Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 28 trên 28

Chủ đề: SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 08/2011

  1. #1
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 08/2011

    01/08

    Chúa Giêsu là nhà giáo dục đại tài


    Thứ Hai sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 14,22-36

    22Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy! ", và sợ hãi la lên. 27Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! " 28Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." 29Đức Giêsu bảo ông: "Cứ đến! " Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. 30Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! " 31Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? " 32Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa! " 34Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghennêxaét. 35Dân địa phương nhận ra Đức Giêsu, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Người. 36Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.



    Suy niệm:
    Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin mừng hôm nay.
    Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm Vua, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
    Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, sống đức tin trong thời đại hôm nay cũng khó khăn tựa như đi trên mặt biển. Có biết bao cám dỗ khiến chúng con xa lìa Chúa. Có biết bao những sóng gió khiến chúng con đánh mất niềm tin nơi Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ niềm tin còn yếu kém của chúng con để dầu đứng giữa những nghi nan của dòng đời, những sóng gió cuộc đời, chúng con vẫn luôn đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Xin giúp chúng con biết noi gương thánh Phêrô mà thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con”.
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn ở bên chúng con. Chúng con tin tưởng Chúa luôn bảo vệ chúng con. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng con. Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa dù gặp những gian nan. Xin cho chúng con biết nương tựa vào Chúa trong những lúc khó khăn và nguy hiểm của dòng đời. Chúa là sức mạnh và là thành luỹ bảo vệ đời chúng con. Xin cho chúng con biết tin tưởng và an vui nép mình bên Chúa. Amen

    http://tgpsaigon.net/
    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 01-08-2011 lúc 07:29 AM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  2. Có 9 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  3. #2
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    1 Tháng Tám
    Thánh Anphong Liguori
    (1696-1787)

    Công Ðồng Vatican II xác định rằng, thần học luân lý phải được nuôi dưỡng bởi Phúc Âm, và chứng tỏ được sự cao quý của ơn gọi người Kitô Hữu, và nhiệm vụ của họ là trưng ra kết quả ấy trong đời sống bác ái giữa trần gian. Vào năm 1950, Thánh Anphong được Ðức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy. Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắt khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của Thánh Anphong.



    Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Ðại Học Naples, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô Giáo.
    Ngài sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Ðó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Ðức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
    Sự canh tân mục vụ lớn lao của Thánh Anphong là cách giảng thuyết và giải tội -- ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Naples trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc.
    Ngài được tấn phong giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện giáo phận.
    Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với "sự tăm tối" vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính.
    Thánh Anphong nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các Vinh Dự của Ðức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo Hội.
    Ngài được phong thánh năm 1831, và được tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1871.

    Lời Bàn


    Trên hết tất cả, Thánh Anphong nổi tiếng là một con người thực tế đối phó với các vấn đề cụ thể hơn là trừu tượng. Cuộc đời ngài quả thật là một gương mẫu "thực tiễn" cho Kitô Hữu ngày nay đang bị khó khăn để nhận chân giá trị của đời sống Kitô Giáo giữa cơn lốc khó khăn, đau khổ, hiểu lầm và thất bại. Thánh Anphong đã trải qua tất cả những đau khổ ấy. Ngài là thánh bởi vì ngài luôn duy trì sự liên hệ mật thiết với Ðức Kitô thống khổ qua tất cả những thử thách cuộc đời.

    Lời Trích


    Khi Thánh Anphong làm giám mục, một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Thánh Anphong mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Thánh Anphong ôn tồn nói, "Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Ðây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình."

