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu. Hãy cho người nghèo không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.

    Trích sách Lẽ Sống
    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 06-04-2011 lúc 09:35 AM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  9. #6
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    07/04

    Chứng của Chúa Cha


    Thứ Năm Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 5,31-47

    31Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. 32Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. 33Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. 36Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. 37Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người.


    Suy niệm:
    Sau khi bị những người Do Thái chỉ trích Ngài vì phạm luật ngày Hưu Lễ vì đã chữa bệnh cho một người bị liệt đã 38 năm, Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài có quyền hành động như thế, bởi vì Ngài là cộng tác viên của Thiên Chúa. Và giờ đây Ngài nại đến một chứng từ mà người Do Thái không thể phủ nhận, đó là chứng từ của Thiên Chúa Cha được bày tỏ qua các phép lạ Ngài làm cũng như qua lề luật Môsê. Quả vậy, các phép lạ Chúa Giêsu làm, chứng thực rằng chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến, chính Thiên Chúa đã hành động với Ngài và trong Ngài. Do đó, đây là chứng từ không những do Chúa Cha mang đến, mà còn do ngay của Chúa Giêsu nữa, vì " cứ xem quả thì biết cây."
    Tiếp đến, chính qua Kinh Thánh, Chúa Cha cũng làm chứng cho Chúa Con một cách đặc biệt. Đây là một chứng từ có tính cách trực tiếp và có giá trị đối với người Do Thái, vì mọi người Do Thái đều công nhận Kinh thánh là Lời của Thiên Chúa.
    Trong khi toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Và không phải Chúa Giêsu là người sẽ tố cáo họ về tội bất trung này, nhưng là chính Môsê. Bởi vì qua lề luật, Môsê đã nói về Đấng Mêsia tức là về Chúa Giêsu, vậy mà về điểm căn bản này, họ cũng đã từ chối không chịu tin theo lời dạy bảo của ông.
    Như vậy, điều cốt yếu để được cứu độ là tin vào Chúa Giêsu nhận ra hình ảnh và lời nói của Chúa Cha nơi Ngài. Có tin vào Chúa Giêsu, lời Thiên Chúa mới ở trong chúng ta. Trong Mùa chay này, chúng ta hãy để cho Lời Chúa lưu lại trong chúng ta bằng cách năng suy gẫm Lời Chúa, để giữa cuộc sống của chúng ta và Lời Chúa biểu lộ khuôn mặt, tinh thần và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn để có thể nhận ra và lắng nghe được tiếng nói của Chúa và luôn sống trong đường lối của Ngài.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, thế giới hôm nay cũng như hôm qua, vẫn còn đó những người lầm đường lạc lối vì thiếu ánh sáng chân lý soi đường, vẫn còn đó những người sống trong bóng tối của ích kỷ mù quáng, vẫn còn đó những Pharisêu cố chấp đến độ không nhận ra sự thật để sống theo sự thật. Họ là những con người giả dối chỉ lo dạy người mà quên sửa mình, như ca dao Việt Nam đã nói: “Chân mình còn lấm bê bê – Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.” Nhân loại hôm nay vẫn không thiếu những người sống trong u tối từ cách nhìn, cách nghĩ và cách sống, nên hành xử thiếu đại lượng, khôn ngoan, và nhân từ. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn đang tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa. Ánh sáng của tình yêu để phá tan bóng tối của thù hận, ghen tương và ích kỷ. Ánh sáng của chân lý để phá tan bóng tối của mưu mô xảo quyệt, của đam mê lầm lạc. Xin cho cuộc đời chúng con luôn phản chiếu ánh sáng Tin Mừng khắp thế gian và lan tỏa trên mọi nẻo đường chúng con bước đi. Amen
    LM. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    _____________________________


    Bình An Trong Tâm Hồn

    Purna, một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".


    Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".

    Thiết nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  10. #7
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    08/04

    Tin Nhận Chúa Giêsu


    Thứ Sáu Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 7,1-2.10.25-30

    1Sau đó, Đức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Do Thái tìm giết Người. 2Lễ Lều của người Do Thái gần tới. 10Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. 25Bấy giờ có những người ở Giêrusalem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao? 26Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Kitô? 27Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả." 28Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng: "Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. 29Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi." 30 Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.


    Suy niệm:
    Người Do Thái chỉ biết Ðức Giêsu xuất thân từ gia đình Nazarét, nhưng họ không biết Chúa Cha nên không tin nhận Ngài là Ðức Kitô. Còn Ðức Giêsu, Ngài biết Thiên Chúa, và thực sự Ngài là Ðấng Thiên Sai.
    Biết Thiên Chúa và sống trong Thiên Chúa, đó là đích điểm cuộc đời mỗi người Kitô hữu. Ðể biết Thiên Chúa, chúng ta phải qua trung gian là Ðức Giêsu, con đường dẫn đến ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta phải chuyên cần tìm hiểu, gặp gỡ Ðức Giêsu trong Thánh Kinh, trong cuộc đời và sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
    Không ai trong chúng ta đã chọn lựa được sinh ra, không ai trong chúng ta đã chọn lựa chủng tộc, cha mẹ, dân tộc để sinh ra. Nếu được chọn lựa để sinh ra một lần nữa, có lẽ đa số trong chúng ta sẽ chọn lựa cho mình một cuộc sống khác.
    Thế nhưng, với Chúa Giêsu thì không như thế, Ngài là người duy nhất trên trần gian đã chọn lựa cho mình tất cả để sinh làm người. Ngài đã chọn một người mẹ, một nơi sinh và những hoàn cảnh trong đó Ngài sẽ trưởng thành. Nếu phải chọn lại một lần nữa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ không thay đổi cuộc sống ấy, một cuộc sống nghèo khổ, tăm tối. Dĩ nhiên, chúng ta không thể hiểu được hoàn toàn tại sao Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống như thế.
    Cuộc sống nào cũng là một mầu nhiệm. Cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người lại càng là một mầu nhiệm đối với chúng ta hơn. Vào thời Chúa Giêsu, đa số những người Do Thái đều có một suy nghĩ giống nhau về thân thế của Chúa Giêsu. Họ biết rõ Ngài là con bác thợ mộc Giuse, và Mẹ Ngài là bà Maria. Họ cũng biết rõ từ Nagiaret không bao giờ có thể xuất phát một nhân vật tài ba nào cho dân tộc. Họ biết quá rõ về Ngài, nhưng chỉ biết theo sự hiểu biết và phán đoán của con người mà thôi.
    Qua các thời đại, nhiều người đã tốn hao bút mực để viết về cuộc đời Chúa Giêsu. Đối với nhiều người, Ngài có thể là một vĩ nhân, một con người ý thức mình có một sứ mệnh đặc biệt. Nhưng Ngài cũng chỉ là một người như mọi người, nghĩa là cũng sinh ra, sống một thời gian rồi cũng qua đi như mọi người. Trong khi đó, đối với Kitô hữu, Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa. Họ tin ở Lời Chúa được ghi trong Tin Mừng hôm nay. "Ta không tự mình mà đến, nhưng có Đấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài và Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta." Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người chính là biết nhìn xuyên qua cuộc sống lam lũ tăm tối của Ngài để nhận ra quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng chính là nhận ra giá trị của cuộc sống âm thầm ấy như một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
    Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn ấy và sau này tiếp tục sống thiết thân với những người cùng khổ bất hạnh. Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta thấy phẩm giá cao cả của con người. Dù nghèo hèn đến đâu, mỗi người sinh ra trên đời cũng đều có một giá trị cao cả bất khả nhượng. Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn và chấp nhận cái chết thê thảm nhất. Chúa Giêsu cũng muốn nêu bật giá trị và ý nghĩa của cuộc sống con người. Cái nghèo hèn trở nên sự giàu sang, cái mất mát trở thành lợi lộc, cái yếu đuối trở thành sức mạnh mang lại sự sống.
    Mùa Chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài, là đánh giá mọi sự bằng chính cái nhìn của Ngài. Mùa Chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.
    Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết: chỉ có Thiên Chúa mới là tuyệt đối; chỉ qua Ðức Giêsu chúng con mới thấy hạnh phúc đích thật. Xin Chúa ban Thánh Thần để Ngài hướng dẫn và dạy chúng con biết Ðức Kitô. Và qua Ðức Kitô, chúng con đến được với Thiên Chúa là Cha và là cùng đích của chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát con khỏi sự mù quáng tinh thần, nhất là đừng để con vì những lợi lộc ích kỷ mà xa Chúa, hay tệ hại hơn chống đối và từ bỏ Chúa. Xin thương mở rộng tâm hồn và đôi mắt con cho con được nhìn ra Chúa. Xin Chúa thay đổi cái nhìn của con để con biết tôn trọng và lắng nghe tiếng Chúa nơi tất cả mọi người con gặp hàng ngày. Amen.


    ______________________________


    Cái Này Của Tôi

    Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:

    "Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".

    Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".
    Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:

    "Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói thế, ông kia đáp:

    "À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".

    Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.

    Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.

    Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".

    Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.

    Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
    Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.

    Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  11. Được cám ơn bởi:


  12. #8
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    09/04

    Ðón Nhận Sự Thật


    Thứ Bảy Tuần thứ 4 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 7, 40-53

    40Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ." 41Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Kitô." Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? 42Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít sao?" 43Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. 44Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt. 45Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?" 46Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" 47Người Pharisêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? 48Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? 49Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!" 50Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Đức Giêsu; ông nói với họ: 51"Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" 52Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả." 53Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.


    Suy niệm:
    Ðức Giêsu là nguyên nhân chia rẽ trong dân Do Thái: Có người nhận Ngài là Ðấng Tiên Tri, người khác nhận là Ðức Kitô. Nhưng các Thượng tế và Biệt phái thì muốn bắt Người. Họ dựa vào Thánh Kinh, nhưng cắt nghĩa Thánh Kinh lệch lạc. Vì thế cố chấp và không muốn nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa. Họ không đón nhận Ngài.
    Ðức Giêsu là Thiên Chúa và cũng là người thật. Chúa là người như chúng ta để hòa nhất với chúng ta. Chúa là Thiên Chúa nên mới có thể dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Nơi con người Ðức Giêsu, thần tính được dấu ẩn sau nhân tính.
    Những người chống đối Chúa Giêsu kiên quyết bảo vệ lập trường sai lầm của mình. Họ tự hào rằng mình am hiểu Kinh Thánh, rằng mình thông thạo lề luật, và họ khư khư căn cứ vào sự hiểu biết của họ để mô tả hình ảnh của một Chúa Kitô theo trí tưởng tượng của họ và kết quả là họ đã không gặp được Ngài.
    Nhóm người tán thành Chúa Giêsu thì ứng xử theo lối khác. Họ lắng nghe những lời Chúa Giêsu nói, quan sát những việc Chúa Giêsu làm. Họ thấy cả những lời nói và việc làm này có một sự thật, một tình thương, một sức giải phóng tâm hồn. Thế là họ tin vào Người, họ không lý luận bằng chữ nghĩa, họ chỉ nghe ngóng với con tim. Lời lẽ của họ thật là đơn sơ: "Ông này là vị ngôn sứ. Ông này là Ðấng Kitô." Người ta có thể nói rằng hãy nhắm mắt lại để thấy, hãy bịt tai lại để nghe. Quả thật, có nhiều điều chúng ta chỉ có thể thấy được, nghe được, hiểu được bằng cách vượt lên khỏi lối nhìn, lối nghe và lối hiểu thông thường dựa vào hình tướng bên ngoài.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, sự khiêm hạ, tự hủy của Chúa đã thành cớ vấp phạm. Chúng con không thể hiểu được: Thiên Chúa mà lại trở nên giống chúng con. Chúng con không nhận ra Chúa qua những dáng vẻ tầm thường. Nơi mỗi tha nhân chúng con gặp hằng ngày đó là hình ảnh sống động của Chúa; nhưng mấy khi chúng con đã nhận ra. Tiếng Chúa vẫn nói với chúng con trong đời thường; nhưng mấy khi chúng con nghe ra. Xin cho chúng con một con mắt đức tin trong sáng để chúng con nhận ra Chúa hiện diện nơi những anh em nhỏ bé nhất trong cuộc sống hằng ngày.
    Lạy Chúa, lắm lúc con cũng thường đánh giá mọi chuyện dựa theo cái vỏ bên ngoài của chúng và giải thích chúng dựa theo những kiến thức tôn giáo xã hội mà mình thụ đắc được, những lúc đó, con tưởng mình đã nắm gọn chân lý trên tay và con lớn tiếng phê phán chỉ trích đủ điều, con không ngờ rằng nhiều lúc mình chỉ như gã mù xem voi. Mù vì thiên kiến hẹp hòi, mù vì kiêu căng tự mãn, mù vì những ghen ghét giận hờn. Làm nô lệ cho những tật xấu, những tội lỗi, những mù quáng tinh thần này, con không thể nào gặp được Chúa. Xin Chúa cho con biết đón nhận sự thật với tâm hồn đơn sơ và một con tim đổi mới, cởi mở. Xin ban cho con Thánh Thần Chúa, thanh tẩy con với mọi tội lỗi, giúp con thoát khỏi mọi sự mù quáng để nhận ra Chúa. Amen.


    ______________________________


    Lạc Hướng
    Mỗi năm có đến hàng trăm con cá voi bơi vào bờ biển và bị mắc cạn. Nếu được kéo ra biển, chúng lại tự ý bơi trở vào bờ nữa mà không ai hay biết lý do tại sao... Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ và bao nhiêu giả thuyết đã được đưa ra.

    Mới đây, trong tạp chí New Scientist, một nữ bác sĩ thuộc trường đại học Cambridge bên Anh Quốc đã nghiên cứu trên 3,000 hồ sơ ở bảo tàng viện Anh Quốc và đưa ra kết luận rằng: tất cả các giống vật sống ở đại dương như cá heo, cá voi đều tự ý làm cho mình mắc cạn trên khắp thế giới. Có thể nói đây là một loại tự sát của thú vật.

    Nữ bác sĩ nói trên cho rằng cá voi bơi vào bờ vì chúng đã sử dụng địa từ trường của trái đất như một thứ bản đồ. Bà giải thích rằng cá voi không sử dụng sự chỉ hướng rộng rãi trên mặt đất như ta sử dụng đại bàn, nhưng chúng chỉ dùng những sự khác biệt tương đối nhỏ trong từng vùng hoàn toàn địa phương. Chúng bơi vào bờ vì không phải chúng đi tìm bờ biển hay muốn tự sát, nhưng cũng giống như người đọc sai hải đồ, nhắm hướng này nhưng lại ra hướng khác.

    Những chú cá voi mắc cạn hằng năm trong bờ chắc chắn không phải là những con thú đã quyết chí đi tìm cái chết. Bản năng sinh tồn, ước muốn sinh tồn có nơi con người cũng như súc vật. Chúng đi tìm sự sống nhưng đã lạc hướng.

