29/04

Chúa Phục Sinh Luôn Hiện Diện


Thứ Sáu Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Lời Chúa:
Ga 21,1-14

1Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. 2Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3Ông Simôn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. 5Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không." 6Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Simôn Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! " 11Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

Suy niệm:
Phép lạ hôm nay được thánh Gioan kể lại và cũng là phép lạ cuối cùng của Chúa Giêsu nơi trần thế. Phép lạ này xảy ra sau khi Chúa Giêsu sống lại nghĩa là trong khoảng thời gian 40 ngày trước khi về trời. Nơi xảy ra phép lạ thì gần biển Tibêria, có lẽ gần thành Betsaida là quê hương cùng thánh Phêrô và Gioan là hai vai chính trong câu chuyện hôm nay.
Các môn đệ được lệnh qua chị Madalêna là sẽ được gặp Chúa phục sinh ở Galilê (Mt 28,10). Trong khi chờ đợi họ trở về sống nghề cũ là chài lưới, thánh Phêrô là người đầu tiên đi đánh cá. Và đêm ấy họ thức trắng đêm và tay trắng chẳng được con cá nào. Họ sửa soạn giũ lưới đi nghỉ thì Chúa hiện đến trên bờ. Trời tảng tản sáng để có thể nhận biết người và thuyền. Nhưng họ vẫn không nhận ra Chúa Giêsu đứng đó, cũng giống như trường hợp của Maria Madalêna bên ngôi mộ (Ga 20,14), cũng như hai môn đệ Emmaus (Lc 14,13).
Từ xa xa Chúa Giêsu gọi các môn đệ một cách đầy yêu thương “Các con à, có gì ăn không ?” (c.5). Đấy là một câu hỏi đối với dân miền biển phải hiểu rằng có đánh cá được gì chăng ? các môn đệ trả lời một tiếng vắn vỏi “” (c.5) như bộ mệt mỏi chán chường. Lúc ấy hình như lưới của họ đã thả ở bên trái mạn thuyền. Nên Chúa bảo họ thả lại bên hữu thuyền (c. 6). Họ vâng lời và họ kéo được quá nhiều cá hơn sức họ mong tưởng. Thấy thế hẳn các môn đệ nghĩ lại phép lạ lần trước kia Chúa cũng bảo Phêrô ra khơi về đêm bắt cá nhiều đến nỗi phải nhờ thuyền bạn bè chở giúp (Lc 5,1-11).
Gioan là người đầu tiên phát giác ra đó chính là Chúa Giêsu. Ông nói: “Chính Thầy đó” (c.7). Lúc ấy Phêrô ở trần, chứng tỏ ông hoạt động hăng hái xuống khỏi thuyền, vì lúc ấy thuyền gần bờ, chỉ còn khoảng 90m. Thuyền vào bờ do Phêrô điều khiển. Lúc ấy Chúa bảo đem đến cho Ngài ít cá để nướng ăn điểm tâm. Lúc ấy các môn đệ mới nhận ra là Chúa và không ai dám hỏi gì nữa, không còn ai hồ nghi gì nữa (c.12). Điều đặc biệt là chính Chúa Giêsu hiện ra đã dọn cho các môn đệ một bữa ăn sáng.
Ở đây, chúng ta thấy một chi tiết là trong số 6,7 anh em tông đồ đi đánh cá mà chỉ một mình Gioan nhận ra Chúa trước hết, vì Gioan là người được Chúa yêu và yêu Chúa. Cũng chính ông là người tin đầu tiên sự kiện mộ trống (Ga 20,8). Thật đúng với điều thứ sáu của bát phúc là phúc cho kẻ có lòng trong sạch vì họ sẽ được thấy mặt Thiên Chúa (Mt 5,8). Gioan là người được công phúc hôm nay, rất có thể vì đó mà được phép lạ này thì sao.
Qua phép lạ này, họ tò mò đếm được 153 con cá lớn. Con số 153 cũng có một ý nghĩa là các nhà vạn vật học xưa cũng như nay đều công nhận cá biển gồm 153 loại cá lớn khác nhau. Ngoài ra con số 153 là do sự cộng lại của tất cả các con số (1+2. 2+3...). Như thế có ý ám chỉ rằng nước Chúa như một mẻ lưới cá thu góp tất cả mọi tâm hồn (Mt 13,47), nước Chúa như một chuồng chiên (Ga 10,16). Chính Chúa Giêsu cũng đã từng quả quyết: ngày nào bị treo lên, sẽ kéo mọi người theo (Ga 12,32.6,44). Vậy thì con số 153 cũng là mẻ lưới ám chỉ nước Chúa mở rộng cho mọi tâm hồn tin nhận Chúa không phân biệt màu da chủng tộc, quê hương. Điều phân biệt là cá tốt cá xấu trong ngày tận thế.
Ngoài ra phép lạ này còn cho chúng ta thấy các tông đồ là những tay chài lưới nhiệt thành vâng lời. Họ đã làm việc với những phương tiện hết sức eo hẹp và có vẻ như thất bại buổi đầu... để họ biết sự thành công đến từ đâu, từ chính Thiên Chúa, chứ sức riêng họ chỉ là vâng lời như một dụng cụ trước Thiên Chúa (Lc 17,10).
Việc Chúa hiện đến giữa lúc họ làm việc mệt mỏi minh chứng Chúa đã phục sinh.


Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một đức tin đủ để chúng con mau mắn làm theo lời dạy của Chúa như các môn đệ năm xưa, nhờ đó mà các ông đã thu được mẻ cá kỳ diệu. Trong cuộc sống thường ngày, chúng con không dám xin Chúa cất đi những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Chúng con chỉ xin Chúa ban cho chúng con lòng tin mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, chúng con có thể nhận ra được sự hiện diện của Chúa và tìm được niềm vui của ơn trợ giúp của Chúa. Xin cho chúng luôn làm chứng cho niềm tin vào Chúa phục sinh, khi chúng con dám tin yêu và hy vọng ngay trong những mất mát khổ đau. Khi chúng con dám sống quảng đại, yêu thương và tha thứ ngay trong những ích kỷ, hận thù ở thế gian.
Lạy Chúa Kytô Phục sinh, xin ban cho chúng con hồng ân nhận ra Chúa giữa những thử thách nghi nan để chúng con luôn tin yêu vào Chúa và làm chứng nhân cho tin mừng của Chúa. Amen


http://tgpsaigon.net


______________________________


Thánh Catarina ở Siena

(1347 -- 1380)

Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Ðức Kitô. Ðiều đáng khâm phục về thánh nữ là ngài coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.

Thánh Catarina, tên thật là Catarina Benincasa, sinh ở Siena và là người con út trong một gia đình có đến 23 người con. Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Nơi cô sinh trưởng rất gần San Domenico, trung tâm truyền giáo của Dòng Ða Minh, và khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina luyện tập tâm linh qua lối sống khắc khổ.


Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.


Dần dà, người ta nhận thấy dường như Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần -- giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng - bắt đầu tuốn đến với cô để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của cô, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận.


Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha. Nhưng mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Ða Minh năm 1374.

Cô có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên, cũng như vì ảnh hưởng sâu đậm đối với đức giáo hoàng. Cô làm việc không biết mệt trong cuộc thập tự chinh chống với người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc hòa giải thành phố Florence với đức giáo hoàng.

Cô thành công trong việc thuyết phục Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI trở về Rôma, nhưng không bao lâu đức giáo hoàng từ trần và Ðức Urbanô VI lên ngôi. Khi cuộc Ðại Ly Giáo bùng nổ, Ðức Urbanô VI mời Catarina đến Rôma, vì đức giáo hoàng cần sự hỗ trợ của cô. Năm 1378, cô đến Rôma và thường xuyên viết thư gửi các nhà lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội để bảo vệ cho quyền giáo hoàng của Ðức Urbanô. Hàng ngày, cô đi bộ đến Ðền Thánh Phêrô và cầu nguyện cho sự hiệp nhất.


Một vài tuần trước khi chết, cô đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà. Catarina hầu như bất toại cho đến khi từ trần, ngày 24 tháng Tư 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi.

Cô được Ðức Giáo Hoàng Piô II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào năm 1970, Ðức Phaolô VI tuyên xưng thánh nữ là Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Catarina là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này.