    Trích từ NguoiTinHuu.com



    _______________________________________



    Bài Giảng Của Vị Giáo Trưởng

    Trong một thị trấn nhỏ bên Liên Xô. Một số người Do Thái đang chờ đón vị giáo trưởng của họ. Ðã lâu lắm cộng đoàn của họ không có người lãnh đạo. Vị giáo trưởng lại cư ngụ trong một thành phố khác. Ông chỉ đến thăm cộng đoàn nhỏ bé này mỗi năm một lần. Ai ai cũng náo nức được gặp con người thánh thiện nổi tiếng này. Mọi người chuẩn bị những câu hỏi mà họ sẽ lần lượt nêu lên để xin vị giáo trưởng giải đáp.
    Khi ông đến nơi, sự căng thẳng càng hiện lên trên nét mặt của nhiều người. Ai cũng đang trong tư thế giơ tay để đặt câu hỏi. Nhưng khi mọi người đã an tọa trong phòng họp, vị giáo trưởng không nói lời nào. Ông đưa mắt nhìn mọi người. Một hồi lâu, ông bỗng ngân nga một điệu nhạc. Mọi người đều bắt chước làm theo. Vị giáo trưởng lại cất tiếng hát lên một bài ca quen thuộc. Mọi người cũng hát theo ông... Mọi người tưởng nghi thức mở đầu ấy sẽ chấm dứt và vị giáo trưởng sẽ nói lên những lời vàng ngọc.
    Nhưng không, trái với sự chờ đợi của mọi người, hết bài ca này đến bài ca khác, ông không ngừng bắt lên những bài ca mới. Khi các bài ca vừa dứt, ông bước xuống khỏi bục giảng và bắt đầu nhảy múa. Ông vừa nhảy vừa vỗ tay, không mấy chốc cả cử tọa cũng bước ra khỏi ghế và nhảy theo ông. Tiếng vỗ tay, tiếng hát, tiếng nhịp chân lôi kéo mọi người vào điệu múa khiến họ không còn nhớ đến những câu hỏi mà họ đã chuẩn bị từ mấy hôm trước. Cả cộng đoàn hòa nhịp với nhau trong đôi chân, cùng nắm tay nhau, cùng khăng khít với nhau trong phấn khởi, vui tươi, cảm thông, hiệp nhất...
    Khi các điệu vũ đã chấm dứt, mọi người trở về chỗ ngồi của mình. Lúc bấy giờ, vị giáo trưởng mới lên tiếng nói và ông chỉ nói có vỏn vẹn một câu ngắn ngủi như sau: "Tôi tin chắc rằng tôi đã trả lời cho mọi thắc mắc của anh chị em".
    Cô đơn là nguyên nhân gây ra mọi thứ xáo trộn, bệnh tật trong chúng ta. Cô đơn đưa chúng ta đến sầu muộn. Sầu muộn đưa chúng ta đến nổi loạn. Nổi loạn đưa chúng ta đến tội ác...
    Có những người bị người khác đày đọa cô đơn, nhưng cũng không thiếu những người tự giam hãm vào cô đơn. Nhưng đày đọa kẻ khác vào cô đơn cũng có nghĩa là cắt bớt đi một sợi dây liên kết, là tiến dần đến chỗ cô đơn.
    Ðể ra khỏi cô đơn, liều thuốc duy nhất chính là làm cho người khác bớt cô đơn. Một tiếng hát vui tươi cất lên để mời gọi mọi người cùng hát với mình, một tiếng vỗ tay tung ra để mời gọi mọi người cùng phấn khởi với mình, một nhịp bước đưa ra để mời gọi mọi người cùng nhảy múa với mình: khi hòa nhịp với nhau trong một niềm vui chung, người ta sẽ xóa đi được bao nhiêu vấn đề vướng mắc trong tâm tư.
    Có ra khỏi chính mình để chia vui sẻ buồn với người, có ra khỏi chính mình để chỉ nghĩ đến những ưu tư phiền muộn của người, có ra khỏi chính mình để lo lắng cho người, để giúp đỡ người, chúng ta mới làm vơi đi được nỗi cô đơn của mình và cũng giúp người bớt cô đơn.
    Cho thì có phúc hơn nhận lãnh: càng trao ban, càng ra khỏi chính mình, chúng ta mới cảm thấy vơi nhẹ đi những ưu tư, lo lắng của mình...

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  4. Có 8 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  5. #3
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    02/08

    Đâu là chuẩn mực?


    Thứ Ba sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 15,1-2.10-14

    1Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói rằng: 2"Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? " 10Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông lại mà bảo: "Hãy nghe và hiểu cho rõ: 11Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế." 12Bấy giờ các môn đệ đến gần Đức Giêsu mà thưa rằng: "Thầy có biết không? Những người Pharisêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy." 13Đức Giêsu đáp: "Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. 14Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố."