    Cũng thế, không có người nào tự tử vì chính cái chết cả. Quả cái chết ấy, người ta vẫn còn ước muốn được giải thoát. Do đó, tìm giải thoát cũng là ước muốn được sống.
    Tất cả chúng ta ai cũng khao khát sự sống. Thế nhưng, lắm khi chúng ta lầm đường lạc lối. Cũng như người thủy thủ đọc sai hải bàn, cũng như người phi công đọc sai bản đồ, chúng ta đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống của chúng ta. Những ảo ảnh và phù phiếm của cuộc sống lôi kéo chúng ta đến những bóng mờ của chết chóc mà chúng ta không hay biết. Khi chợt tỉnh, thấy mình mắc cạn như những chú cá voi thì đã quá muộn. Chúa Giêsu chính là Ðường Ði của chúng ta. Chỉ có Ngài mới dẫn đưa chúng ta đến Sự Sống đích thực.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  13. Được cám ơn bởi:


  14. #9
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    11/04

    Khả năng chinh phục


    Thứ Hai Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 8, 1- 11

    1Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu. 2Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. 3Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, 4rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. 5Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" 6Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. 7Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi." 8Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" 11Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"


    Suy niệm:
    1. Những kẻ “đạo đức” trong hai chuyện trên đều muốn giết người. Những ông trong Cựu Ước muốn giết người vì lòng họ gian ác rõ ràng: chính họ là kẻ có tội nhưng họ lên án kẻ khác để che dấu tội lỗi của mình. Còn những ông trong Tin Mừng muốn giết người để tỏ ra mình nghiêm chỉnh tuân thủ lề luật. Những ông này còn lợi dụng mạng sống của nạn nhân để gài bẫy Chúa Giêsu. Thì ra, người ta có thể tô vẽ bộ mặt đạo đức của mình bằng chính những mưu toan tội lỗi.
    Chúa Giêsu buồn vì những người đạo đức giả dối đó. Ngài nhắc họ “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Tôi có đang hay sắp ném đá ai không? Hãy trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu.
    “Ta không kết án chị đâu. Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa.” Chúa không kết án ta, ta hãy cảm mến lòng khoan dung của Ngài. Nhưng không nên lợi dụng lòng khoan dung ấy “Từ nay đừng phạm tội nữa.” Cảm mến tình Chúa thì đừng làm Chúa buồn nữa.
    Chú giải đoạn Tin Mừng này, một nhà Thánh Kinh viết “Luôn có rủi ro khi ta tha thứ,” nghĩa là nhiều khi người được tha lại đi phạm tội nữa. Chính vì muốn bảo đảm, tránh rủi ro đó mà nhiều người không tha thứ. Nhưng Chúa Giêsu dám chấp nhận rủi ro. Phần tôi thì sao?
    Đọc chuyện này dưới góc cạnh tâm lý, ta còn thấy thêm rằng xét đoán người khác là một cám dỗ thường xuyên và kết án người khác nhiều khi cũng là một thứ khoái lạc. Bởi đó nhiều người rất thích xét đoán và kết án.
    Tv 32 có thể giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của người phụ nữ ngoại tình, và của …chính chúng ta: “Phúc cho ai có tội mà được tha, có lỗi lầm mà được khỏa lấp” (Tv 32,1).
    2. Đức cha Bossuel là một văn hào và một nhà hùng biện pháp đã tuyên bố: "Ai muốn tranh luận giáo lý, hãy đến với tôi, tôi sẽ làm cho họ thua lý." Còn Đức cha Salêsitô thì lại chinh phục những người lạc giáo bằng cách đón tiếp, lắng nghe, tìm hiểu và giải quyết những thắc mắc của họ.
    Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho thấy Ngài có khả năng chinh phục lạ thường. Không ai có uy quyền như Ngài để làm những việc kỳ diệu, để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến: những lời Ngài nói có sức hấp dẫn đến độ dân chúng nghe Ngài đã nhận xét: "Không ai ăn nói được như Ngài.” Tuy nhiên, quyền năng chinh phục của Ngài không hủy diệt sự tự do con người. Trước thái độ không tin và bắt bẻ của người Biệt phái, Ngài đã dùng ngôn ngữ của con người để mặc khải sự thật cao cả của Thiên Chúa, sự thật có sức cứu rỗi.
    Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta xét lại thái độ sống đức tin của chúng ta: biết bao lần Chúa Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong đời sống cá nhân chúng ta cũng như trong sinh hoạt cộng đoàn để nhắc nhở chúng ta rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, là ánh sáng, là chân lý, nhưng chúng ta đã nhìn nhận ánh sáng và chân lý Ngài đem đến với tất cả chân thành và khiêm tốn chưa? Tác giả tập sách Đường hy vọng viết:
    "Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con kính mến, nhưng đúng hơn Ngài là Đấng con phải để con Ngài yêu thương. Nhân loại cảm thấy mình làm được mọi sự, nhưng không biết tại sao mình sống, mình đi về đâu, tương lai thế nào. Nhân loại đang trải qua cơn khủng hoảng hy vọng, nhưng có thể chính cá nhân chúng ta cũng đang gặp cơn khủng hoảng đó, vì chúng ta không có đức tin trọn vẹn, không chấp nhận sự thật mà Chúa mạc khải… Ta là Ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống. Đó là bí quyết của niềm hy vọng."
    Xin Chúa gia tăng đức tin và hướng dẫn chúng ta theo ánh sáng chân lý để cuộc đời chúng ta trổ sinh hoa trái làm vinh danh Chúa và phục vụ anh em.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Bánh Trường Sinh. Bánh Thánh Thể của Chúa sẽ mang lại cho chúng con sự sống đời đời. Xin Chúa thương giải cứu linh hồn chúng con khỏi bóng tối của tội lỗi và sự chết. Xin Chúa hãy đánh thức tâm hồn chúng con đang chìm đắm trong những đam mê, tội lỗi.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin ban cho chúng con lòng mến yêu vào Chúa. Xin ban cho chúng con đức tin vững vàng để chúng con buông mình trong sự quan phòng của Chúa. Đức tin sẽ nâng chúng con dậy sau những lần vấp ngã. Đức tin sẽ giúp cho lòng cậy trông của chúng con thêm vững vàng hơn. Đức tin sẽ xé tan bức màng tang tóc, buồn đau để chúng con luôn hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Dù lòng chúng con còn ngổn ngang trăm chiều. Dù tâm trí chúng con còn bấn loạn hoang mang. Dù thân xác yếu đuối ươn hèn, nhưng chúng con tin Chúa sẽ luôn nâng đỡ chúng con. Chúa mãi mãi là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng con.
    Lạy Chúa là Đấng đầy quyền năng, Chúa đã phán một lời để phục sinh sự sống cho Lagiaro. Chúa đã tháo cởi ràng buộc sự chết cho Lagiaro. Xin Chúa cũng cứu lấy linh hồn chúng con. Xin ân sủng Chúa gột rửa linh hồn chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin ban lại cho chúng con một tâm hồn tinh tuyền, trong trắng là đền thờ của Chúa. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net


    _______________________________


    Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất

    Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
    Khi quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
    Ðám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
    Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
    Ai trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
    Với Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  15. #10
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    12/04

    Tin nhận Chúa


    Thứ Ba Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 8, 21-30


    21Đức Giêsu lại nói với họ: "Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được." 22Người Do Thái mới nói: "Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: "Nơi tôi đi, các ông không thể đến được? "23 Người bảo họ: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. 24Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết." 25Họ liền hỏi Người: "Ông là ai?" Đức Giêsu đáp: "Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. 26Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói." 27Họ không hiểu là Đức Giêsu nói với họ về Chúa Cha. 28Người bảo họ: "Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. 29Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người." 30Khi Đức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.


    Suy niệm:
    1. Cụ Alexis đã viết thư cho mình 35 năm trước. Đúng ngày được 60 tuổi, cụ mở thư ra đọc: "Bạn thân mến, mừng kỷ niệm 60 năm sinh nhật của bạn, kể từ hôm nay, bạn bắt đầu bước đi trên một đoạn đường mới. 60 năm đã qua và kể như đời bạn đã xế chiều, dù bạn vẫn còn khoẻ, nhưng sức dẻo dai đã kém hơn trước nhiều. Bạn hãy bảo vệ sức khoẻ để còn đóng góp sức lực vào phúc lợi chung. Bạn hãy biết ra đi, biết rút lui cách nhẹ nhàng và nhường chỗ cho đàn em có khả năng thể xác và tinh thần hơn bạn. Nhưng không phải rút lui để tìm nhàn hạ. Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của 60 năm đầy nụ cười và nước mắt của bạn cho đàn em, và bạn hãy sung sướng khi thấy họ thành công hơn bạn, vì nhờ họ Thiên Chúa được vinh danh hơn. Bạn hãy tiếp tục dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng theo sức bạn, theo tuổi bạn. Bạn hãy chuộc lại những thời gian bạn đã lãng phí trong suốt 60 năm qua. Hãy kiểm điểm trước mặt Chúa, hãy rút kinh nghiệm từ quá khứ, hãy cảm tạ Chúa và xám hối trước mặt Ngài. Bạn hãy dành quãng đời còn lại để làm một việc gì cho Chúa, một việc mà giờ đây Chúa đang mời gọi bạn cộng tác. Bạn đừng quên rằng bạn đang tiến về Nhà Cha mỗi phút một gần hơn. Bạn hãy sẵn sàng thoát ly địa vị là của cải trần gian. Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời bạn. Hãy sống đẹp lòng Chúa, vui lòng với gia đình và bạn bè. Hãy quyết tâm mãnh liệt, hãy thực hiện nghiêm túc, hãy kết hiệp với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Ân sủng và bình an của Chúa ở cùng bạn."
    Thành tâm thiện chí của cụ Alexis đáng chúng ta suy nghĩ. Thực hiện thánh ý Chúa từng giây phút hiện tại là gì, nếu không phải là tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, để đừng chết trong tội lỗi.
    Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Đấng "Ta là," đồng thời mạc khải mầu nhiệm Tử nạn của Ngài để lôi kéo mọi người lên cùng Thiên Chúa. Mạc khải chính mình cho con người, Chúa Giêsu cũng mạc khải mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Tin nhận Chúa Giêsu, thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa, Đấng đã sai Con một Ngài xuống trần, để cứu rỗi chúng ta. Đây là mầu nhiệm mà chúng ta cần phải chiêm ngắm và dâng lời cảm tạ để nhờ đó đời sống chúng ta được canh tân đổi mới.
    2. Chính khi Chúa Giêsu “bị” giết chết trên cây Thập Giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho loài người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý “bị” và “được” này.
    Nhìn lên Thập giá, ta có thể thấy rất nhiều điều:
    Thấy tội lỗi của mình.
    Thấy tình thương của Chúa.
    Thấy giá trị của đau khổ.
    Thấy ơn cứu độ.
    Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ…
    Một bà góa đến xin Cha sở chứng nhận để bà được trợ cấp, vì con trai bà đi lính và đang phục vụ ở nước ngoài. Cha sở chợt nghĩ đến sứ điệp Thánh Kinh nên nói với bà:
    Có phải công lao của bà đáng lãnh số tiền đó?
    Không ạ! Đó là công lao của con trai con. Cháu muốn con được hưởng. Con chỉ việc kí tên và lãnh tiền.
    Phải, cũng như không phải công lao của bà mà bà được lãnh ơn cứu độ, mà đó là công lao của Con Thiên Chúa trên núi Canvê. Ngài muốn bà hưởng công lao đó. Bà chỉ việc kí tên và lãnh nhận.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, Là Đấng Emmanuel ở cùng chúng con. Chúng con tin rằng Chúa hằng ở cùng chúng con. Khởi đầu bằng việc nhập thể làm người. Chúa thực sự hòa nhập với lịch sử nhân loại. Hai ngàn năm trôi qua, là quãng thời gian Chúa cùng đồng hành với vũ trụ và lịch sử. Chúa đi vào trần gian để ghi dấu tình yêu thủy chung và không phôi phai nơi trần thế. Biểu tượng tột đỉnh của tình yêu chính là tình yêu tự hiến. Chúa hiến mình chịu chết trên thập tự giá để cứu độ trần gian. Chúa còn tự hiến chính Máu Thịt mình nên của ăn và của uống nuôi dưỡng chúng con. Chúng con xin tri ân và cảm tạ Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Lời tâm huyết mà Chúa hằng mong muốn nơi chúng con: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em.” Lời đó không chỉ là lời mời gọi mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Nếu chúng con là môn đệ của Chúa mà không diễn tả được tình yêu trong ngôn ngữ, hành động của mình thì chúng con chỉ là kẻ dối gian. Theo Chúa là trở nên giống Chúa. Theo Chúa là quên đi bản thân mình mà hòa nhịp với trái tim yêu thương của Chúa. Như thế, theo Chúa là chọn con đường tình yêu để đến với tha nhân, là chọn cung cách yêu thương để đối xử với tha nhân. Là hoạ lại hình ảnh yêu thương của Chúa giữa thế gian.
    Lạy Chúa, chúng con muốn được theo Chúa cho đến cùng. Xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con luôn nhạy cảm trước nhu cầu của tha nhân.
    Xin ban cho chúng con tấm lòng của Chúa để chúng con yêu thương phục vụ mọi người. Sống bao dung. Sống độ lượng. Sống vâng phục để ý Chúa được nên trọn. Lấy nhân nghiã làm nền tảng để cư xử tốt với mọi người. Chọn sống thanh bần mà hòa mình với tha nhân. Xem chữ tín như mối dây liên kết với đồng loại.
    Xin ban cho chúng con ánh mắt của Chúa, để chúng con biết cảm thông trước những cảnh đời bất hạnh của tha nhân. Cảm thông cả những yếu đuối tội lỗi của họ.
    Xin ban cho chúng con đôi tay của Chúa để chúng con xoa dịu những đau thương khốn cùng của anh em. Vực dậy những tâm hồn đang ngã qụy trước những thất bại, đắng cay. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để thi ân cho kẻ cơ hàn.
    Xin ban cho chúng con đôi chân của Chúa để chúng con dám đến với tha nhân trong yêu thương phục vụ. Xin giúp chúng con đừng bao giờ chùn bước trước gian nguy thử thách. Một lòng tín trung bước theo Chúa cho đến cùng.
    Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Xin cho chúng con biết dùng tình yêu làm biểu tượng cho cuộc sống của mình. Xin cho chúng con biết sống và yêu như Chúa đã sống để yêu thương chúng con. Amen.

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    _________________________________


    Ra Ði Là Chết Trong Lòng Một Ít

    Phật giáo Trung Hoa rất nhớ ơn và hãnh diện vì có thiền sư là Ðường Tam Tạng. Ông là người đã có công vượt núi trèo non để đi Tây Trúc thỉnh Kinh đem về phổ biến cho dân gian.
    Truyện Tây Du Ký đã ghi lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Nhưng những gian nan thử thách xảy đến cho thiền sư họ Ðường không phải chỉ là gai góc hiểm trở của đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu mà ba người môn đệ thân tín nhất của thầy là hiện thân. Tôn ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng, ba cái tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Ðường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chính quả. Ba nết xấu đó là: lòng kiêu căng, lòng ham vật dục và tính lười biếng.
    Ra đi là chết trong lòng một ít... Thiền sư họ Ðường có lẽ đã phải chiến đấu và hao mòn vì những tham sân si trong lòng thầy.
    Tin Mừng cũng nhắc đến một cuộc ra đi: đó là cuộc ra đi của Chúa Giêsu. Ngài rời bỏ quê hương để đi Galilêa. Galilêa chỉ cách Nagiarét vài chục cây số... Nhưng với Chúa Giêsu cuộc trẩy đi này bao hàm một cuộc lột xác và từ bỏ trọn vẹn. Ngài từ bỏ tất cả để vào sa mạc.
    Ra đi có nghĩa là ra khỏi chính mình và không quay nhìn lại phía sau. Ra đi tức là chấp nhận chết đi trong lòng một ít.
    Thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, mặc dù chưa một lần ra khỏi bốn bức tường của tu viện, đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo.
    Một lúc nào đó, có lẽ chúng ta cũng khao khát được mang Tin Mừng của Chúa đến một nơi xa lạ... Ước mơ ấy có thể làm cho chúng ta quên đi thựck tại của không biết bao nhiêu người thiếu thốn lương thực cho thể xác cũng như tinh thần.
    Ra đi loan báo Tin Mừng, trước tiên chính là ra lhỏi con người của chúng ta. Ra khỏi con người của thiển cận, ích kỷ của chúng ta để mặc lấy một cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện của tha nhân.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  16. #11
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    13/04

    Chân lý sẽ giải thoát


    Thứ Tư Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 8, 31-42

    31Vậy, Đức Giêsu nói với những người Do Thái đã tin Người: "Nếu các ông ở lại trong Lời của Tôi, thì các ông thật là môn đệ Tôi; 32các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông." 33Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?" 34Đức Giêsu trả lời: "Thật, Tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. 36Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. 37Tôi biết các ông là dòng dõi ông Ápraham, nhưng các ông tìm cách giết Tôi, vì Lời Tôi không thấm vào lòng các ông. 38 Phần Tôi, Tôi nói những điều đã thấy nơi Cha Tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các ông nói." 39Họ đáp: "Cha chúng tôi là ông Ápraham." Đức Giêsu nói: "Giả như các ông là con cái ông Ápraham, hẳn các ông phải làm những việc ông Ápraham đã làm. 40Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết Tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà Tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Ápraham đã không làm. 41Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm." 42Đức Giêsu bảo họ: "Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến Tôi, vì Tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, Tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai Tôi.”