Trong khi các thư của Thánh Catarina thường được coi là cửa ngõ để biết đến con người của ngài, nhưng người ta thường nhắc đến tác phẩm "Ðối Thoại" mà ngài chỉ coi đó là "cuốn sách của tôi," gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ. Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi ngài ngất trí.
Trích từ NguoiTinHuu.com

_______________________________


Chúc Lành Của Người Cha

Ðức Hồng Y Cardjin, vị sáng lập của phong trào Thanh Lao Công, đã tự thuật như sau: "Tôi là con của giai cấp công nhân. Nếu tôi đã có thể trở thành linh mục, là cũng nhờ cha tôi". Cha tôi là một công nhân nghèo. người đã phải hy sinh để nuôi dưỡng những đứa con mà hẳn người đã hãnh diện. Tôi còn nhớ, khi lên 13 tuổi, một buổi tối nọ, khi các anh chị của tôi đã lên giường đi ngủ, tôi rón rén bước xuống nhà bếp. Tôi đến gần cha tôi. Người đang ngồi trầm ngâm với chiếc ống điếu. Còn mẹ tôi thì đang khâu giày cho chúng tôi. Tôi rụt rè thưa với cha tôi: "Thưa ba, con có thể tiếp tục học không?". Cha tôi trả lời: "Con ơi, ở tuổi con ba đã phải đi làm rồi. Nay thì ba đã già và sức ba cũng đã mòn".
Tôi lấy hết can đảm để thuyết phục cha tôi: "Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn tở thành linh mục".
Bình thường cha tôi là một người ít biểu lộ tình cảm. Nhưng tối hôm đó, khi vừa nghe tôi cho biết ý định làm linh mục, nước mắt người bỗng từ từ lăn trên gò má... Và đôi tay của mẹ tôi cũng run lên vì xúc động.
Cuối cùng, khi làm chủ được cơn xúc động, cha tôi mới thốt lên với tất cả cương quyết: "Ba má đã hy sinh quá nhiều... Nhưng để cho một người con làm linh mục, ba má nguyện sẽ tiếp tục hy sinh".
Mà quảthực, cha mẹ tôi đã tiếp tục làm việc nhiều hơn nữa để tôi có thể tiếp tục học. Vừa mãn trung học, 8 ngày trước khi lãnh thưởng cuối năm, tôi nhận được điện tín nhắn tin cha tôi đau nặng.
Trên giường hấp hối, cha tôi nhìn tôi mỉm cười: đó là chúc lành cuối cùng mà người dành cho tôi. Người cha đáng thương, hy sinh cho đến chết để người con được trở thành linh mục.
Sau khi vuốt mắt người, tôi đã thề hứa sẽ hy sinh để trở thành linh mục, nhất là linh mục cho giới công nhân.
Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn. Nhưng tiếng gọi ấy luôn được ngỏ với con người trong một khung cảnh sống cụ thể. Khung cảnh ấy có thể là gia đình, là chợ búa, là trường học, là chỗ làm việc... Có những khung cảnh thuận tiện, mà cũng có những khung cảnh không thuận tiện. Có những nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm, vun xới. Có những nơi hạt giống ấy bị bóp nghẹt...
Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn, nhưng kẻ được gọi luôn là người đang sống cùng và sống với những người khác. Do đó, nếu không có sự nâng đỡ của những người xung quanh, hạt giống ơn gọi cũng sẽ mai một dễ dàng...
Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Ý thức đầu tiên của chúng ta trong ngày hôm nay phải là: ơn gọi là vấn đề của mọi người Kitô. Từ gia đình, đến trường học, công sở... mọi người chúng ta đều có trách nhiệm nâng đỡ và bảo vệ hạt giống ơn gọi mà Chúa muốn gieo vào lòng những người anh chị em của chúng ta.
Thánh Gioan Bosco đã nói: phần thưởng quan trọng nhất mà Chúa có thể dành cho mọi gia đình Kitô, đó là kêu gọi một người con làm linh mục. Phần thưởng trọng đại ấy, Chúa dành cho các gia đình có con cái tận hiến cho Chúa, nhưng Ngài cũng dành cho tất cả những ai cách này hay cách khác biết cổ vũ, nâng đỡ và giúp phát triển ơn kêu gọi...

Trích sách Lẽ Sống