    Suy niệm:
    Bài tin mừng hôm nay bắt đầu bằng việc thắc mắc từ các kinh sư về luật sạch dơ trong đời sống thường ngày mà các ông gọi là tập tục của tiền nhân. Từ xưa đến nay chúng ta vẫn nhắc nhở nhau phải hiếu kính tổ tiên. Phải giữ gìn những truyền thống tốt đẹp cha ông ta để lại. Nghĩ cho cùng thì việc rửa tay trước khi ăn là một truyền thống tốt, chúng ta nên duy trì. Phải chăng những người Pharisêu có lý khi dựa vào truyền thống của tiền nhân để bắt bẻ Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đã lội ngược dòng đời (không rửa tay trước khi ăn)?
    Vậy tại sao Chúa Giê su lại giáng lên họ một đòn khá mạnh khi đề cập đến “cái vào miệng” và “cái từ miệng ra”? Mạnh thật và đau thật. Đau đến nỗi môn đệ của Ngài cũng phải lên tiếng thay cho họ: "Thầy có biết không? Những người Pharisêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy. Về phần Chúa Giêsu, Ngài biết rõ ý đồ đen tối từ lòng dạ họ. Lòng dạ của những người đầy chước độc mưu thâm: ghen tương, tranh chấp, đố kỵ, tìm kẽ hở để chà đạp người khác và để che lấp tội của chính mình. Đó là một âm mưu khá chuyên nghiệp của những hung thủ giết người không gươm. Xã hội chúng ta hôm nay cũng không thiếu những con người như thế. Bản thân chúng ta cũng có những lúc chẳng khác gì họ khi cư xử với tha nhân. Lấy mình làm thước đo để chà đạp anh em. Sống giả nhân giả nghĩa.
    Chúng ta sẽ làm gì để trở nên tự do và giúp nhau được tự do trong ân sủng Chúa, sự tự do của con cái Thiên Chúa.
    Đâu là chuẩn mực cho đời sống ? Thưa đó chính là chuẩn mực tình yêu. Chúng ta có rất nhiều tài: tài hùng biện, tài lãnh đạo, tài giao tiếp…Nhưng nên nhớ rằng chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Chúng ta sống với nhau trong sự liên đới, chúng ta cần có nhau. Khả năng Chúa ban cho chúng ta là để làm phong phú cho nhau, thậm chí sửa dạy nhau khi cần thiết. Vì thế những luật lệ phải được chúng ta dùng trong tình yêu thương, phải biết đặt tình yêu lên trên lề luật. Thiếu tình yêu, luật sẽ trở nên cứng nhắc. Thiếu tình yêu, luật chỉ còn là vết kim châm rướm máu thay vì là kim chỉ nam cho đời sống.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày lắm khi chúng con bị rơi vào tình trạng lấy mình làm tiêu chuẩn, làm thước đo cho người khác. Chúng con chủ quan đánh giá người khác theo lăng kính thiển cận của mình. Từ đánh giá chúng con đi đến chỗ hạ giá lẫn nhau. Cuộc sống từ đó đã có nhiều dối trá giả hình. Vì nhiều khi chúng con cố tình hạ giá người khác để che đậy khiếm khuyết của bản thân. Hận thù tranh chấp cũng từ đó nảy sinh. Xin Chúa cho chúng con ý thức và luôn trân trọng phẩm giá của anh chị em xung quanh chúng con. Trân trọng sự tự do Chúa ban cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con luôn biết nói lời yêu thương, lời xây dựng bình an. Trên hết đó là lời sự thật bắt nguồn từ tình yêu Đức Kitô, Đấng là nguồn chân-thiện-mỹ.
    Lạy Chúa, như Chúa đã nói: “mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Thực tế ai trong chúng con cũng rất sợ cảnh mù lòa. Bởi mù lòa khiến chúng con khó cảm hưởng được vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh. Nhưng còn một thứ mù lòa đáng sợ hơn gấp ngàn lần. Đó là sự mù lòa về tinh thần bởi đã chai lỳ trong tội lỗi. Vì quá quen với những đam mê danh lợi thú khiến chúng con mất dần và mất hết cảm giác về tội. Mù mà chúng con không biết mình mù. Cảm hưởng về ơn Chúa thật diệu kỳ qua thiên nhiên, qua con người cũng dần trở nên xa lạ với chúng con. Xin Chúa đến phục hồi cặp mắt tinh thần cho chúng con. Và xin cho chúng con dám can đảm bắt đầu lại.

    http://tgpsaigon.net/

    ______________________________________
    2 Tháng Tám
    Thánh Eusebius ở Vercelli
    (283?-371)


    Có người nói nếu không có lạc giáo Arian có lẽ thật khó để viết về cuộc đời của nhiều vị thánh tiên khởi. (Nguyên lý căn bản của lạc thuyết Arian là từ chối thiên tính của Ðức Kitô và bởi đó, họ cũng từ chối thiên tính của Chúa Thánh Thần). Thánh Eusebius là một trong những vị bảo vệ Giáo Hội trong thời kỳ nhiều thử thách.