    Suy niệm:
    Khi thi hành nhiệm vụ khâm sứ Toà thánh tại Bulgari, Đức cha Roncali nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài về mọi mặt. Đọc thư xong, Đức cha Roncali không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị linh mục kia. Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Hồng y, rồi đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Nhân dịp về Rôma yết kiến vị Tân Giáo hoàng, vị linh mục đó cũng ghi tên đi theo phái đoàn và được đặc ân tiếp kiến riêng Giáo hoàng. Vị linh mục đó thuật lại như sau:
    Trong lúc đứng ở phòng khách đợi phiên vào triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư năm xưa và thầm nghĩ mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây ngài không còn nhớ nữa đâu. Đang suy nghĩ miên man thì cánh cửa mở ra, cha thư ký dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở bắt tay và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo phận, và nhắc đến các bạn ở Bulgari. Câu chuyện vẫn diễn ra trong bầu khí thân tình. Bỗng Đức Thánh Cha đưa tay lấy cuốn Kinh Thánh và từ từ mở ra trong đó có bức thư của tôi, ngài dịu dàng nói: "Con đừng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Kinh Thánh và hàng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con."
    Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo Lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.
    Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: "Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Chúa dạy không ai có thể làm tôi hai chủ. Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để sống đời nội tâm. Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn của các hành động của con, thì sẽ thế nào? Con chỉ có một của ăn là Thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là con sống và lớn lên bằng ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh sống vui, ngoài ý Chúa con sẽ chết. Con chỉ có giây phút đẹp nhất, đó là giây phút hiện tại. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu từng giây phút con tin vào Lời Chúa và thực hiện thánh ý Ngài."
    Ý Chúa muốn cho mỗi người chúng ta trong hiện tại là trở thành những người con thảo, hãy để Lời Chúa thấm nhập và hướng dẫn cuộc sống chúng ta.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn sự sống của chúng con. Chúng con tin và thờ lạy Chúa. Ngay từ khi dựng nên Adam, Chúa đã thổi hơi và thông truyền sự sống của Chúa cho con người. Thế nhưng, vì kiêu ngạo tổ tông của chúng con đã đánh mất sự sống trường sinh mà Chúa đã ban trong khi tạo dựng.
    Vâng lạy Chúa, hậu quả của tội tổ tông là sự chết đã đi và thế gian. Con người phải đau khổ vì lỗi lầm của mình gây ra. Con người đã bị những tham sân si trói buộc mình trong những đam mê thấp hèn, trong những ích kỷ kiêu căng. Thế nhưng tình thương của Chúa không muốn cho con người phải trầm luân muôn đời. Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con, để phục hồi sự sống ban đầu, và tặng ban sự sống thần linh trong Bí tích Thánh Thể, hầu dưỡng nuôi và dẫn con người đến sự sống đời đời.
    Lạy Chúa Giêsu, là Đấng mà ai gặp gỡ cũng được Chúa biến đổi, thăng tiến. Những con người tội lỗi như Giakêu, như Madalêna, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp đã tìm được niềm vui của sự hoán cải, của tha thứ và cảm thông. Những con người đang nặng trĩu những hoang mang lo lắng như hai môn đệ đi làng Emmau đã bừng sáng niền tin và hy vọng. Những trái tim chân thành như các tông đồ năm xưa đã tìm được lẽ sống để hân hoan bước đi theo Chúa. Tất cả những cảnh đời đó đã được biến đổi, được tăng thêm sức mạnh và nghị lực nhờ gặp được Chúa và trọn vẹn tín thác nơi Chúa.
    Giờ đây trước tôn nhan Chúa, chúng con cũng mang khuôn mặt của những con người đầy khiếm khuyết tội lỗi, xin giải thoát chúng con khỏi những ràng buộc của tội lỗi, những đam mê bất chính để chúng con sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết mặc lấy tâm tình của Chúa để những ai gặp gỡ và tiếp xúc với chúng con cũng tìm được sự nâng đỡ, khích lệ và bình an. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    ________________________________


    Emmaus

    Nói đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
    Phong trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.
    Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là : "Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác...". Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Ðó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
    Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
    Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để chế biến và bán lại, như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
    Hiện nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.
    Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.
    Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan... Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
    Ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
    Ðó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
    Chúa Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  17. #12
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    14/04

    Xét đoán mù quáng


    Thứ Năm Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 8, 51-59

    51"Thật, Tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời Tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết." 52Người Do Thái liền nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: "Ai tuân giữ lời Tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.” 53Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Ápraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?" 54Đức Giêsu đáp: "Nếu Tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của Tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh Tôi chính là Cha Tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. 55Các ông không biết Người; còn Tôi, Tôi biết Người. Nếu Tôi nói là Tôi không biết Người, thì Tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng Tôi biết Người và giữ Lời Người. 56Ông Ápraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của Tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ." 57Người Do Thái nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Ápraham!" 58 Đức Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Ápraham, thì Tôi, Tôi Hằng Hữu!" 59Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.


    Suy niệm:
    Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài. Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tuông đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý. Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.
    Các linh mục đồng nghiệp của cha xứ Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tị. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn. Đó cũng là thái độ của những người Do Thái, không chấp nhận chân lý mạc khải như được kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
    Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mạc khải thêm về thân thế của Ngài, về nếp sống của những ai tin nhận Ngài : "Ai giữ lời Ta thì muôn đời sẽ không phải chết." Với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa. "Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỉ ám." Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ, chụp mũ. Con người dễ tin theo những sự thật khác hơn sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tị ham danh.
    Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết: "Đức Kitô là sự thật, không phải báo chí là sự thật, không phải truyền thanh, truyền hình là sự thật, con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, sang hay hèn, khen hay chê, không sao cả. Chấp nhận tiến trên đường hy vọng hồng phúc về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Không nhượng bộ ích kỷ. Con không thể gọi đen là trắng, xấu là tốt, gian là ngay được."
    Trên con đường canh tân của mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của chúng ta trước những chân lý mạc khải và trước chính Đức Kitô, Đấng đang thôi thúc chúng ta tiến trên đường tin, cậy, mến.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con thật lòng tạ ơn tình thương của Chúa dành cho mỗi người chúng con. Cho dù cuộc đời chúng con còn đầy những tội lỗi và lầm lỡ, nhưng Chúa vẫn trao ban cho chúng con biết bao ơn lành hồn và xác. Xin cho chúng con biết trân trọng những ân ban của Chúa, và khiêm hạ đón nhận trong tâm tình cảm mến tri ân. Xin cho chúng con cũng được trở nên tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình và cho mọi người.
    Lạy Chúa, mỗi lần chúng con được rước Chúa là một lần chúng con được mời gọi hoàn thiện mình trở nên thánh thiện theo hình ảnh Chúa. Mỗi lần chúng con rước Chúa là chúng con được bổ dưỡng bởi sức sống phục sinh của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong tình thương của Chúa với trọn tâm tình hân hoan như lời thánh vịnh mô tả:
    “Hạnh phúc thay ai sống hoàn thiện,
    biết noi theo luật pháp Chúa Trời.
    Con thành tâm dâng lời cảm tạ,
    vì được biết những quyết định công minh.
    Thánh chỉ Ngài con xin tuân giữ,
    xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con.
    Xin Chúa luôn ở bên cuộc đời chúng con. Xin nâng đỡ những yếu hèn nơi bản thân chúng con. Xin giúp chúng con biết hoàn thiện cuộc đời mình theo thánh ý Chúa, ngõ hầu làm rạng danh Chúa trong cuộc đời hôm nay. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    __________________________


    Xuống Ðường

    Thông thường, hai chữ "Xuống Ðường" gợi lên cho chúng ta hình ảnh của những chống đối, biểu tình, đôi khi mang tính cách bạo động trong đường phố. Nhưng cũng có những trường hợp người ta "xuống đường" là để gặp gỡ, cảm thông với người khác, nhất là những người không nhà không cửa, những người sống bên lề đường, những người bị đẩy ra bên lề xã hội cách này hay cách khác: Ðó là trường hợp "xuống đường" của một số giáo dân thuộc xứ Saint Leu Gilles thuộc phận 16 của thủ đô Paris Pháp quốc.


    Từ 8 năm qua, một số giáo dân thuộc xứ trên đây đã tụ họp lại để thành lập một hiệp hội có tên là "Giải phóng kẻ bị giam cầm". Thật ra đây không phải là một chương trình xã hội quy tụ các nhà giáo, các cán sự xã hội để săn sóc cho những người đầu đường xó chợ, mà chỉ là một nhóm nhỏ gồm những tín hữu chỉ muốn xuống đường, ra khỏi bốn bức tường nhà thờ, hoặc mái ấm gia đình để đến gặp gỡ, trò chuyện với những người đứng đường như các cô gái điếm, những người nghiện ngập. Mục đích duy nhất của những gặp gỡ này chính là thiết lập tình thân hữu với những người mà ai cũng ghét bỏ.

    Một thanh niên thường xuyên đến gặp gỡ với những cô gái điếm ở đường Saint Denis đã giải thích như sau: "Trước mặt Chúa, chúng ta cũng như những cô gái điếm đứng đường, nhưng chúng ta biết rằng Chúa yêu thương chúng ta bên kia tất cả những hành động đĩ diếm của chúng ta. Các cô gái điếm đánh động lương tâm đang ngủ yên của chúng ta. Họ mời gọi chúng ta hãy tự đặt vào trong cái nhìn của Chúa và đừng bao giờ kết án ai."

    Mục đích của những người xuống đường trên đây không hẳn là thuyết phục những người lầm đường lạc lối, ăn năn hối cải và quay về với chính lộ. Tất cả cố gắng của họ chỉ là nói với các cô gái điếm, những người nghiện ngập, những kẻ lang thang đầu đường xó chợ rằng: Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ðể bày tỏ sứ điệp ấy, những người làm công tác tông đồ này chỉ có mỗi một động tác là lắng nghe, hỏi han với tất cả yêu thương và cảm thông.

    Nếu có một thứ hoán cải, thì chính những người trong xã hội phải là những người đầu tiên hoán cải: hoán cải trong thái độ sống đối với người khác, hoán cải trong cái nhìn đối với người khác. Chúa Giêsu đã từng nói: Các cô gái điếm sẽ vào Nước Chúa trước các ngươi. Phải chăng, khi xuống đường đến với người khác, những người bị bỏ rơi trong xã hội, chính chúng ta không là những người cải hóa cho Tin Mừng?

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  18. #13
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    15/04

    Sống theo Chúa


    Thứ Sáu Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 10,31-42


    31Người Do Thái lại lấy đá để ném Đức Giêsu. 32Người bảo họ: "Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho Tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá Tôi?" 33Người Do Thái đáp: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." 34Đức Giêsu bảo họ: "Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: "Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh?” 35Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, 36thì Tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo Tôi: "Ông nói phạm thượng! vì Tôi đã nói: "Tôi là Con Thiên Chúa"? 37Nếu Tôi không làm các việc của Cha Tôi, thì các ông đừng tin Tôi. 38Còn nếu Tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin Tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Chúa Cha." 39Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ. 40 Đức Giêsu lại ra đi, sang bên kia sông Giođan, đến chỗ trước kia ông Gioan đã làm phép rửa, và Người ở lại đó. 41Nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." 42Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.


    Suy niệm:
    Có người hỏi chị Lucbic: "Làm sao chị có thể theo dõi hàng trăm ngàn người thế giới? Làm sao chị có thể hướng dẫn những người theo cùng một linh đạo?" Chị mỉm cười trả lời: "Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ theo Chúa từng giây phút là nếu tôi sống theo Chúa thì những người khác sẽ theo tôi."
    Bí quyết sống của chị Lubich thật ra được gợi hứng từ nếp sống của chính Chúa Giêsu. Ngài đã không nói suông, nhưng đã hành động, đã thi ân cho những ai thành tâm, tìm đến với Ngài. Ngài đã sống điều Ngài giảng dạy và luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa. Ngài đã như nài nỉ những kẻ không tin Ngài rằng: "Nếu các người không thể tin những lời Ta nói thì ít ra hãy tin những việc Ta làm."
    Trong các cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài và Chúa Cha: "Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha." Nhưng người Do Thái không thể hoặc không muốn tin vào Chúa, họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người, do đó họ đã lượm đá ném Chúa vì cho Ngài lộng ngôn khi dám xưng mình là Thiên Chúa. những người Do Thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ vui lòng với những gì đang làm, họ không cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi.
    Người Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng xã hội không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa và những gì liên hệ đến Ngài.
    Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã nhắn nhủ: "Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi người khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả, con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đó là trách nhiệm của người Kitô hữu: không được làm ngơ để người khác ném đá Chúa. Mỗi phút giây, con đang thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử.
    Nhìn thấy sự khó tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình sao mà dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra mình đã được biết Chúa và tin Chúa, ta không nhận ra đức tin là một hồng ân sao? Hãy cám ơn Chúa đã ban đức tin cho chúng ta, và xin Ngài gìn giữ đức tin ấy khỏi bị lạc mất.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể như dấu chỉ sự hiệp nhất chúng con nên một trong Chúa, như lời bài hát: “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây.” Bởi lẽ, tuổi thơ ngây con cái thường vui đùa bên cha mẹ, luôn cảm thấy an vui khi cha mẹ ở bên. Nhờ sự hiện diện của cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau và mái nhà rộn rã tiếng cười vui. Qua Bí tích Thánh Thể Chúa hiện diện giữa chúng con như người cha luôn ở bên con cái mình. Sự hiện diện của Chúa đã quy tụ cộng đoàn chúng con thành một gia đình giáo xứ. Niềm vui của sự xum vầy và hạnh phúc của tình huynh đệ sẽ chan hòa nếu chúng con biết sống trong sự hướng dẫn và quan phòng của Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu, nhờ Chúa mang lấy thân phận con người mà chúng con được làm con cái Thiên Chúa. Chúng con xin tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương. Xin cho chúng con biết đối xử với nhau trong tình thân ái của anh em con một cha trên trời. Xin giúp chúng con đừng vì tính ích kỷ, kiêu căng để rồi làm mất vẻ đẹp hiệp nhất nơi Giáo Hội, nhưng luôn biết sống khiêm tốn để cùng nhau tôn vinh chúc tụng Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen

    Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    __________________________________


    Hoàng Tử Tí Hon

    Trong một chuyện ngắn mang tựa đề "Hoàng tử tí hon', văn hào Pháp Saint Exupery cókể lại chuyện như sau: Máy bay trục trặc, ông đã phải đáp xuống giữa sa mạc Sahara. Sáng hôm sau, khi thức dậy, ông thấy có một cậu bé luẩn quẩn bên cạnh mình. Cậu bé cứ nài nỉ ông vẽ cho cậu một con cừu.


    Viên phi công đành phải chiều theo ý của cậu bé. Nhưng con cừu đầu tiên ông vẽ được lại là một con cừu già nua. Không vừa ý, ông lại tiếp tục vẽ. Nhưng kết quả chỉ là một con cừu bệnh hoạn. Không biết cách nào làm vừa lòng cậu bé, ông mới vẽ một cái họp với nhiều lỗ xung quanh và nói với cậu: "Con cừu đang ở trong cái hộp này bé ạ".

    Viên phi công ngạc nhiên vô cùng, bởi vì ông vừa giait thích thìcậu đã reo lên: "Ðây chính là điều mà cháu đang chờ đợi... Xem kìa, con cừu đang ngủ". Nhờ một cái hộp như thế, cậu bé tha hồ tưởng tượng theo ý thích của nó. Nó còn tin rằng cái hộp này quả thực là hữu ích vì con cừu mà nó chưa bao giờ thấy vẫn có nơi trú ngụ.

    Trong cuộc sống của chúng ta, có lẽ cũng có nhiều điều tương tự xảya như thế. ngay trong Giáo Hội của chúng ta, cũng xảy ra nhiều điều như thế.

    Có lẽ lắm khi chúng ta cũng xin Chúa Giêsu hãy vẽ cho chúng ta một Giáo Hội, và Ngài đã chiều theo ý của chúng ta. Ngài đã vẽ cho chúng ta một Giáo Hội. Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều yếu tố về Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội ấy chẳng khác nào một bức tranh mà các màu sắc được phân tán rải rác khắp nơi... Nơi đây, ngài bảo rằng Giáo Hội của Ngài là Ánh Sáng muôn dân. Nơi khác nữa, ngài lại loan báo rằng Giáo Hội đó như một cây vĩ đại có thể dùng làm chỗ cho chim trời đến đậu.

    Dĩ nhiên ai trong chúng ta ai cũng biết rằng Giáo Hội không phải là Ðức Giáo Hoàng, Giáo Hội không phải là tòa thánh Vatican. Giáo Hội lại càng không phải là một vị giám mục hay các linh mục... Giáo Hội của Ðức Kitô là một thực tại gồm những con người, nhưng lại vượt lên trên những con người.

    Bổn phận của mỗi người Kitô chính là vẽ lại khuôn mặt của Giáo Hội. Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô hay không, Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội của người nghèo hay không là tùy thuộc ở những nét điểm tô mà chúng ta dành cho Giáo Hội.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  19. #14
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    16/04

    Chết thay người khác


    Thứ Bảy Tuần thứ 5 Mùa Chay

    Lời Chúa:
    Ga 11, 45-56


    45Trong số những người Do Thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 46Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pharisêu và kể cho họ những gì Đức Giêsu đã làm. 47Vậy các Thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. 48Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." 49Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caipha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, 50các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." 51Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, 52và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. 53Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giêsu. 54Vậy Đức Giêsu không đi lại công khai giữa người Do Thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Épraim. Người ở lại đó với các môn đệ. 55Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do Thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giêrusalem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. 56Họ tìm Đức Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?"


    Suy niệm:
    1. Cha Maximilien Kolbe, người Ba Lan, là một tu sĩ Phanxicô rất hăng say hoạt động. Cha đã tình nguyện sang truyền giáo tại Nhật trong ngành ấn loát. Nhưng sau vì bệnh lao phổi, cha phải về Ba Lan điều trị. Vào thế chiến thứ hai, vì thấy cha có ảnh hưởng mạnh trên quần chúng, Đức quốc xã đã bắt cha và giam tù, tại đây cha đã tình nguyện chết thay cho một người bạn đồng tù.
    Phải chết thay người khác có thể là một hành động do hận thù bất công, nhưng với tình yêu Chúa, người Kitô có thể hiến mạng sống mình cho người khác. Chính Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này: những người Do Thái không tin đã bắt Chúa phải chết thay để người Rôma khỏi hủy diệt dân tộc Do Thái, nhưng trong chương trình cứu độ, Ngài đã chấp nhận hiến mạng sống mình để mọi người được sống.
    Những người Do Thái đã nhìn hành động của Chúa theo mầu sắc chính trị. Họ đã thắc mắc: "Ta phải làm gì? Vì con người ấy làm nhiều sự lạ. Nếu cứ để như vậy, mọi người sẽ tin vào ông ta và quân Rôma sẽ đến hủy diệt nơi thánh và dân tộc ta." Lý luận của người Do Thái không tin thật lộn xộn: Dân chúng tin theo Chúa là việc tôn giáo, quân Rôma đến phá hủy là việc chính trị, làm sao việc tôn giáo lại kéo theo hậu quả chính trị như thế được. Vả lại chính quyền Rôma lúc đó cho người Do Thái được tự do hành đạo, và chính Tổng trấn Philatô sau này cũng đâu muốn kết án Chúa vì lý do tôn giáo. Người Do Thái đã phải tố cáo Chúa về tội chính trị: xúi dân làm loạn, không nộp thuế cho Hoàng đế César. Thật là trớ trêu, nhưng Chúa đã không phản đối. Ngài chấp nhận một cái chết bất công để biến nó thành cái chết hy sinh cứu chuộc nhiều người
    Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: "Đây là bằng chứng để biết được lòng mến, đó là Đấng ấy đã thí mạng vì ta và ta cũng phải thí mạng vì anh em. Con hỏi cha: đâu là mức độ dấn thân? Hãy làm như Chúa Giêsu… Cuộc đời con phải hiến dâng để bắc nhịp cầu hy vọng đưa người khác đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Nơi Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả là anh em. Con nắm vững một đường lối tông đồ thí mạng vì anh em, con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục người khác về với Chúa.
    2. “…Với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối.” Trong số những người được Chúa chết thay, có tôi nữa.
    Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác. Ngài nêu lên cho chúng ta một lý tưởng rất đẹp mà sự khôn ngoan của chúng ta không bao giờ nghĩ tới được. Nếu hôm nay tôi chưa chết thay cho người khác được, thì ít ra hãy tập những hành vi nho nhỏ chịu cực khổ vì người khác, cho người khác và thay cho người khác.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, mùa chay luôn mời gọi chúng con cùng vác thập giá đi theo Chúa. Xin Mình Máu Thánh Chúa thêm sức mạnh để chúng con can đảm vượt qua những chông gai trên đường đời.
    Lạy Chúa, cuộc đời có đau khổ và hạnh phúc. Có những nụ cười và có cả những giọt nước mắt. Có những thành công và thất bại. Chúng con cám ơn Chúa đã chia sẻ phận người với chúng con. Chúa đã sống trọn kiếp người ba chìm bảy nổi và đầy sóng gió nguy nan. Chúa đã trải qua những năm tháng hồn nhiên của tuổi thơ. Chúa âm thầm sống theo từng lứa tuổi để yêu thương và cảm thông với chúng con. Cuộc đời Chúa không thiếu những lời khen và cũng không ít những lời chê. Chúa đã từng làm ơn để rồi bị mắc oán. Chúa cũng cảm nghiệm nỗi đau của sự vong ân bội nghĩa của tha nhân. Nhưng Chúa đã vượt qua tất cả nhờ sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Xin cho chúng con cũng biết tìm kiếm ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin giúp chúng con luôn quảng đại gieo vãi tình yêu thương mà không mong đền đáp.
    Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đi theo Chúa trên con đường thập giá hy sinh. Xin giúp chúng con biết mục nát đời mình nên nguồn sống cho anh em. Xin giúp chúng con biết chấp nhận thực tại cuộc sống: có vui, có buồn, có đau khổ và có hạnh phúc, nhưng điều quan yếu là dầu trong hoàn cảnh nào chúng con cũng luôn có Chúa bên mình. Amen

    Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
    http://tgpsaigon.net

    _______________________________


    Không Quyền Lực Nào

    "Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền klực nào!". Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.
    Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: "Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt... Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết...".
    Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: "Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa".
    Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người...
    Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.
    Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống... Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  20. #15
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    18/04

    Lời Cảnh Tỉnh Của Chúa Giêsu


    Thứ Hai Tuần Thánh

    Lời Chúa:
    Ga 12, 1-11

    1Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. 4Một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: 5"Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" 6Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7Đức Giêsu nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. 8Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." 9Một đám đông người Do Thái biết Đức Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Ladarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 10Các thượng tế mới quyết định giết cả anh Ladarô nữa, 11vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giêsu.


    Suy niệm:
    Ðoạn Tin Mừng trên gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn luôn là một dấu gây mâu thuẫn. Nhiều người tin Chúa, mến Chúa, thương Chúa, mà cũng có nhiều người khác dèm pha, chống đối và muốn loại trừ. Những kẻ thuộc nhóm ủng hộ Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay là những người dọn tiệc đãi Chúa ở Bêtania là Lazarô, là Maria - người lấy dầu thơm xức chân Chúa. Những kẻ chống đối Chúa hay sắp đi vào con đường chống đối Ngài là các Thượng tế ganh tị, là Giuđa Iscariốt - người thủ quĩ của nhóm môn đệ chung quanh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan sát thêm thái độ của những kẻ chống đối Ngài, các Thượng tế, những người lãnh đạo của dân Do Thái và là những kẻ được dân chúng kính nể như những trí thức và đạo đức. Nhưng phải chăng đây là cái vẻ bên ngoài, vì bên trong tâm hồn xem ra như chứa đầy những chuyện xấu xa, mưu mô, ganh tị, tham quyền, sợ dân bỏ họ mà theo Chúa Giêsu? Vì thế, họ có ý định giết luôn cả Lazarô, xóa bỏ luôn cả dấu chỉ hiển nhiên của Thiên Chúa quyền năng hiện diện giữa con người.
    Quyền năng Thiên Chúa được thể hiện nơi dấu lạ cho Lazarô đã chết được sống lại. Ghét Chúa, những Thượng tế kia muốn xóa bỏ cả những dấu chỉ, những chứng tá về Chúa để lương tâm họ được yên, không còn bị quấy rầy nữa. Chúng ta có hành xử giống như những vị Thượng tế Do Thái này hay không, hay chúng ta hành xử giống như Giuđa Iscariốt. Giuđa chưa phản bội Chúa, nhưng đang trên đường phản bội Chúa với những hành động xấu được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ham mê tiền của, lấy của công để lo cho tư lợi riêng, lạm dụng danh nghĩa người nghèo, miệng nói lo cho người nghèo nhưng hành động ngược lại. Ðây là tội mà ngày nay có thể gọi là kinh doanh trên sự nghèo khổ của anh chị em.
    Hơn nữa, khi phê bình hành động tốt lành của cô Maria, xức dầu thơm nơi chân Chúa như là một việc làm phí của, thì Giuđa cho thấy tâm địa hẹp hòi của mình, Giuđa xem đồng tiền lợi lộc vật chất trọng hơn chính Chúa Giêsu và mối tương quan thân thiện với Ngài. Thường tình, nếu là bạn tốt với nhau, thì khi một người sắp ra đi, kẻ ở lại phải làm vừa ý người ra đi, để nói lên lòng quí mến của mình, nhưng Giuđa đã không hành xử như vậy với Chúa Giêsu. Là một trong mười hai tông đồ sống bên cạnh Chúa, chắc chắn Giuđa đã nghe nói đến sự ra đi đầy đau thương của Ngài tại Giêrusalem, nhưng Giuđa xem ra lãnh đạm vô tâm, vô tình với biến cố, vả lại Giuđa đã công kích hành động tốt của Maria, cho đó là một việc làm phung phí, vô ích. Giuđa đã mất đi ý thức bén nhạy để phán đoán điều gì tốt, điều gì không. Giuđa xét đoán không theo sự việc khách quan mà theo tâm tình hèn hạ của mình. Tâm hồn Giuđa thì xấu, nên xét việc tốt cũng thành xấu. Chúng ta có hành xử đúng như vậy hay không.
    Thầy trò sống thân thiết gắn bó với nhau như "bát nước đầy", còn mấy ngày nữa đâu, còn nhiều thời gian cho nhau nữa đâu mà người môn đệ thân yêu nỡ tiếc xót với Thầy mấy quan tiền nhỏ mọn. Tình với nghĩa mà hẹp hòi vậy sao? Ðời bạc bẽo và cay đắng vậy sao?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu giúp chúng con xét mình. Xin cho chúng con khiêm tốn đến cùng Chúa để Chúa giúp chúng con từ bỏ tinh thần của chúng con hiện tại và quyết chí canh tân. Xin cho chúng con biết đặt Chúa vào chỗ đứng mà Chúa đáng được như vậy trong đời sống chúng con. Xin Chúa giúp chúng con hiểu và thực hành trong đời sống chúng con.
    Lạy Chúa Giêsu, Giuđa là biểu tượng của mỗi người chúng con. Chúa có tiếc gì với chúng con? Còn gì quý nhất trên đời mà Chúa chưa ban cho chúng con? Mọi sự trong trời đất này là của Chúa mà sao Chúa như phải chờ đợi của bố thí của chúng con? Phải chăng vì yêu thương chúng con quá khiến Chúa đã hy sinh tất cả để ban tặng cho chúng con chính sinh mạng của Chúa?
    Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ sự bất kính và xúc phạm nặng nề của chúng con. Xin cho chúng con biết chân tình cảm mến như Maria để đáp lại một chút tình yêu thương vô bờ của Chúa. Amen


    _____________________________


    Ðôi Tay Cầu Nguyện

    Albrecht Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh "Ðôi tay cầu nguyện".
    Sự tích của họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
    Thế nhưng khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ nữa.
    Một ngày nọ, tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện, Durer nghĩ thầm: "Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho đôi bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn của ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn".
    Thế là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà họa sĩ.
    Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người đang nhìn bằng một con mắt khinh bỉ, bởi vì bà ta bị xếp vào loại người tội lỗi... Bất chấp mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ một bình dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân Ngài.
    Nhiều người xì xào, tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn bà và Ngài đã tiên đoán: nơi nào tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của người đàn bà được nhắc tới.
    Qua lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử, dù là một hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho mọi người nhỏ mọn đến đâu, cũng được ghi nhớ muôn đời.
    Tiền của có thể qua đi, danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn có giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, chỉ có Ðức Mến là tồn tại đến muôn đời.
    Cuộc đời của mỗi người Kitô chúng ta cũng giống như một bức tranh cần được hoàn thành. Mỗi một nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta thêm vào cho bức tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì những cày xéo của những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng vì những quảng đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho khuôn mặt ấy trở thành bất tử...
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  21. #16
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    19/04

    Sự Vấp Ngã của Giuđa và Phêrô


    Thứ Ba Tuần Thánh

    Lời Chúa:
    Ga 13, 21-33.36-38

    21Nói xong, Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy." 22Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. 24Ông Simôn Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: "Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" 25Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: "Thưa Thầy, ai vậy?" 26Đức Giêsu trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt. 27Y vừa ăn xong miếng bánh, Xatan liền nhập vào y. Đức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" 28Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. 29Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giêsu nói với y: "Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. 30Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối. 31Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. 33Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: "Nơi tôi đi, các người không thể đến được," bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. 36Ông Simôn Phêrô nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Đức Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo." 37Ông Phêrô thưa: "Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!" 38Đức Giêsu đáp: "Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.

    )
    Suy niệm:
    Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tư Chúa trong giây phút quan trọng này, có hai đặc điểm quan trọng được nêu bật ở đây: Ngài là một vị Thiên Chúa Nhập Thể làm người như chúng ta; là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa trước cuộc Thương Khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các đồ đệ, của Giuđa phản bội và của Phêrô tự phụ chối Chúa. Là một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho mình và gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ tôn vinh, Thiên Chúa được tôn vinh, chính Chúa được tôn vinh và con người được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời.
    Nơi chương 17 sau đó, Chúa Giêsu nói rõ ra nội dung chính của việc tôn vinh này như sau: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Ðấng Cha sai đến là Giêsu Kitô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm". Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về chương trình Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa muốn thực hiện điều đó cách hoàn hảo, nhưng đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều sa vào. Giuđa sắp phản bội, Phêrô sắp chối bỏ Ngài, nên Chúa xao xuyến sâu xa.
    Nhưng tội lỗi của con người không thể làm hư chương trình của Thiên Chúa. Cho đến tận cùng, Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi. Chúa hành xử với mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm, âm thầm với Giuđa và công khai với Phêrô. Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn, đón nhận Satan, từ bỏ ánh sáng, tự ý bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến mức tuyệt vọng, vì trong tâm hồn ông không còn chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại, bắt gặp cái nhìn của Chúa.
    Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy lòng dạ hẹp hòi của người môn đệ Giuđa. Cũng như càng làm cho chúng ta cảm nghiệm sâu xa nỗi khổ tâm tủi nhục của vị Thầy Giêsu trước đám tông đồ yêu dấu. Hai hình ảnh đối nghịch càng làm nổi bật cảnh đau thương tê tái! Thầy thì quá thương trò đến độ coi trò như bạn, phục vụ trò như phục vụ chủ. Thầy đã thương và thương trò tới cùng. Trong khi đó, nơi các người trò, kẻ thì giả hình âm mưu phản bội, người thì khoác lác nói nhiều mà làm chẳng bao nhiêu, còn những người khác thì ngu ngơ lờ mờ, chẳng ai hiểu Thầy, chẳng ai giúp Thầy. Một mình vò võ Thầy Giêsu âm thầm trong cô đơn.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin giúp con trở về cùng Chúa, đừng bao giờ thất vọng về những lỗi lầm đã phạm, nhưng biết học lấy bài học của sự sa ngã để tiến lên mãi.
    Lạy Chúa Giêsu, trên hành trình khổ nạn, Chúa như tên tử tội lầm lũi cô đơn tiến đến pháp trường. Chúa hoàn toàn hiến thân vì yêu Chúa Cha và cứu độ nhân loại. Xin Chúa giúp để chúng con đừng bội nghĩa bất trung. Chúng con muốn hiểu Chúa, chúng con muốn cảm thông chia sẻ nỗi đớn đau của Chúa bằng sống yêu thương anh chị em con. Chỉ khi mọi người chúng con được hạnh phúc, Chúa mới thỏa lòng. Amen.

    _______________________________


    Trò Chơi Hòa Bình

    Một ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi đùa với nhau trên sân cỏ.
    Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: "Này các em, các em đang chơi trò gì đó?". Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: "Các em chơi trò đánh nhau".
    Nghe thế, ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải thích: "Tại sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem nào".
    Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên: "Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao". Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán. thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười tiếp tục cất bước. Nhưng không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông nghe một giọng trẻ em hỏi: "Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết".
    Vâng, làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn "chơi trò chiến tranh". Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
    Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu nhau, ám sát nhau.
    Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy anh chị, thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có khi họ dùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
    Ðến bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị về vũ khí.
    Trong khi đó, trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho con người, nghĩa là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới đang bị mù chữ. Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học trong hơn ba năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết trong năm đầu tiên.
    Vâng, thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ muốn trẻ con cũng noi gương chơi trò chơi ấy.

    Trích sách Lẽ Sống



    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  22. Được cám ơn bởi:


  23. #17
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    20/04

    Dung Mạo Kẻ Phản Bội


    Thứ Tư Tuần Thánh

    Lời Chúa:
    Mt 26, 14-25

    14Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Ítcariốt, đi gặp các Thượng tế 15mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu." Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu. 17Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" 18Người bảo: "Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: "Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy." 19Các môn đệ làm y như Đức Giêsu đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua. 20Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21Đang bữa ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy." 22Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?" 23Người đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!" 25Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: "Rápbi, chẳng lẽ con sao?" Người trả lời: "Chính anh nói đó!"