    Sinh ở đảo Sardinia, ngài là một thành viên của giáo sĩ Rôma và là giám mục đầu tiên của Vercelli thuộc Piedmont. Ngài cũng là người đầu tiên kết hợp đời sống đan viện với đời sống giáo sĩ, qua sự thành lập một cộng đoàn các tu sĩ trong giáo phận với sự tin tưởng rằng phương cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là để họ nhìn thấy các giáo sĩ được đào tạo trong một cộng đoàn nhân đức và sống động.

    Ngài được Ðức Giáo Hoàng Liberius sai đến gặp hoàng đế Constantius để thuyết phục nhà vua triệu tập một công đồng nhằm giải quyết các khó khăn giữa Công Giáo và Arian. Khi công đồng được triệu tập ở Milan, vì cảm thấy khối Arian đang thắng thế, mặc dù người Công Giáo đông hơn nên Ðức Eusebius không đến tham dự, mãi cho đến khi chính nhà vua ép buộc.

    Khi nhà vua yêu cầu mọi giám mục phải ký vào bản án để buộc tội Ðức Athanasius -- là người cương quyết chống với lạc thuyết Arian -- Ðức Eusebius đã từ chối; thay vào đó, ngài đặt Kinh Tin Kính lên bàn hội nghị và yêu cầu mọi người ký tên vào đó trước khi bàn đến các vấn đề khác. Nhà vua dùng áp lực với Ðức Eusebius, nhưng ngài quả quyết rằng Ðức Athanasius vô tội, và nhắc nhở hoàng đế rằng không thể dùng thế lực ngoài đời để ảnh hưởng đến các quyết định của Giáo Hội. Lúc đầu nhà vua đe dọa giết ngài, nhưng sau đó lưu đầy ngài đến Palestine. Ở đây, phe Arian kéo ngài lê lết trên đường phố và giam ngài trong một căn phòng nhỏ, và sau bốn ngày ngài tuyệt thực để phản đối họ mới thả ngài ra, nhưng được một ít lâu, họ lại tiếp tục hành hạ ngài.

    Ðức Eusebius phải tiếp tục cuộc sống lưu đầy ở Tiểu Á và Ai Cập, cho đến khi tân hoàng đế cho phép ngài trở lại giáo phận ở Vercelli. Ngài tham dự Công Ðồng Alexandria với Ðức Athanasius và chấp thuận khoan hồng cho các giám mục trước đây theo phe Arian. Ngài còn cộng tác với Thánh Hilary ở Poitiers để chống với lạc giáo Arian.


    Lời Trích



    "Ðể việc chăm sóc các linh hồn có hiệu quả, các linh mục được yêu cầu sống chung trong một cộng đoàn, nhất là những ai sinh hoạt trong cùng một giáo xứ. Nếp sống này không những khích lệ giáo dân hoạt động tông đồ, mà còn là một gương mẫu của lòng bác ái và sự hiệp nhất cho người tín hữu" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Giám Mục, 30).

    Trích từ NguoiTinHuu.com
    ____________________________________


    Nghệ Thuật Làm Lửa

    Thời xa xưa, tìm được cách làm ra lửa là cả một phát minh vĩ đại...


    Có một nhà phát minh nọ, sau khi đã tìm được nghệ thuật làm ra lửa đã đi từ bộ lạc này sang bộ lạc khác để quảng bá phương pháp của mình. Có nhiều bộ lạc tiếp thu phương pháp của ông mà không hề bày tỏ một dấu hiệu nào của lòng biết ơn. Nhưng con người quảng đại này không màng đến chuyện người ta biết ơn hay phản bội. Niềm hạnh phúc của ông là thấy được mỗi ngày càng có được nhiều người hưởng được sự phát minh của ông.