    Suy niệm:
    Trong hai ngày qua, thứ Hai và thứ Ba Tuần Thánh, và hôm nay nữa, thứ Tư Tuần Thánh, chúng ta được nghe nhắc đến dung mạo của một người đồ đệ phản bội Chúa là Giuđa Iscariốt. Sự phản bội này không phải là một điều bất ngờ, và lại càng không phải là điều bất ngờ đối với Chúa Giêsu, Ðấng đã biết trước mọi sự sẽ xảy ra cho Ngài như thế nào. Giuđa đã đi đến việc phản bội Chúa, có lẽ vì ông ta đã để cho sự quan tâm về lợi lộc vật chất dần dần chiếm hết chỗ trong tâm hồn và đã để cho sự hăng say theo Chúa lúc ban đầu bị phai nhạt đi. Chúa Giêsu không còn là Thầy, là Chúa và là tất cả của cuộc đời ông nữa, nhưng là một món hàng mà Giuđa đem bán cho những kẻ muốn giết Ngài với giá tiền ba mươi đồng, mức giá trị của một người nô lệ đáng khinh.
    Giuđa đã âm mưu nộp Chúa cho các Thượng tế và đã thành công giấu ý định này không cho các môn đệ khác biết, nhưng Giuđa đã không thể nào giấu điều đó với Chúa Giêsu được. Chúa biết hết nhưng Ngài vẫn đối xử tốt với Giuđa cho đến cùng. Chúa không bỏ qua những dịp may để giúp Giuđa hồi tâm. Trước hết là Bữa Tiệc Vượt Qua giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Dĩ nhiên, là người thủ quĩ, Giuđa thản nhiên tham dự vào bữa tiệc, mặc dù đoạn Phúc Âm không nói ra. Tinh thần hiệp thông của bữa tiệc không thức tỉnh Giuđa nổi. Rồi những lời của Chúa: "Một người trong các con sẽ nộp Thầy,” và Giuđa chắc chắn được nghe rõ nhưng không làm cho Giuđa giật mình tỉnh ngộ. Rồi sự buồn phiền của các môn đệ khác trong bữa tiệc cũng không có tác dụng gì trên ý định của Giuđa muốn nộp Chúa Giêsu. Thấy các môn đệ lần lượt hỏi Chúa xem có phải là họ hay không, thì Giuđa cũng làm theo như vậy. Tệ hơn nữa, Giuđa dùng từ ngữ không còn ý nghĩa kính trọng đối với Chúa Giêsu trong câu hỏi đặt ra cho Chúa, vì trong khi các môn đệ khác gọi Thầy là Chúa với lòng kính trọng, thì Giuđa dùng một từ ngữ chỉ dành riêng cho một người tầm thường là Rabbi (thưa thầy). Kể từ khi chấp nhận mức giá trị đặt Chúa ngang hàng như một người tôi tớ chỉ đáng giá ba mươi đồng bạc, Giuđa xem như đã mất đi niềm tin vào Chúa như là Ðấng Cứu Rỗi. Giuđa không còn muốn trở lui, không còn muốn rút lại âm mưu nộp Chúa cho đến khi quá trễ. Khi Chúa bị kết án tử hình, thì Giuđa hối hận đi tự tử, như được kể lại nơi đầu chương 27 Phúc Âm thánh Mátthêu.
    Phần Chúa Giêsu, Ðấng đã so sánh mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm con chiên lạc, Ngài vẫn trân trọng thể diện của Giuđa, không nói thẳng thừng, không vạch mặt nêu tên Giuđa cho mọi người biết, nhưng âm thầm tạo dịp để thức tỉnh lương tâm Giuđa. Và lời cảnh tỉnh mạnh mẽ nhất là khi Chúa Giêsu tuyên bố: "Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người, thà rằng người đó đừng sinh ra thì hơn". Chúng ta không nên hiểu lời cảnh tỉnh này như một lời kết án Giuđa phải hư mất mãi mãi. Không phải như vậy, lời cảnh tỉnh mạnh mẽ của Chúa nhằm làm nổi bật sự khốn cùng của người phản bội Chúa, một sự khốn cùng mà người phản bội tự ý đi vào vì ngoan cố. Sống mà phản bội Chúa, chối bỏ ơn cứu rỗi của Chúa một cách có ý thức và ngoan cố, thì tệ hơn là không sống, không sinh ra trên trần gian này. Không phải tất cả mọi người đều biết khám phá và đáp trả tình yêu của Chúa đối với họ. Thời nào cũng vậy, cũng có những người không nhìn nhận tình yêu Chúa.
    Bài Tin Mừng hôm nay dàn ra những cảnh đối nghịch giữa thiện và ác. Sự bài trí xen kẽ liên tiếp đã tạo nên nét bi hùng. Giuđa và Phêrô là biểu tượng của nhóm hành ác. Còn Ðức Giêsu mẫu người của thiện tâm. Trình thuật khởi đầu kể những toan tính, những mưu kế phản bội của Giuđa - bên cạnh kế hoạch yêu thương của Ðức Giêsu trong việc chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua sau hết với các môn đệ thân yêu. Cả hai kế hoạch thiện - ác đều dần dần được thực hiện: Người môn đệ sẽ bội phản, nhưng đổi lại, hành vi yêu thương của Thầy vẫn đầy tràn qua việc thiết lập Bí Tích Tình Yêu. Ðoạn sau chót của trình thuật cho thấy rõ: đây là thời của thế gian, nên sự ác trổi vượt hơn với việc loan báo tông đồ Phêrô nhẹ dạ chối Thầy. Nơi các môn đệ kẻ thì phản bội, người thì chối từ. Còn Thầy Giêsu dù thế nào đi nữa vẫn một mực trung tín.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin đừng để con sống trong tự phụ mù quáng. Xin đừng để con bị những lợi lộc vật chất làm cho con trở nên ngoan cố chống lại Chúa. Xin cho con biết noi gương thánh Phaolô tông đồ quay về với Chúa và dùng phần cuộc đời còn lại cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, đến độ có thể nói như Ngài: "Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn Chúa đã không trở nên vô ích nơi tôi. Ước được như vậy."
    Lạy Thầy Giêsu, chúng con không biết diễn tả tâm tình cảm mến của chúng con như thế nào trước tình yêu vô bờ của Thầy. Cảm nghiệm của Thánh Phaolô cũng là cảm nghiệm của chúng con lúc này: "Ở đâu có tội lỗi đầy tràn, ở đó ân sủng càng chan chứa". Thầy Giêsu chỉ dùng chiến thuật yêu thương để chống lại và cảm hóa sự ác. Cùng với Thầy và theo gương Thầy, chúng con tập quen yêu thương. Chỉ khi yêu thương, chúng con mới thực sự là môn đệ thân tín của Thầy. Amen.


    http://tgpsaigon.net

    _______________________________


    Hãy Thắp Lên Một Que Diêm

    Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại vận động trường Los Angeles bên Hoa Kỳ. Ðang diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
    Ðèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Ðã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên những tiếng kêu: "Ðã thấy!".
    Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
    Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
    Ông John Keller kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, cóthể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
    Hòa bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, đàn áp và bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
    Ngoài ra, hòa bình không chỉ được xây dựng trong những văn phòng của các nhà lãnh đạo. Hòa bình không chỉ được xây dựng qua những cuộc họp, qua những buổi thảo luận, mặc cả của các nhà chính trị. Mọi người chúng ta phải trở thành những người thợ xây dựng hòa bình. Bởi lẽ nguồn gốc của hòa bình xuất phát từ phẩm chất của các mối liên lạc giữa người với người.
    Người biết yêu mến là người thợ xây dựng hòa bình. Kẻ biết giúp đỡ là kẻ xây đắp hòa bình. Những ai biết tha thứ, những ai biết phục vụ tha nhân, những ai biết luôn khước từ hận thù, bạo lực là những người thợ xây dựng hòa bình. Những ai biết chia sớt của cải mình cho người túng thiếu hơn, những ai có lòng nhân từ, có lòng khoan dung và thông cảm đều là những kẻ giúp cho hòa bình nảy nở giữa loài người.
    Tóm lại, cách thức tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm cho thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và sự dữ.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  24. Được cám ơn bởi:


  25. #18
    Rabouni's Avatar

    Tuổi: 34
    Tham gia ngày: Apr 2011
    Tên Thánh: ANNA
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: GP Bắc Ninh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 147
    Cám ơn
    158
    Được cám ơn 998 lần trong 142 bài viết

    Default

    Xin cho con bên Chúa như "ngọn đèn chầu" tuy nhoe nhoi leo lét nhưng mãi sáng bên Thánh Thể
    Cảm ơn Hương đã cho mọi người cảm nhận 1 bài viết thật hay và ý nghĩa
    Chữ ký của Rabouni
    Đời có Giêsu cho ta những điều thật lạ

  26. Được cám ơn bởi:


  27. #19
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    21/04

    Giải Nghĩa Yêu


    Thứ Năm Tuần Thánh

    Lời Chúa:
    Ga 13, 1-15

    1Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. 2Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt, ý định nộp Đức Giêsu. 3Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. 5Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6Vậy, Người đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" 7Đức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu." 8Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Đức Giêsu đáp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." 9Ông Simôn Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." 10Đức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" 11Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch." 12Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. 15Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.


    Suy niệm:
    Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, thường nghiên cứu, phân tích tình yêu dưới nhiều góc độ, tốn rất nhiều giấy mực, để lý giải tình yêu... nhưng có lẽ rất ít người hiểu cho đúng tình yêu là gì. Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là nhà thơ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
    "Làm sao giải nghĩa được tình yêu
    Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
    Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt..."
    Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ công giáo trứ danh, khuyên chúng ta - trong bài "Ðà Lạt trăng mờ" - như sau:
    "Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
    Ðể nghe dưới đáy, nước hồ reo
    Ðể nghe tơ liễu rung trong gió
    Và để xem Trời giải nghĩa yêu."

    "Và để xem Trời giải nghĩa yêu!" Ðúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu."
    Chúa Giêsu "giải nghĩa yêu" khi Ngài ngỏ lời với ông Nicôđêmô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
    Chúa Giêsu cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)
    Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi... Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
    Nhưng Chúa Giêsu không chỉ giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng... Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau" (Ga 13, 1.4-5).
    Thế mới hiểu rằng:
    Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."
    Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con."
    Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
    Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50).

    Cầu nguyện:

    Lạy Chúa Giêsu, thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu. Chúng con ngỡ rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến. Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy, chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh, là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc; và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là:
    "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con... Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội..."
    Và hôm nay, khi mời gọi "Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy," Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy sống yêu thương theo cách yêu thương của Chúa; Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là:
    "Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn.
    Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi, xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân." Amen.

    http://tgpsaigon.net

    ____________________________


    Món Quà Sinh Nhật


    Một bác nông phu tên là Donningos sinh sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi sáng nọ, trên con đường đi ra đồng làm việc, ông được đứa con trai mừng sinh nhật thứ 10 chạy theo căn dặn: "Ðừng quên mang về hai con chim nhỏ làm quà sinh nhật cho con cha nhé!". Người cha vốn rất vui tính và thương con nở nụ cười tươi, gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.
    Sau một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác Donningos vội đi qua cánh rừng gần đấy gom một mớ củi. Ðang lúc bó củi, bỗng bác nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật thứ 10 cho con. Bác bỏ vội bó củi bên đường, tiến sâu vào rừng, trèo nhanh lên gành đá của một ngọn đồi, nơi chim thường làm tổ. Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận luồn tay vào, nhưng vừa đụng những chim con, bác vội rụt tay về, vì nghe đau nhói như bị kim đâm. Nhìn kỹ đó là vết thương hai lỗ có máu rỉ ra. Chưa định thần thì một con rắn đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài, vươn đôi mắt ngê rợn chực tiếp tục tấn công. Ðó là con rắn nổi tiếng được dân địa phương gọi là "uturu des sétao". Nổi tiếng vì nọc nó vô phương cứu chữa.
    Bác nông phu vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng, nhắm đầu rắn chặt nhanh. May cho bác, nhát dao giết chết được con rắn, nhưng bàn tay bị rắn cắn bỗng vụt sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và mạnh tay chặt luôn hai nhát, cắt lìa bàn tay. Buộc xong vết thương bằng chiếc áo và dùng răng phụ chiếc tay còn lại xiết chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn không quên cầm hai chú chim làm qua sinh nhật cho con.
    Bạn có tin câu chuyện có thực này không? Nếu bạn không tin thì làm sao bạn tin được một sự thật khác còn to lớn hơn: Thiên Chúa chúng ta, không những cho chúng ta bàn tay của người, nhưng đã trao ban cho chúng ta trọn Con Một yêu dấu của Người.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  28. Được cám ơn bởi:


  29. #20
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    22/04

    Đám đông dưới chân Thập Giá


    Thứ Sáu Tuần Thánh

    Lời Chúa:
    Ga 18,1-19,42

    1Sau khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: "Các anh tìm ai?" 5Họ đáp: "Tìm Giêsu Nadarét." Người nói: "Chính tôi đây." Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6Khi Người vừa nói: "Chính tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7Người lại hỏi một lần nữa: "Các anh tìm ai?" Họ đáp: "Tìm Giêsu Nadarét." 8Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi." 9Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: "Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai." 10Ông Simôn Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. 11Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?"
    12Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do Thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. 13Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến ông Khanan là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. 14Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn. 15Ông Simôn Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. 17Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải." 18Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. 19Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người. 20Đức Giêsu trả lời: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; Tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21Sao ông lại hỏi Tôi? Điều Tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe Tôi. Chính họ biết Tôi đã nói gì." 22Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?" 23 Đức Giêsu đáp: "Nếu Tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu Tôi nói phải, sao anh lại đánh Tôi?" 24Ông Khanan cho giải Người đến thượng tế Caipha, Người vẫn bị trói. 25Còn ông Simôn Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Đâu phải." 26Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" 27Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
    28Vậy, người Do Thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: "Các người tố cáo ông này về tội gì?" 30Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan." 31Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người." Người Do Thái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả." 32Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào. 33Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do Thái không?" 34Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?" 35Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" 36Đức Giêsu trả lời: "Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước Tôi không thuộc chốn này." 37Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi." 38Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?" 39Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do Thái cho các người không?" 40Họ lại la lên rằng: "Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!" Mà Baraba là một tên cướp.
    1 Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người. 2Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3Họ đến gần và nói: "Kính chào Vua dân Do Thái!", rồi vả vào mặt Người. 4Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Do Thái: "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy." 5Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: "Đây là người!" 6Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô bảo họ: "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy." 7Người Do Thái đáp lại: "Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." 8Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. 9Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: "Ông từ đâu mà đến?" Nhưng Đức Giêsu không trả lời. 10Ông Philatô mới nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?" 11 Đức Giêsu đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
    12Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do Thái kêu lên rằng: "Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda." 13Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri là Gápbatha. 14Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Philatô nói với người Do Thái: "Đây là vua các người!" 15Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô nói với họ: "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?" Các thượng tế đáp: "Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda." 16Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
    17Chính Người vác lấy Thập Giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; 18tại đó, họ đóng đinh Người vào Thập Giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa. 19Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái." 20 Trong dân Do Thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Hípri, La tinh và Hy Lạp. 21Các Thượng tế của người Do Thái nói với ông Philatô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Do Thái", nhưng viết: "Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do Thái.” 22Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy!"
    23Đóng đinh Đức Giêsu vào Thập Giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24Vậy họ nói với nhau: "Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được." Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm. 25Đứng gần Thập Giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. 26Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà." 27Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. 28Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát!" 29Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. 30Nhắp xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất!" Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.

    31Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày Sabát, mà ngày Sabát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. 33Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
    38Sau đó, ông Giôxếp, người Arimathê, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Giôxếp này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do Thái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Giôxếp đến hạ thi hài Người xuống. 39Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do Thái. 41Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do Thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.

    Suy niệm:
    Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ thứ 17 đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu vươn cao hơn tất cả. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

    Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
    Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và Rôma cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ Rôma đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
    Dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài. Khi chúng ta chối bỏ người anh em, khi chúng ta đối xử tệ bạc với người anh em, khi chúng ta chối bỏ chính mình bằng những lọc lừ gian dối, khi chúng ta chỉ biết sống cho mình mà quên sự đau khổ của người xung quanh, đó chính là lúc chúng ta dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.
    Chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, chúng ta không thể không nhìn xuống dưới chân thập giá để nhận diện ra chính mình. Rõ rệt hay lu mờ, một cách nào đó, chúng ta cũng đang có mặt trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, khi chiêm ngắm Chúa chịu treo trên thập giá, xin cho chúng con đừng ngắm nhìn như một khách bàng quan, nhưng như người đang dự phần treo Chúa trên thập giá, để từ đó, ý thức được tội lỗi của mình, chúng con sẽ được ơn sám hối thực sự và quyết tâm cải thiện đời sống. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

    http://tgpsaigon.net

    _______________________________


    Món Quà Của Con Cáo


    Một câu chuyện giả tưởng thuật lại như sau:
    Khi Chúa giáng sinh, các thú vật đều tới mừngChúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà: Chị bò cái dâng sữa. Cậu khỉ biếu Chúa mấy trái nho.
    Chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa.
    Chúa Hài Ðồng vui vẻ nhận tất cả. Ðang lúc các thú vật quây quần bên Chúa thì chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh quỷ quyệt... Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi: Không biết cáo định âm mưu gì.
    Cáo nói: Tôi đến dâng lễ vật cho Chúa. Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quỳ bên Chúa Hài Ðồng chàng cáo thì thầm dâng lên Chúa long quỷ quyệt của mình.
    hú vật đều bỡ ngỡ: Dâng gì kì cục vậy! Trái lai cáo ta vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành. Xưa nay cáo sung sướng nhờ sự quỷ quyệt của mình, bây giờ dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Chàng cáo đã dâng nhiều hơn hết mọi con vật.
    Hẳn chúng ta cong nhớ câu chuyện "Người phụ nữ ngoại tình" trong tin Mừng: Một khi đã phạm tội, bà bị những người xung quanh kết án có thể gọi là "chung thân". hình như bà bị xã hội khắc vào má hai chữ "ngoại tình" không thể nào tẩy xóa được. Giống như chú cáo trong câu chuyện trên: Ðã gian manh quỷ quyệt thì mọi thú đều không thể tưởng tượng cáo có thể thay đổi.
    Nhưng với sự xuất hiện và hoạt động của Chúa Giêsu, mọi đổi thay đều có thể xảy ra. Con cáo có thể bỏ tính manh mum xảo trá để làm ăn lương thiện. Qua bao thế hệ, câu nói của Chúa Giêsu: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa" đã giúp đổi đen thành trắng nhiều cuộc đời.
    Chúng ta hãy tập đừng vội xét đoán và nhất là đừng bao giờ kết án ai. Trái lại hãy cho nhau những cơ hội mới để mọi người có thể canh tân cuộc sống.
    Tiếp đến, hãy tận tình giúo đỡ những người đang gặp khó khăn, những kẻ đang vấp ngã: Hãy giơ cánh tay thân thiện kéo họ ra khỏi những vũng bùn nhơ, thay vì đi nói xấu hay xét đoán và kết án họ.