    Cũng giống như những bộ lạc trước, bộ lạc cuối cùng mà ông mang đến nghệ thuật làm ra lửa cũng hồ hởi đón tiếp ông. Nhưng không mấy chốc, các tư tế trong bộ lạc tỏ lòng ghen tức, họ âm mưu sát hại ông để xóa bỏ mọi ảnh hưởng của ông. Sau khi mưu sát ông, để đánh tan mọi nghi ngờ, các tư tế cho vẽ một bức chân dung của ông và đặt trên bàn thờ. Trong mọi nghi thức tế tự, tên của ông được thành kính nhắc đến như một đại ân nhân của bộ lạc. Các dụng cụ ông làm ra lửa cũng được các tư tế cho đặt vào trong một chiếc hộp quý. Họ cũng rêu rao rằng bất cứ ai lấy lòng tin mà chạm đến các báu vật ấy sẽ được chữa mọi bệnh tật.

    Vị Thượng tế của bộ lạc cũng nhận trách nhiệm biên soạn một tiểu sử của vị phát minh ra lửa. Quyển tiểu sử ấy cũng trở thành một thứ sách Thánh trong đó gương sáng, đời sống gương mẫu của vị đại ân nhân được ca tụng và đề ra như lý tưởng cho mọi người noi theo. Các tư tế cũng tự nhận cho họ quyền được giải thích về cuộc đời và các lời răn dạy của vị phát minh.

    Ðể đảm bảo tính cách tinh ròng của những lời răn dạy của vị phát minh, các tư tế ra vạ tuyệt thông hoặc tử hình cho tất cả những ai không chấp nhận những lời giải thích của họ. Dân chúng sợ hãi đến độ dần dà họ chỉ còn biết có những lưòi giải thích của các vị tư tế và quên hẳn cả chính nghệ thuật làm ra lửa.

    Câu chuyện ngụ ngôn trên đây đã được một vị linh đạo nổi tiếng của Ấn Ðộ là linh mục Anthony De Mello ghi lại trong các câu chuyện có nội dung giáo lý của cha. Qua câu chuyện này, cha De Mello như muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cái khuynh hướng chung của những người có tôn giáo là dễ dàng quên đi chính cái cốt lõi của tôn giáo. Con người dẽ bám vào những nghi thức bên ngoài của tôn giáo mà quên đi sứ điệp thiết yếu của nó. Chiến tranh tôn giáo, sự bất khoan dung của các tín đồ đều bắt nguồn từ khuynh hướng trên.

    Người tín hữu Kitô chúng ta có lẽ cũng không thoát khỏi khuynh hướng ấy. Chúng ta dễ bị cám dỗ nhìn vào đạo của chúng ta như một hệ thống của những cơ cấu, của những nghi thức, của những điều phải tin, phải giữ, nhưng lại quên đi cái cốt lõi của đạo chúng ta chính là tình yêu. Chúng ta sẵn sàng nhân danh Chúa, nhân danh đạo lý để loại trừ, để bách hại người anh em bằng cách này hay cách khác. Rốt cục cũng giống như bộ lạc cuối cùng trong câu chuyện ngụ ngôn trên đây, lửa của yêu thương mà Chúa Giêsu đã mang đến, chúng ta đã dập tắt đi để thay vào đó bằng những nghi thức thừa thãi trống rỗng. Chúng ta dễ dàng thay thế đạo của yêu thương, đạo của Tin Mừng bằng đạo của hình thức, đạo của giả hình...

    Quên đi cốt lõi của Tin Mừng là Yêu Thương, chúng ta cũng loại bỏ chính Chúa Kitô ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Không chừng chúng ta cũng đang đóng đinh Ngài một lần thứ hai. Lời Kinh của chúng ta sẽ chỉ là những tiếng kêu trống rỗng, các nghi thức của chúng ta sẽ chỉ là những trò hề, nếu cuộc sống của chúng ta chưa được thấm nhuần, tưới gội bằng Lửa của Yêu Thương mà Chúa Giêsu đã mang đến cho chúng ta

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  6. Có 8 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  7. #4
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    03/08

    Sống niềm tin


    Thứ Tư sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 15,21-28

    21Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn, 22thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm! " 23Nhưng Người không đáp lại một lời. 24Người đáp: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ítraen mà thôi." 25Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi! "26Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con." 27Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." 28Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.



    Suy niệm:
    Mahatma Gandhi, người đã có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
    Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
    Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
    Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước kia, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
    Người đàn bà Canaan có lẽ không biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin; chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
    Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong một cuộc sống chỉ có nghi kị và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gặm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, ở đời sự giàu sang, danh vọng và khoái lạc trần thế là những điều hấp dẫn chúng con, trói buộc chúng con, làm cho chúng con đui mù không nhìn thấy những giá trị vĩnh cửu ở trên trời. Chúng con đã hành động theo những đam mê mù quáng. Chúng con đã lao vào thói hư tật xấu vì chiều theo tính xác thịt. Xin Chúa giải thoát và tháo gỡ chúng con khỏi mọi sự u mê của trần thế, để chúng con nhìn thấy những sự phong phú và vĩnh cửu ở trên trời, để chúng con luôn nỗ lực tìm kiếm Chúa và biết khôn ngoan chọn Chúa là nguồn hạnh phúc của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết sống sao cho xứng với tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con.
    Lạy Chúa, giữa những thói đời đầy đam mê thấp hèn, xin giúp chúng con đứng vững trước những cám dỗ tội lỗi được thể hiện qua việc sống và tin vào Ngài, và xin cho chúng con trung tín trong ơn nghĩa với Chúa luôn. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    ________________________


    Dòng Nước Từ Sa Mạc

    Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn, ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
    Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ mọi cách để tiếp kiến với quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
    Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối... Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên rất bẩn vàhôi thối. Quan nghĩ rằng, nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ ra khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương...
    Quà tặng cao quý nhất mà người Ả Rập đã biếu cho quan đầu tỉnh chính là những giọt nước đa cứu sống mình. Quan đầu tỉnh đã tặng cho ông món quà quý giá nhất bằng cách uống lấy nước ông dâng biếu... Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người chỉ biết đối xử với nhau bằng những cử chỉ tế nhị và thân ái. Một cử chỉ nhỏ mọn đến đâu, nhưng nếu được làm với tất cả yêu mến sẽ không bao giờ qua đi.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  8. Có 6 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  9. #5
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    04/08

    Vác thập giá theo Chúa


    Thứ Năm sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 16,13-23

    13Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai? " 14Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ."15Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? "16Ông Simôn Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." 17Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." 20Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô. 21Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! " 23Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."


    Suy niệm:
    Có lẽ chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
    Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Đời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
    Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trên người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của sức sống của Đấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải được tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: “Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô”.
    Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác lấy Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
    Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.


    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời luôn có những sóng gió nghi nan. Dòng đời luôn đong đầy những gian truân vất vả. Thế nhưng, chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa trợ giúp trong những lúc khó khăn. Chúng con có Chúa đồng hành và sẵn lòng cất nhẹ những gánh nặng trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Thánh Thể để được ơn nâng đỡ phần hồn và phần xác. Xin cho chúng con biết trao vào tay Chúa những gánh nặng trong cuộc đời, những thử thách trong hiện tại và lo lắng cho tương lại.
    Lạy Chúa Giêsu mến yêu, thánh Phêrô hôm nay đã tuyên xưng Chúa là Đấng hằng sống, dù rằng ngày mai ông lại chối Chúa đến ba lần. Chúa biết Phêrô sẽ gục ngã trước nghi nan dù rằng lòng ông không muốn thế. Chúa nhìn thấu suốt tâm can. Chúa biết tấm lòng chân thật của thánh nhân. Xin Chúa cũng nhìn đến lòng thành của chúng con. Chúng con vẫn tuyên xưng mình là người kitô giáo nhưng lại không sống điều chúng con tin. Chúa bảo chúng con yêu người nhưng chúng con vẫn còn ghét bỏ nhau. Chúa bảo chúng sống công bình nhưng chúng con vẫn để cho những danh lợi thú làm chủ con người chúng con. Chúa muốn chúng con vác thập giá mà theo Chúa nhưng chúng con lại sợ nghi nan.
    Lạy Chúa, xin nâng đỡ đức tin còn yếu kém của chúng con để dù giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống, chúng con luôn kiên vững và an vui trong bổn phận của mình.Amen

    http://tgpsaigon.net/

    ____________________________

    4 Tháng Tám
    Thánh Gioan Baotixita Vianney
    (1786-1859)

    Thật ít người có được sự quyết tâm mạnh mẽ để vượt qua các trở ngại và đạt được các kỳ công. Thánh Gioan Baotixita Vianney (còn được gọi là Cha Sở họ Ars) là một người có quyết tâm: Ngài muốn trở nên một linh mục. Nhưng trở ngại lớn nhất là ngài không có căn bản học vấn cần thiết.