    Trích sách Lẽ Sống


    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  30. Được cám ơn bởi:


  31. #21
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    23/04

    Mừng Chúa Phục Sinh


    Đêm Vọng Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Mt 28, 1-10

    1Sau ngày Sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ. 2Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; 3diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. 6Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay." 8Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay. 9Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."

    Suy niệm:
    - C 1-3: + Sau ngày Sabát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Luca và Máccô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (Lc 24,1).
    + Bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giêsu (Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mátthêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Máccô và Luca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu (Mc 16,1; Lc 24,1).
    + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mátthêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn đền thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giêsu trút linh hồn trên cây thập giá (Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2).
    + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giêsu và công việc cứu độ của Người trong mồ đá (Mt 27,66).
    + Diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giêsu cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (Mt 17,2).
    - C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (Mt 14,26).
    + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ!
    + Các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là “Qua đau khổ để vào vinh quang” (Mt 16,21).
    + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giêsu đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực.
    + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (Mc 16,7). Ở đây Mátthêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành.
    + Và kìa Người đi Galilê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giêsu về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Galilê (Mt 26,32).
    - C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó.
    + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáprien chào khi Truyền Tin cho Đức Maria (Lc 1,28).
    + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giêsu (Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng.
    + Chị em đừng sợ: Lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang khiếp sợ khi đối diện với thần thiêng.
    Chúa Phục Sinh đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời? Về các cuộc hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mátthêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh hiện ra tại Galilê để chính thức sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (Mt 28,16-20).
    Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Canađa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:
    Bà Tenmơ (Tanmer) mẹ của bé Rơgheo (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơgheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này!”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.
    - Sống đức tin vào Mầu nhiệm Phục Sinh: Để đạt được đức Tin, ngoài lòng yêu mến Chúa như Maria Mácđala, chúng ta cũng cần có sự khôn ngoan như tông đồ Gioan để tránh sự mê tín. Như Gioan xưa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra ý nghĩa của từng biến cố: ý nghĩa của cái chết đau thương trên Núi Sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống, của những tấm khăn được xếp đặt gọn gàng. Nhờ có đức Tin, chúng ta sẽ không bị hốt hoảng khi gặp thất bại, tai ương… Khi bị mất những cái quý giá như tiền bạc, địa vị, tình yêu…, Chúng ta cần làm gì phù hợp với đức tin noi gương bà Maria Mácđala xưa (Ga 20,11)?
    - Loan Tin Mừng Chúa Phục Sinh: Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giêsu sống lại. Những băng vải đã không thể trói buộc được Người. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng dù đã bị hận thù nuốt trửng! Niềm vui phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Maria Mácđala đã có được khi tìm thấy Chúa Phục Sinh ở ngoài mồ Chúa, như các môn đệ có được khi lại nhìn thấy Chúa tại Galilê. Điều quan trọng là noi gương Maria Mácđala đã chu toàn sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa cho những anh em đang gặp sự đau khổ thất vọng và bị mất niềm tin?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, con chẳng có thể chứng minh được Chúa đã sống lại bằng khoa học thực nghiệm hay bằng khoa khảo cổ học… Nhưng con chỉ chứng minh được mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nhờ Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, nhờ lời của các nhân chứng đã theo dõi cuộc khổ nạn của Chúa, và đã gặp được Chúa nhiều lần sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.
    Lạy Chúa, xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ được vui tươi phấn khởi và sẽ nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến cho những người chung quanh chúng con noi gương Maria Mácđala và các Tông đô khi xưa. Amen.


    ______________________________


    Bữa Ăn Thiên Ðàng Và Hỏa Ngục

    Một ký giả kia được phép xuống hỏa ngục và lên thiên đàng để làm một bản phóng sự về đời sống của nhân dân tại đó.
    Sau một cuộc hành trình gay go, ký giả trên lọt được vào địa ngục đúng vào giờ ăn. Nhìn vào bàn ăn, anh ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy trưng bày toàn sơn hào hải vị đang bốc khói hương ngào ngạt làm anh ta không khỏi nuốt nước bọt.
    Nhưng lúc các kiều dân địa ngục tiến vào phòng ăn, chàng ta lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy họ ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương, vài người đi không muốn nổi. Sự kinh ngạc tan biến khi chàng phóng viên chứng kiến cảnh họ dùng bữa. Vì muỗng nĩa rất dài buộc dính vào đôi tay không cho phép họ đưa thức ăn vào miệng, nên dù họ có cố gắng thế nào đi nữa, thức ăn chỉ đổ tháo ra đầy bàn hay rơi tung tóe xuống mặt đất. Tệ hại hơn là cảnh họ tranh giành nhau: vài người dùng muỗng nĩa để thay vì đưa thức ăn vào miệng, lại biến chúng thành những khí giới đập đánh nhau. Thật là một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mãn, họ buồn phiền rời phòng ăn, dạ dày vẫn trống rỗng.
    Quá sợ hãi, chàng ký giả lập tức từ giã địa ngục để tiếp tục lên phóng sự trên thiên đàng. Ðến nơi cũng đúng vào giờ cơm. Bàn ăn cũng trưng bày những thức ăn ngon miệng. Quan sát nhân dân, chàng ta thấy ai nấy đều phương phi, khỏe mạnh, tuy đôi tay họ cũng được gắn chặt những muỗng nĩa rất dài. Có khác là thay vì họ cố gắng đưa thức ăn vào miệng mình, họ lại dùng muỗng nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang lên những giọng nói cười vui, thỏa mãn.
    Kết thúc bài phóng sự tường trình về những điều mắt thấy tai nghe, chàng ký giả viết: Ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.
    Kết thúc thời gian sáng thế, Thiên Chúa phán với hai ông bà nguyên tổ: "Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. Hãy làm bá chủ nó. Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất. Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ lá sinh hạt giống có trên mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống, chúng sẽ làm thức ăn cho các ngươi".
    Với công trình sáng tạo và lời chúc phúc trên, Thiên Chúa muốn biến mặt đất thành Vườn Ðịa Ðàng, nhưng con người đã chia mặt đất thành đông, tây, nam, bắc, thành những nước thống trị và những nước bị đô hộ, thành những quốc gia giàu và những nước nghèo. Ðó là chưa kể con người đã và đang biến Vườn Ðịa Ðàng thành địa ngục qua bao nhiêu cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà xét cho cùng cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh nhau miếng ăn, manh áo. Thật vậy, ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  32. Được cám ơn bởi:


  33. #22
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    25/04

    Hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục Sinh


    Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Mt 28, 8-15

    8Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay. 9 Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó." 11Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12Các Thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13và bảo: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. 14Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." 15Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay.


    Suy niệm:
    “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “vui mừng hớn hở”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
    Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ông nghĩ về phận mình và cảm thấy chán trường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ươc gì thần chết rước tôi đi!” Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không?”
    Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.
    “Tin Mừng hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục sinh: Một của các phụ nữ, một của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng, tuy lo âu, nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…
    Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này…Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo hội”
    Vậy là đã qua ngày sinh nhật vui với nhiều lời chúc, hoa và quà. Tôi lại trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực!
    …Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi Phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.
    Bởi lẽ:
    Tình yêu đã chiến thắng;
    Sự thật đã lên ngôi.

    Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục sinh nơi Ngài.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần chúng con được rước Chúa là một lần chúng con được đón nhận chính sức sống Phục sinh của Chúa tuôn trào trong chúng con. Xin cho chúng con được tràn ngập niềm vui như xưa Chúa đã ban cho các người phụ nữ ra thăm mồ Chúa trong ngày Chúa sống lại.
    Ngày đó, họ ra mồ với tâm trạng buồn phiền lo âu, và thất vọng, nhưng khi hay tin Chúa đã sống lại, nỗi lo âu đã trở thành niềm vui. Sự thất vọng, buồn phiền đã tiêu tan để nhường lối cho hy vọng và tươi vui. Ước gì niềm vui được đón rước Chúa Phục sinh ngự đến trong tâm hồn chúng con lúc này, cũng biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho niềm hy vọng, để chúng con mang niềm vui đến cho những ai đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người, và biết kiến tạo hạnh phúc thiên đàng ngay trần thế hôm nay qua những nghĩa cử hy sinh, bác ái, và vị tha.
    Nguyện xin Chúa phục sinh chúc lành cho những ước nguyện của chúng con. Amen.


    ___________________________
    Thánh Máccô




    Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).

    Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.

    Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma -- sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.

    Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: "Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng" (Máccô 14:51-52).

    Nhiều người khác cho rằng Máccô là giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.

    Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một "tiếng kêu trong hoang địa" (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.


    Lời Bàn

    Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.

    Lời Trích

    Hầu hết những gì Thánh Máccô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác -- chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: "... Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa" (Máccô 4:26-29).
    Trích từ NguoiTinHuu.com
    ______________________________


    Sư Tử Có Ðôi Cánh

    Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.


    Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:

    "Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống".

    Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của tôi".

    Ngoài sự gần gũi với thánh Phêrô, Marcô cũng tiếp xúc lân cận với Phaolô, bắt đầu vào lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 44, khi Phaolô và Barnaba đưa về Giêrusalem số tiền cộng đoàn Antiokia quyên được để trợ giúp cộng đoàn Mẹ. Khi trở về, Barnaba đem theo Marcô, là cháu của ông.

    Sau đó, trong khi đồng hành với Phaolô và Barnaba để hoạt động truyền giáo ở đảo Cypre, vì một sự bất đồng ý kiến nào đó, Marcô đã bỏ về Giêrusalem. Vì lý do này, trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô đã nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba.

    Nhưng trong những ngày cuối đời, khi chờ đợi ngày hành quyết, Phaolô đã viết thư nhắn với Timôthê: "Hãy đem cả Marcô đến nữa, vì tôi cần sự giúp đỡ của anh ấy lắm". Bạn bè người ta muốn gặp trong những ngày cuối đời phải là những người đồng sinh đồng tử!

    Những chi tiết khác nhau đó của cuộc đời của thánh Marcô không lấy gì làm chắc. Có tài liệu cho là thánh nhân chết tự nhiên. Tài liệu khác lại cho là thánh nhân được phúc tử đạo. Vương cung thánh đường tại công trường Marcô ở Venezia tự hào là còn giữ lại hài cốt của Ngài.

    Trong cuộc sống, Marcô đã chu toàn bổn phận mà mọi người Kitô được kêu gọi phải thực thi: Ðó là rao giảng Tin Mừng và làm chứng về Ðức Kitô. Marcô đã thực hiện công việc này đặc biệt qua công tác viết sách Phúc Âm, những người Kitô khác qua kịch nghệ, âm nhạc, thơ phú hay qua việc dạy đạo cho con em quanh bàn ăn của gia đình hoặc qua cuộc sống chứng tá trong những sinh hoạt và nếp sống hằng ngày.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  34. #23
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    26/04

    Nỗi Buồn Đã Biến Thành Niềm Vui


    Thứ Ba Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Ga 20, 11-18

    11Bà Maria Madalena đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ,12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.13 Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc? "Bà thưa:"Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu! "14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu.15 Đức Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai? " Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về."16 Đức Giêsu gọi bà: "Maria! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rapbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy").17 Đức Giê-su bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em"."18 Bà Maria Madalena đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.


    Suy niệm:
    Tình cảm của Maria Madalena đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Rồi khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa rồi sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Madalena Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
    Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại. “Ta biết các chiên Ta…các chiên Ta biết Ta…”. Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không? Một sinh viên cao đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân. Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.Tất cả các em đếu được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng.
    Chúa Giêsu đã hỏi Maria: “Tại sao con khóc?” và Ngài đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui. Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người (bà Maria Madalena chính là đại diện) trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
    Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người.
    “Đức Giêsu gọi bà: “Maria” bà quay lại và nói: “Rapbuni” nghĩa là lạy Thầy”. Đức Giêsu bảo: “thôi đừng giữ Thầy lại…nhưnhg hãy đi gặp anh em Thầy”. “Này các chị có nghe điện thoại reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu, giữa trời nắng gắt, tiếng chị H,trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì sau đó phải “thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho chị H.
    Nhưng hôm nay, lời chị đánh động tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã dửng dưng trước những “cú phôn” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại phải thi hành những “Sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được “điện” của Chúa?


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, thế giới hôm nay đầy náo nhiệt và bận rộn. Tâm hồn chúng con bị chao đảo bởi biết bao những huyên náo của thú vui trần thế. Có biết bao cám dỗ mời mọc chúng con vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng con lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng con xa lìa sự sống đời đời. Xin Chúa hãy thứ tha. Xin cho chúng con tin rằng: Chúa đang đứng bên cạnh chúng con và gọi tên chúng con. Xin hãy gọi chúng con ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin hãy gọi chúng con để thức tỉnh trước những cạm bẫy của thế gian. Xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con luôn nhiệt tâm tìm kiếm Chúa như thánh nữ Maria Madalena, nhờ đó chúng con cũng trở thành sứ giả loan báo tin vui Chúa Phục sinh cho trần thế. Xin cho chúng con biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống, để niềm vui Phục Sinh luôn lớn mãi trong chúng con và lan tỏa đến mọi người. Amen


    http://tgpsaigon.net

    ______________________________


    Người Sói

    Một trong những cuốn phim nói về sự bí ẩn của tuổi thơ: đó là cuốn phim có tựa đề "người sói". Cuốn phim xây dựng trên một câu chuyện có thực xảy ra tại Pháp vào cuối thế kỷ 18. Một đứa trẻ đã bị thất lạc trong rừng từ lúc lọt lòng mẹ.

    Mười hai năm sau, khi người ta tìm gặp nó giữa rừng, thì đứa bé không khác nào một con thú. Người ta không thể nào giao thiệp gặp gỡ với nó được. Tất cả những gì một nhà giáo, một bà vú nuôi có thể làm được chỉ là chuẩn bị thức ăn và đặt vào trong xó bếp để đứa bé tìm đến và liếm thức ăn như một con thú... Mọi người dường như bó tay, không còn cách nào để đưa nó ra khỏi đời sống hoang dã của nó.

    Và một ngày kia, nó đã trốn thoát. Mọi người thở dài trước thất bại của mình... Tình cờ, vì đói, nó đã trở ra xóm làng và một lần nữa người ta đã bắt lại được nó. Người ta mang nó đến nhà giáo và người được chỉ định đến gần nó để hỏi han, trò chuyện chính là vú nuôi. Bà cố gắng dùng ngôn ngữ thô sơ của mình để nói chuyện với đứa bé. Gương mặt của nó như bất động. Nhưng bỗng nhiên, trước sự ngạc nhiên của mọi người, đứa bé nắm tay người đàn bà. Nó nhìn bà một hồi lâu và trong thinh lặng. nó cầm hai tay người đàn bà áp lên mặt mình...

    Lúc đó, người ta chỉ còn thấy những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má của hai khuôn mặt...

    Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người cũng diễn ra như thế. Nó nằm ra bên ngoài tất cả những dự đoán và tính toán của chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ là đối tượng của những tính toán khoa học. Thiên Chúa cũng không là kết luận của những suy tư uyên bác. Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta trong những cái bất ngờ nhất. Thiên Chúa ở trong chúng ta, nhưng đồng thời cũng thoát khỏi tầm tay với của chúng ta... Nói tóm lại, chúng ta không thể chiếm hữu Thiên Chúa như một sự vật, nhưng trái lại chúng ta phải chiến đấu không ngừng để nhận ra Ngài trong những cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống...

    Tin Mừng cho chúng ta thấy nhiều phản ứng khác nhau của con người đối với Chúa Giêsu. Phần đông dân chúng chỉ nhìn thấy nơi Ngài như một người dân quê xuất thân từ cái miền nghèo nàn là Galilê. Những người trí thức thì nghiên cứu Kinh Thánh để rồi áp dụng những hiểu biết sách vở của họ vào con người Chúa Giêsu. Và, sĩ nhiên, những gì đã được Kinh Thánh nói đến, họ không tìm thấy nơi Chúa Giêsu... Một số khác thì đề nghị bắt giữ Chúa Giêsu vì Ngài là một tên lừa bịp...

    Chúa Giêsu vẫn mãimãi là câu hỏi của chúng ta: "Còn các con, các con bảo Ta là ai?". Một câu hỏi như thế, chúng ta không chỉ trả lời bằng những kiến thức đã lĩnh hội được qua giáo lý, thần học, Kinh Thánh... Một câu hỏi như thế chỉ có thể được trả lời bằng một cuộc gặp gỡ thân tình với Ngài.
    Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với Ngài trong Ðức Tin.


    Ðức tin đó sẽ luôn là mặt trận chiến dai dẳng trong tâm hồn chúng ta. Có lúc chúng ta cảm thấy như đi trong ánh nắng chan hòa. Có lúc, tất cả xung quanh chúng ta như ập phủ xuống và chúng ta không còn thấy gì nữa. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng những câu hỏi mà chúng ta không ngừng nêu lên với Ngài... Tại sao Ngài bỏ con? Chúng ta hãy không ngừng tra vấn Thiên Chúa. Ðó là dấu hiệu của một cuộc đối thoại giữa Ngài với ta.


    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  35. #24
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    27/04

    Ngài Đến Và Cùng Đi Với Họ


    Thứ Tư trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Lc 24,13-35

    13 Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số.14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra.15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ.16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người.17 Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
    18 Một trong hai người tên là Cleopat trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay."1920 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá.21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm,23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy." Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy? " Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadaret. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!26 Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?27 Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
    28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.29 Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.32 Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? "
    33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.34 Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon."35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.


    Suy niệm:
    Có hai môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào, độc giả có thể coi mình là chính môn đệ ấy và chia sẽ cảm nghiệm của người môn đệ ấy. Khi không nêu tên người môn đệ kia, thánh Luca muốn tôi hiểu rằng mỗi người chúng ta có thể là người môn đệ ấy, nên cũng có thể chia sẻ cảm nghiệm của người môn đệ ấy với Chúa Giêsu Phục sinh: Chúa Giêsu Phục sinh vẫn đang sống và đang đồng hành với chúng ta trong hành trình đời ta mặc dù con mắt xác thịt ta không nhận ra Ngài. Những nơi ưu tiên ta có thể gặp thấy Ngài là Thánh kinh và Thánh lễ.
    “Xin Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày đã sắp tàn”. Một lời rất hay, ta có thể dùng làm lời cầu nguyện mỗi khi cảm thấy cảnh đời như màn đêm tăm tối đang phủ đầy xuống chúng ta.
    “Để làm sống lại đức tin đã bị lung lay, người môn đệ cần có 3 yếu tố: Thánh kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin…Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta cần kiểm điểm lại xem chúng ta có thái độ nào đối với Lời Chúa. chúng ta sống Bí tích Thánh thể ra sao, chúng ta hiệp nhất với cộng đoàn tin xưng đức tin thế nào”.
    Hôm nay thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu Phục sinh là người bạn tuyệt vời. Hai môn đệ trên đường Emau cũng là người bạn của Chúa. Họ đang chán chường, thất vọng, buông xuôi tất cả. Thế mà Chúa Giêsu đã giúp vui mừng chỗi dậy, quay lại Giê-ru-sa-lem…thất vọng thành hy vọng tràn trề.
    Chúa Giêsu đã làm gì?
    Ngài đến và cùng đi với họ. Gợi cho họ thổ lộ nỗi lòng và giải thích Thánh kinh cho họ nghe, cảm thông, đồng bàn với họ. Chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã đồng hành với họ trong vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của họ.




    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con tạ ơn Chúa đã liên kết chúng con nên một trong Chúa. Qua bàn tiệc thánh thể, chúng con được chia sẻ với nhau một bữa ăn huynh đệ mà chính Chúa đã dọn cho chúng con là Mình Thánh Máu Thánh Chúa. Cũng chính nơi bàn tiệc này chúng con mới nhận ra chúng con là anh em với nhau con một Cha trên trời.
    Lạy Chúa, năm xưa Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Sự đồng hành này đã nâng đỡ họ và giúp họ tìm lại niềm vui và hy vọng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn là những người bạn tốt lành của nhau, bằng cách đồng hành với nhau trên mọi nẻo đường cuộc sống. Xin giúp chúng con đừng bao giờ dửng dưng như khách lạ với tha nhân, nhưng luôn liên kết, cảm thông và nâng đỡ những rủi ro, bất hạnh của tha nhân. Xin giúp chúng con đừng bao giờ chỉ tìm niềm vui nơi mình nhưng luôn nghĩ đến thiện ích cho tha nhân.
    Lạy Chúa, sự đồng hành của Chúa trên đường Emmau đã đánh tan thất vọng, lo âu trong tâm hồn các môn đệ, xin cũng ban cho chúng con sự bình an và ơn thánh qua bí tích Thánh Thể mà chúng con vừa được hân hạnh đón rước vào trong tâm hồn. Amen


    http://tgpsaigon.net

    _________________________


    Kẻ Không Biết Sám Hối
    Ngày 03/4/1990, người tử tù Robert Alton Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà tù San Quentin thuộc tiểu bang California bên Hoa Kỳ. Ðây là lần đầu tiên kể từ 23 năm nay, tiểu bang California tái lập bản án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang California là một trong năm tiểu bang tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình. Người ta tính có khoảng 2,200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên ghế điện hoặc vào phòng hơi ngạt.

    Robert Harris là một kẻ giết người không biết gớm tay. Ngày 05/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm vì đã đánh đập một người đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến cướp một nhà băng tại San Diego. Ðể có phương tiện di chuyển, Harris đã chiếm chiếc xe của hai người thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho hai người thanh niên lái xe đến một nơi vắng vẻ vàtại đây, anh đã rút súng sát hại họ một cách dã man. Sau khi đã hạ sát hai người thanh niên, Harris vẫn còn đủ ung dung và bình tĩnh để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn dở... Bị bắt giữ sau đó, Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn sám hối...

    Theo thủ tục hiện hành của Hoa Kỳ, từ lúc tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường được bảy năm để kháng cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của sợ sệt hoặc hối cải... Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi ngạt Cyanide. Chỉ trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng đúng cái chết mà dường như anh đã tự chọn và chuẩn bị cho mình.

    Công lý và luật pháp của con người được xây dựng trên nguyên tắc: mắt đền mắt răng thế răng, hoặc tôi cho anh để tôi cho lại... Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tùy theo tội ác của người đó đã gây ra... Thiên Chúa dường như chỉ có một công lý: đó là công lý của Tình Thương. Thước đo duy nhất của Công Lý nơi Thiên Chúa chính là Tình Thương vô bờ bến. Nói như thánh Phaolô, nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng thi ân. Tội lỗi của con người, dù tày đình đến đâu, cũng không thể ngăn cản được Tình Thương, sự Tha Thứ của Thiên Chúa.

    Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn thấy tội lỗi và suy niệm về Tình Yêu của Thiên Chúa. Nếu có ai chết đời đời trong hỏa ngục, điều đó không phải do sự Công Thẳng của Thiên Chúa, cho bằng chính sự Khước Từ của con người. Khi con người không còn tin ở Tình Yêu của Thiên Chúa, khi con người tự chọn cho mình cái chết, đó chính là lúc con người tự chuẩn bị cho mình sự trầm luân. Hỏa ngục đồng nghĩa với quay mặt, với khước từ, với thất vọng... Chúng ta nhìn đến thân phận tội lỗi của mình không phải để thất vọng về sự yếu hèn của chúng ta, mà chính là để ngước nhìn lên ánh mắt từ nhân vô biên của Thiên Chúa.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  36. #25
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    28/04

    Sống Niềm Vui Phục Sinh


    Thứ Năm Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Lc24,35-48

    35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em! "37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.38 Nhưng Người nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? "40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không? "42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng.43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. 44 Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm."45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh46 và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại;47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.


    Suy niệm:
    “Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: Ma đâu có xương thịt như Thầy có đây”: Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Tôi phải sống với niềm tin xác tín ấy.
    “Các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”: không những tôi phải sống với niềm tin xác tín rằng tôi đang sống với Chúa Phục sinh đang hiện diện bên cạnh, mà còn phải làm sao cho cách sống đó khiến người ta nhìn vào và cũng tin như thế.
    “Bình an cho chúng con. Này Thầy đây, đừng sợ”: trong khoảng thời gian vắng Chúa, các môn đệ rất hoang mang và sợ hãi. Nay Chúa đã trở lại và đang ở với họ, họ tìm lại được bình an. Xin Chúa luôn ở với con, để ban cho con được bình an giữa bao xáo trộn của cuộc đời.
    Chúa nói với họ: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?”. Ở đời ai cũng sợ một điềi gì đó. Hãy nói thật cho tôi biết bạn sợ cái gì nhất? Còn tôi, tôi sợ cuộc sống nhất, tôi sợ tất cả những gì thuộc về cuộc sống này. Bạn thử nghĩ xem, làm sao tôi tránh được lo sợ khi quanh tôi giá trị con người được tính bằng nhan sắc, tiền bạc gia thế. Còn lẽ phải, sự công bằng lúc nào cũng thuộc về tay kẻ mạnh. Còn tình yêu ư ? Lúc nào cũng chỉ là kẻ bịp bợm, nếu không nói là giải trí bản năng. Vì sự sinh tồn, vì hưởng thụ, vì lòng tham, vì ích kỉ…con người lao vào cấu xé lẫn nhau, làm khổ nhau.
    Tôi sợ mình không đủ dũng cảm để đấu tranh dành lấy công bằng. Tôi sợ mình không đủ cao thượng để hy sinh nhường đường cho kẻ khác. Tôi sợ một ngày nào đó vì sự sinh tồn tôi phải bán tất cả để tìm lấy cho mình một chỗ đứng, khi đó tôi không còn là tôi nữa…Nỗi sợ hãi làm tôi không còn tin vào bất cứ điều gì, tôi không tin vào tình người: tôi không tin người tốt sẽ được sống hạnh phúc.
    Tôi không hiểu sống để làm gì, khi hiện tại tương lai đầy ắp nỗi sợ hãi. Tôi muốn thoát khỏi sự sợ hãi, tôi muốn được bình an…và trong cơn hoảng loạn, tôi đã nghĩ đến cái chết… tôi quên mất mình đang sống mùa Phục sinh, Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thờ Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể. Chúng con tin rằng Chúa đến viếng thăm chúng con hằng ngày qua bí tích Thánh Thể. Xin Chúa cũng ban bình an cho chúng con như xưa Chúa đã ban cho các tông đồ trong những lần Chúa hiện ra với các ngài sau khi Chúa sống lại.
    Lạy Chúa, xin cho chúng con thoát khỏi sự sợ hãi, biết can đảm vượt qua mọi thử thách để được lớn lên, trưởng thành trong vòng tay quan phòng của Chúa. Xin tha thứ vì những lần chúng con còn ngại ngùng, sợ hãi không dám dấn thân vào con đường Chúa mời gọi chúng con bước đi. Vì con đường ấy có quá nhiều chông gai, thử thách. Con đường ấy đòi phải hy vinh, phải vác thập giá, phải chịu nhiều thua thiệt, có khi mất cả mạng sống.
    Xin cho chúng con hiểu rằng, bên trên gai nhọn là đoá hồng rực rỡ. Bên trên những thử thách gian nan là triều thiên chiến thắng vinh quang mà Chúa đã dành sẵn cho những ai trung tín theo Ngài. Amen.

    http://tgpsaigon.net
    ____________________________



    Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ

    Trong một cuộc phỏng vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một người thổ dân Aborigines kia sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông cũng đã khá cao niên rồi, sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:
    - Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:
    - Tôi đã quen sống như vậy rồi.
    - Nhưng ông cũng cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
    - Có bao giờ ông thắp đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:
    - Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:
    - Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
    - Dĩ nhiên rồi.
    Từ ngày đó các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:
    - Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
    Chúng ta đều cảm nghiệm được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa thương yêu. Và chúng ta cũng hiểu được giới răn của Chúa: "Hãy thương yêu nhau, như Thầy yêu thương các con".

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  37. #26
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    29/04

    Chúa Phục Sinh Luôn Hiện Diện


    Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    Ga 21,1-14

    1Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. 2Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3Ông Simôn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
    4Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. 5Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không." 6Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
    9Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! " 11Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

    Suy niệm:
    Phép lạ hôm nay được thánh Gioan kể lại và cũng là phép lạ cuối cùng của Chúa Giêsu nơi trần thế. Phép lạ này xảy ra sau khi Chúa Giêsu sống lại nghĩa là trong khoảng thời gian 40 ngày trước khi về trời. Nơi xảy ra phép lạ thì gần biển Tibêria, có lẽ gần thành Betsaida là quê hương cùng thánh Phêrô và Gioan là hai vai chính trong câu chuyện hôm nay.
    Các môn đệ được lệnh qua chị Madalêna là sẽ được gặp Chúa phục sinh ở Galilê (Mt 28,10). Trong khi chờ đợi họ trở về sống nghề cũ là chài lưới, thánh Phêrô là người đầu tiên đi đánh cá. Và đêm ấy họ thức trắng đêm và tay trắng chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ thì Chúa hiện đến trên bờ. Trời tảng tản sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Madalêna bên ngôi mộ (Ga 20,14), cũng như hai môn đệ Emmaus (Lc 14,13).
    Từ xa xa Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách đầy yêu thương “Các con à, có gì ăn không ?” (c.5). Đấy là một câu hỏi đối với dân miền biển phải hiểu rằng có đánh cá được gì chăng ? các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi “” (c.5) như bộ mệt mỏi chán chường. Lúc ấy hình như lưới của họ đã thả ở bên trái mạn thuyền. Nên Chúa bảo họ thả lại bên hữu thuyền (c. 6). Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẳn các môn đệ nghĩ lại phép lạ lần trước kia Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi về đêm bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp (Lc 5,1-11).
    Gioan là người đầu tiên phát giác ra đó chính là Chúa Giêsu. Ông nói: “Chính Thầy đó” (c.7). Lúc ấy Phêrô ở trần, chứng tỏ ông hoạt động hăng hái xuống khỏi thuyền, vì lúc ấy thuyền gần bờ, chỉ còn khoảng 90m. Thuyền vào bờ do Phêrô điều khiển. Lúc ấy Chúa bảo đem đến cho Ngài ít cá để nướng ăn điểm tâm. Lúc ấy các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa (c.12). Điều đặc biệt là chính Chúa Giêsu hiện ra đã dọn cho các môn đệ một bữa ăn sáng.
    Ở đây, chúng ta thấy một chi tiết là trong số 6,7 anh em tông đồ đi đánh cá mà chỉ một mình Gioan nhận ra Chúa trước hết, vì Gioan là người được Chúa yêu và yêu Chúa. Cũng chính ông là người tin đầu tiên sự kiện mộ trống (Ga 20,8). Thật đúng với điều thứ sáu của bát phúc là phúc cho kẻ có lòng trong sạch vì họ sẽ được thấy mặt Thiên Chúa (Mt 5,8). Gioan là người được công phúc hôm nay, rất có thể vì đó mà được phép lạ này thì sao.
    Qua phép lạ này, họ tò mò đếm được 153 con cá lớn. Con số 153 cũng có một ý nghĩa là các nhà vạn vật học xưa cũng như nay đều công nhận cá biển gồm 153 loại cá lớn khác nhau. Ngoài ra con số 153 là do sự cộng lại của tất cả các con số (1+2. 2+3...). Như thế có ý ám chỉ rằng nước Chúa như một mẻ lưới cá thu góp tất cả mọi tâm hồn (Mt 13,47), nước Chúa như một chuồng chiên (Ga 10,16). Chính Chúa Giêsu cũng đã từng quả quyết: ngày nào bị treo lên, sẽ kéo mọi người theo (Ga 12,32.6,44). Vậy thì con số 153 cũng là mẻ lưới ám chỉ nước Chúa mở rộng cho mọi tâm hồn tin nhận Chúa không phân biệt màu da chủng tộc, quê hương. Điều phân biệt là cá tốt cá xấu trong ngày tận thế.
    Ngoài ra phép lạ này còn cho chúng ta thấy các tông đồ là những tay chài lưới nhiệt thành vâng lời. Họ đã làm việc với những phương tiện hết sức eo hẹp và có vẻ như thất bại buổi đầu... để họ biết sự thành công đến từ đâu, từ chính Thiên Chúa, chứ sức riêng họ chỉ là vâng lời như một dụng cụ trước Thiên Chúa (Lc 17,10).
    Việc Chúa hiện đến giữa lúc họ làm việc mệt mỏi minh chứng Chúa đã phục sinh.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một đức tin đủ để chúng con mau mắn làm theo lời dạy của Chúa như các môn đệ năm xưa, nhờ đó mà các ông đã thu được mẻ cá kỳ diệu. Trong cuộc sống thường ngày, chúng con không dám xin Chúa cất đi những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Chúng con chỉ xin Chúa ban cho chúng con lòng tin mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, chúng con có thể nhận ra được sự hiện diện của Chúa và tìm được niềm vui của ơn trợ giúp của Chúa. Xin cho chúng luôn làm chứng cho niềm tin vào Chúa phục sinh, khi chúng con dám tin yêu và hy vọng ngay trong những mất mát khổ đau. Khi chúng con dám sống quảng đại, yêu thương và tha thứ ngay trong những ích kỷ, hận thù ở thế gian.
    Lạy Chúa Kytô Phục sinh, xin ban cho chúng con hồng ân nhận ra Chúa giữa những thử thách nghi nan để chúng con luôn tin yêu vào Chúa và làm chứng nhân cho tin mừng của Chúa. Amen


    http://tgpsaigon.net


    ______________________________


    Thánh Catarina ở Siena

    (1347 -- 1380)

    Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Ðức Kitô. Ðiều đáng khâm phục về thánh nữ là ngài coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.