    Sau thời gian nhập ngũ và trở lại chủng viện, ngài không hiểu nổi các bài học bằng tiếng Latinh nên bị đuổi ra khỏi trường. Nhờ sự giúp đỡ kiên nhẫn của Cha Balley để dạy riêng ở nhà, sau cùng Gioan được nhận trở lại và được thụ phong linh mục với nhiều cay đắng.
    Hầu như chẳng giám mục nào muốn có một linh mục như Gioan, do đó, họ đưa ngài về một giáo xứ hẻo lánh, chỉ có 40 gia đình nhưng có đến 4 quán rượu. Khi ngài đến tỉnh Ars nước Pháp, lúc ấy đã 31 tuổi, hầu như chẳng ai thèm lưu ý. Tỉnh này nổi tiếng là nơi đầy ải các linh mục. Giáo dân thì thờ ơ với việc đạo đức và thoải mái với nếp sống cố hữu của họ.
    Không bao lâu họ thấy có những thay đổi. Khi nhìn trộm qua cửa sổ họ thấy cha sở gầy gò ốm yếu cầu nguyện suốt đêm. Có người thấy ngài vất bỏ các bàn ghế đắt tiền và thay chiếc giường nệm êm ấm bằng các khúc gỗ sần sùi. Cũng có người thấy ngài chia sẻ quần áo cho người ăn xin, và chính ngài chỉ ăn có hai củ khoai mỗi ngày. Một vài người tò mò đến nhà thờ nghe giảng, và họ thấy tiếng nói của ngài như xé vào tai nhưng có sức đánh động tâm hồn. Từ tò mò dẫn đến nghi vấn. Có thể nào đây là một linh mục đích thực? Và nhà thờ bắt đầu đông người trở lại.
    Cha Gioan đã trở nên một phần tử của cộng đồng nhỏ bé ấy. Mỗi ngày ngài đi thăm các giáo dân và lắng nghe những ưu tư của họ. Ngài không hiểu tiếng Latinh nhưng ngài rất hiểu các nỗi khó khăn của đời sống người dân. Do đó, sau mười hai năm, hầu như mọi người trong tỉnh đều tham dự Thánh Lễ hàng ngày và các nông dân vừa lần chuỗi vừa cầy cấy nơi đồng áng.
    Sự thay đổi không phải dễ dàng. Những dèm pha, đàm tiếu, chụp mũ Cha Gioan cũng không thiếu. Ðối phó với những người ấy, ngài chỉ im lặng và nhẫn nhục chịu đựng.
    Công việc giải tội là thành quả đáng kể nhất của Cha Gioan. Khi mới chịu chức linh mục, ngài không được phép giải tội vì học lực quá kém. Nhưng ở họ đạo Ars, điều giáo dân lưu tâm là ngài có khả năng thấu suốt linh hồn họ, khuyên bảo họ một cách chân thành với tấm lòng quý mến.
    Dân chúng từ khắp Âu Châu đổ về tỉnh nhỏ xíu ấy chỉ để xưng tội. Trong những tháng mùa đông, ngài phải mất từ 11 đến 12 tiếng đồng hồ để đưa người ta về với Thiên Chúa. Trong mùa hè, thời gian giải tội lên đến 16 tiếng. Ðó là chưa kể cảnh giáo dân, vì quá ái mộ ngài nên họ luôn rình rập để cắt áo, cắt tóc và lấy trộm mũ của ngài làm kỷ niệm. Nhưng các điều ấy không tệ hại cho bằng cứ phải nghe những câu chuyện đau lòng trong toà giải tội. Nếu một người không quyết tâm sống ơn gọi linh mục thì không thể nào chịu đựng nổi sự hy sinh bền bỉ như vậy.
    Với thân hình mảnh khảnh nhưng gánh nặng quá lớn vì yêu quý các linh hồn, sức khoẻ của ngài ngày càng sa sút. Theo lời khuyên của các bác sĩ, ngài tìm cách trốn khỏi giáo xứ để có chút thời giờ tĩnh dưỡng, nhưng cả xứ biết tin đã tìm cách chặn đường ngài. Bất chấp điều ấy, ngài lên đường trở về quê nhà nhưng cả đoàn người hành hương lại theo ngài đến đó. Biết rằng không thể nào được yên thân, ngài trở về họ đạo.
    Ngài từ trần ngày 4 tháng Tám 1859 sau cơn bệnh nặng, hưởng thọ 73 tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1925 và năm 1929, ngài được đặt làm quan thầy chính thức của các cha xứ.