    Thánh Catarina, tên thật là Catarina Benincasa, sinh ở Siena và là người con út trong một gia đình có đến 23 người con. Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Nơi cô sinh trưởng rất gần San Domenico, trung tâm truyền giáo của Dòng Ða Minh, và khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina luyện tập tâm linh qua lối sống khắc khổ.


    Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.


    Dần dà, người ta nhận thấy dường như Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần -- giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng - bắt đầu tuốn đến với cô để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của cô, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận.


    Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha. Nhưng mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Ða Minh năm 1374.

    Cô có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên, cũng như vì ảnh hưởng sâu đậm đối với đức giáo hoàng. Cô làm việc không biết mệt trong cuộc thập tự chinh chống với người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc hòa giải thành phố Florence với đức giáo hoàng.

    Cô thành công trong việc thuyết phục Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI trở về Rôma, nhưng không bao lâu đức giáo hoàng từ trần và Ðức Urbanô VI lên ngôi. Khi cuộc Ðại Ly Giáo bùng nổ, Ðức Urbanô VI mời Catarina đến Rôma, vì đức giáo hoàng cần sự hỗ trợ của cô. Năm 1378, cô đến Rôma và thường xuyên viết thư gửi các nhà lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội để bảo vệ cho quyền giáo hoàng của Ðức Urbanô. Hàng ngày, cô đi bộ đến Ðền Thánh Phêrô và cầu nguyện cho sự hiệp nhất.


    Một vài tuần trước khi chết, cô đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà. Catarina hầu như bất toại cho đến khi từ trần, ngày 24 tháng Tư 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi.

    Cô được Ðức Giáo Hoàng Piô II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào năm 1970, Ðức Phaolô VI tuyên xưng thánh nữ là Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Catarina là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này.


    Trong khi các thư của Thánh Catarina thường được coi là cửa ngõ để biết đến con người của ngài, nhưng người ta thường nhắc đến tác phẩm "Ðối Thoại" mà ngài chỉ coi đó là "cuốn sách của tôi," gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ. Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi ngài ngất trí.
    Trích từ NguoiTinHuu.com

    _______________________________


    Chúc Lành Của Người Cha

    Ðức Hồng Y Cardjin, vị sáng lập của phong trào Thanh Lao Công, đã tự thuật như sau: "Tôi là con của giai cấp công nhân. Nếu tôi đã có thể trở thành linh mục, là cũng nhờ cha tôi". Cha tôi là một công nhân nghèo. người đã phải hy sinh để nuôi dưỡng những đứa con mà hẳn người đã hãnh diện. Tôi còn nhớ, khi lên 13 tuổi, một buổi tối nọ, khi các anh chị của tôi đã lên giường đi ngủ, tôi rón rén bước xuống nhà bếp. Tôi đến gần cha tôi. Người đang ngồi trầm ngâm với chiếc ống điếu. Còn mẹ tôi thì đang khâu giày cho chúng tôi. Tôi rụt rè thưa với cha tôi: "Thưa ba, con có thể tiếp tục học không?". Cha tôi trả lời: "Con ơi, ở tuổi con ba đã phải đi làm rồi. Nay thì ba đã già và sức ba cũng đã mòn".
    Tôi lấy hết can đảm để thuyết phục cha tôi: "Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn tở thành linh mục".
    Bình thường cha tôi là một người ít biểu lộ tình cảm. Nhưng tối hôm đó, khi vừa nghe tôi cho biết ý định làm linh mục, nước mắt người bỗng từ từ lăn trên gò má... Và đôi tay của mẹ tôi cũng run lên vì xúc động.
    Cuối cùng, khi làm chủ được cơn xúc động, cha tôi mới thốt lên với tất cả cương quyết: "Ba má đã hy sinh quá nhiều... Nhưng để cho một người con làm linh mục, ba má nguyện sẽ tiếp tục hy sinh".
    Mà quảthực, cha mẹ tôi đã tiếp tục làm việc nhiều hơn nữa để tôi có thể tiếp tục học. Vừa mãn trung học, 8 ngày trước khi lãnh thưởng cuối năm, tôi nhận được điện tín nhắn tin cha tôi đau nặng.
    Trên giường hấp hối, cha tôi nhìn tôi mỉm cười: đó là chúc lành cuối cùng mà người dành cho tôi. Người cha đáng thương, hy sinh cho đến chết để người con được trở thành linh mục.
    Sau khi vuốt mắt người, tôi đã thề hứa sẽ hy sinh để trở thành linh mục, nhất là linh mục cho giới công nhân.
    Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn. Nhưng tiếng gọi ấy luôn được ngỏ với con người trong một khung cảnh sống cụ thể. Khung cảnh ấy có thể là gia đình, là chợ búa, là trường học, là chỗ làm việc... Có những khung cảnh thuận tiện, mà cũng có những khung cảnh không thuận tiện. Có những nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm, vun xới. Có những nơi hạt giống ấy bị bóp nghẹt...
    Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn, nhưng kẻ được gọi luôn là người đang sống cùng và sống với những người khác. Do đó, nếu không có sự nâng đỡ của những người xung quanh, hạt giống ơn gọi cũng sẽ mai một dễ dàng...
    Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Ý thức đầu tiên của chúng ta trong ngày hôm nay phải là: ơn gọi là vấn đề của mọi người Kitô. Từ gia đình, đến trường học, công sở... mọi người chúng ta đều có trách nhiệm nâng đỡ và bảo vệ hạt giống ơn gọi mà Chúa muốn gieo vào lòng những người anh chị em của chúng ta.
    Thánh Gioan Bosco đã nói: phần thưởng quan trọng nhất mà Chúa có thể dành cho mọi gia đình Kitô, đó là kêu gọi một người con làm linh mục. Phần thưởng trọng đại ấy, Chúa dành cho các gia đình có con cái tận hiến cho Chúa, nhưng Ngài cũng dành cho tất cả những ai cách này hay cách khác biết cổ vũ, nâng đỡ và giúp phát triển ơn kêu gọi...

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  38. #27
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    30/04

    Làm Chứng Về Chúa Phục Sinh


    Thứ Bảy Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

    Lời Chúa:
    (Mc 16, 9-15)

    9Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. 12Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. 13Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. 14Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”


    Suy niệm:
    Đối với đức tin và những đòi hỏi của phép rửa như Thánh Gioan, thánh sử Marcô cho rằng người đầu tiên được Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra là bà Maria Madalena, kẻ đã được Ngài trừ cho bảy quỷ. Sau bà Maria Madalena, những người đầu tiên được Chúa Giêsu hiện ra cũng không phải là các Tông đồ, mà là hai môn đệ đang trên đường trở về làng Emau. Như vậy những người được diễm phúc thấy Chúa Giêsu đầu tiên cũng chỉ là những người ở bên lề nhóm mười hai.
    Thánh Marcô cho chúng ta thấy thái độ cứng lòng tin của các Tông đồ, các Ngài không tin lời của bà Maria Madalena và cũng chẳng đón nhận chứng từ của hai người đi về làng Emau. Vậy mà cuối cùng chứng từ về Chúa Kitô Phục sinh của các Tông đồ vẫn là nền tảng Đức tin của chúng ta. Đức tin của chúng ta quy chiếu về niềm tin của các Tông đồ.
    Đây chính là bài học mà Thánh Marcô muốn dạy cho chúng ta qua đoạn Tin mừng Phục sinh hôm nay. Đức tin mà chúng ta đón nhận qua phép rửa chính là Đức tin mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các Tông đồ để truyền lại cho chúng ta. Chúng ta sống Đức tin của các Tông đồ mà các Ngài đã dùng chính mạng sống của mình để tuyên xưng Đức tin và lưu truyền cho chúng ta.
    Chỉ trong và qua Giáo Hội chúng ta mới lãnh nhận được ơn Đức tin. Bởi vì Giáo Hội ấy được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ, do đó trung thành với Đức tin của các Tông đồ chính là hiệp thông với Giáo Hội, và khi hiệp thông với Giáo Hội, các tín hữu Kitô cũng hiệp thông với nhau. Giáo Hội vốn là Đền thờ, trong đó mỗi Kitô hữu là mỗi viên gạch sống. Giáo Hội hữu tình được hoạt động và liên kết chặt chẽ đó là nhờ vào những viên gạch này. Hình ảnh viên gạch nói lên sự hiệp thông và trung thành đối với mỗi người giáo hữu, vừa nói lên sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu.
    Chúa Kitô Phục sinh đã không hiện ra trước tiên với các Tông đồ mà với người đàn bà và hai môn đệ không thuộc nhóm Tông đồ. Chính những người này là các chứng nhân đầu tiên được sai đến loan báo Tin mừng Phục sinh cho các Tông đồ, họ cũng được Chúa loan báo cho một sứ mệnh loan truyền Chúa Kitô Phục sinh. Các tín hữu Kitô được đón nhận Đức tin từ Giáo Hội, Đức tin ấy không phải là một kho tàng để chôn dấu hay như một nhãn hiệu để trưng bày. Nhưng Đức tin ấy thiết yếu là một sứ mệnh được trao phó cho từng người trong ngôi nhà Giáo Hội mà mỗi người tín hữu Kitô là một viên gạch sống động.
    Mỗi người tùy theo chỗ đứng và cuộc sống của mình để có thể lãnh nhận một trách nhiệm. Trước hết là trách nhiệm đối với bản thân, bởi vì không ai có thể sống Đức tin thay cho người khác hoặc cũng không ai được cứu rỗi nếu chính mình không muốn được cứu rỗi. Thứ đến trách nhiệm đối với tha nhân, mỗi người đều có trách nhiệm đối với phần rỗi của anh chị em mình. Cuộc sống của mỗi người ít hay nhiều đều ảnh hưởng đến cuộc sống của người khác. Người trưởng thành luôn ý thức về hai trách nhiệm ấy.
    Mùa Phục sinh chúng ta được kêu gọi để lặp lại những cam kết của phép Rửa tội và tuyên xưng Đức tin mà các Tông đồ đã truyền lại cho chúng ta. Ước gì lời tuyên xưng ấy không chỉ dừng lại trên môi miệng của chúng ta, mà phải được thể hiện bằng một chứng tá sống động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh ban cho chúng ta sức sống mới và biến đổi chúng ta thành người Kitô hữu trưởng thành và có trách nhiệm để làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại sau ba ngày yên nghỉ trong mồ. Sự phục sinh của Chúa là niềm vui của các tông đồ, là nền tảng cho việc rao giảng tin mừng. Các tông đồ đã hân hoan ra đi loan báo một sứ điệp thật trọng đại: “Chúa đã sống lại”. Xin cho chúng con đủ đức tin để chúng con nhận ra Chúa vẫn hằng sống trong cuộc đời hôm nay. Xin giúp chúng con biết can đảm nói về sự phục sinh của Chúa cho anh em.
    Vâng lạy Chúa, nếu cuộc đời này sinh ra rồi chết đi là hết một kiếp người, thì thật bất hạnh cho kiếp người chúng con. Một kiếp phù sinh vắn vỏi nhưng lắm truân chuyên. Một kiếp người vui ít nhưng buồn lại nhiều. Một kiếp người gặp nhiều bất công, oan trái hơn là công bình,nhân ái. Nhưng thật hạnh phúc cho chúng con khi chúng con biết rằng: quê hương thật của chúng con ở trên trời. Nơi đó không có nước mắt của oan trái lầm than. Nơi đó chỉ có hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Chúa sẽ trả lại công bằng cho những trái ngang của cuộc đời hôm nay. Xin giúp chúng con biết sống cao đẹp trong cuộc đời này để làm chứng về sự sống đời sau.
    Lạy Chúa, Chúa đã sống lại, xin Chúa hãy phục sinh tâm hồn chúng con khỏi những đam mê trần thế, và xin giúp chúng con biết đem niềm vui phục sinh của Chúa đến cho mọi người. Amen


    _______________________________


    Tôi Xin Chấp Nhận

    Tại một bệnh viện trong thành phố Hiroshima bên Nhật Bản, một người đàn bà bị phóng xạ nguyên tử từ 30 năm qua đang lên cơn hấp hối.
    Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.


    Bác sĩ vào phòng bệnh nhân và nói nhỏ với bà: "Akiramé".

    Người đàn bà ngước nhìn vị bác sĩ và dùng ngón tay trỏ viết vào trong lòng bàn trái của bà câu: "Akiramé", nghĩa là "Tôi xin chấp nhận".

    Với tất cả bình thản, người đàn bà đã biến những giờ phút hãi hùng nhất trong cuộc sống thành một biến cố tự nhiên và thanh thản.

    Cuộc sống của chúng ta dường như được cấu tạo bằng nhiều vị khác nhau: đắng cay, chua xót, ngọt bùi... Gia vị là một điều cần thiết cho thức ăn. Người không thích cay đắng thì sẽ xem trái ớt, hạt tiêu là kẻ thù của khẩu vị. Người thích cay đắng thì lại tìm ra mùi vị thơm ngon của nó.

    Hoa nào cũng có mật đắng. Nhưng loài ong khéo léo để chỉ hút mật ngọt.

    Thiên Chúa ban cho chúng ta một cuộc sống với muôn màu sắc và hương vị khác nhau. Chúng ta phải là loài ong đi tìm mật ngọt trong vườn hoa cuộc sống ấy. Nếu chỉ nhìn thấy mật đắng, chúng ta sẽ bỏ cuộc đầu hàng trong chán nản. Nếu biết biến báo, chúng ta có thể tìm được mật ngọt và biến những đắng cay chua xót thành mật ngọt và hương thơm.

    Sau khi đã đánh bại Ðức Quốc Xã và giải phóng Âu Châu, Churchill thủ tướng nước Anh đãtuyên bố: "Không gì buồn thảm cho bằng một chiến thắng". Cảnh thu dọn chiến trường, cảnh kẻ khóc người cười, cảnh vợ mất chồng, cảnh cha mẹ mất con cái... Chiến thắng ngự trị trên tro tàn, đổ nát.
    Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.


    Hôm nay 30 tháng tư, đánh dấu một trong những biến cố đau thương nhất của lịch sử dân tộc. Mỗi năm chúng ta có dịp ôn lại ngày lịch sử ấy. Mỗi người một tâm tình. Nhưng dưới cái nhìn Ðức tin, người Kitô luôn được mời gọi để nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Với tất cả bình thản và lạc quan, chúng ta hãy thốt lên như thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng giữa cơn đau quằn quại trong thân xác và tâm hồn: "Tất cả đều là ơn Chúa".

    Tuyên xưng niềm tin vào Chúa Quan Phòng có nghĩa là chấp nhận mọi biến cố trong cuộc sống như một khởi đầu mới, một khởi đầu với những ơn sủng dồi dào hơn. Với những kẻ Thiên Chúa yêu thương, thì mọi sự đều quy về điều tốt...

    Còn tâm tình nào đúng đắn hơn trong ngày lịch sử này là cảm tạ và phó thác. Cảm tạ Chúa vì qua mọi biến cố, Chúa Quan Phòng luôn gìn giữ chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên đường ân phúc của Ngài. Phó thác cho Ngài bởi vì Ngài luôn có mặt trong cuộc sống để biến tất cả những thất bại, đau khổ, cay đắng trong cuộc sống thành khởi đầu của một cuộc sống tốt đẹp hơn.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com