    Lời Trích


    Nhận xét về sự cầu nguyện chung trong phụng vụ, Thánh Gioan Vianney cho biết: "Cầu nguyện riêng giống như cọng rơm rải rác đó đây: Nếu bạn đốt lên nó chỉ tạo thành ngọn lửa nhỏ. Nhưng gom các cọng rơm ấy lại và đốt lên, bạn có được ngọn lửa lớn, vươn lên cao như một cột lửa đến tận trời xanh; cầu nguyện chung thì cũng giống như vậy."

    Trích từ NguoiTinHuu.com


    __________________________________


    Sức mạnh Của Thiên Chúa

    Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ".
    Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
    Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
    Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
    Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
    Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
    Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
    Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
    Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
    Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  10. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  11. #6
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    05/08

    Giá trị của đau khổ


    Thứ Sáu sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 16,24-28

    24Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? 27"Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị."



    Suy niệm:
    Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống kitô hữu, đó là đón nhận khổ đau như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.
    Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phận số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước khổ đau mà thôi.
    Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực, Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
    Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy đau khổ, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
    Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng con. Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng con trao vào tay Chúa những gánh nặng của cuộc sống. Chúa mời gọi chúng con hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng con can đảm bước theo chân Chúa với một lòng trung tín, sắt son.
    Lạy Chúa, Chúa đã vui lòng đón nhận thập giá đắng cay để cứu chuộc chúng con. Chúa đã chấp nhận chết đi để ban lại cho chúng con sự sống đời đời. Xin dạy chúng con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác là biết mình đã làm theo ý Chúa.
    Lạy Chúa, xin dạy chúng con hiểu rằng: chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì khi cho đi là lúc chúng con được nhận lãnh để chúng con luôn biết sống thanh thoát và quảng đại cho tha nhân. Amen

    http://tgpsaigon.net/


    ______________________________


    Tha Nhân Không Là Hỏa Ngục

    Có một chàng thanh niên khao khát trở thành một thánh nhân. Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy chốc, chàng khám phá ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn nguyên nơi mình, chàng quy trách cho những người xung quanh. Tha nhân đã trở thành hỏa ngục đối với chàng.

    Sau cùng, không còn chịu nổi đời sống tập thể nữa, chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa mạc. Thế là chàng đã lên đường tìm đến một nơi hoang vu vắng vẻ để cắm lều sống đời ẩn sĩ. Mà thật thế, chàng đã tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn...
    Tuy nhiên, sự bình an trong cô quạnh ấy không kéo dài được. Ma quỷ đã kéo đến và chúng đã gây xáo trộn trong căn lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh, chàng đã nổi tam bành và đạp đổ tất cả...
    Sau cơn giận dữ, trở lại trạng thái bình thường, chàng mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện các anh em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc. Không phải anh em tôi là căn nguyên của đau khổ của tôi, nhưng tính tình của tôi mới là đầu mối của mọi đổ vỡ...
    Chúng ta được sinh ra trong một gia đình, chúng ta được mời gọi để sống trong xã hội. Tha nhân không phải là một trở ngại, nhưng chính là một trợ giúp để chúng ta phát triển nhân cách và thành toàn.
    Tất cả mọi căn nguyên chính của thất bại và thành công đều nằm trong ta. Cuộc chiến cam go nhất và liên lỉ nhất của chúng ta, chính là chiến đấu chống lại bản thân chúng ta. Xã hội có thể thay đổi, cuộc sống có thể tốt đẹp hơn nếu chúng ta biết cải thiện con người của chúng ta trước.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  12. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  13. #7
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    06/08

    Chúa biến hình


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật XVIII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 17,1-9

    1Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. 4Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia." 5Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! " 6Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ! " 8Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. 9Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.”



    Suy niệm:
    Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc quẹo, ông chợt nhìn thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng : “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không ?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là : “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình tĩnh. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù đang gặp khó khăn, hoạ sĩ vẫn nhất định không bán.
    Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ tiếp tục đi dạo để tìm hứng sáng tác. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần bẩn thỉu và có bộ mặt chai lì gian ác, giống như một tên quỉ sứ ! Ông suy nghĩ : “Sao trên đời này lại có một bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ ? Phải chi ta vẽ được bộ mặt quỉ sứ này để so sánh với bộ mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” thì hay biết mấy !
    Bấy giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi tới phòng khách, trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tuờng, gã liền dừng lại nhìn một lúc lâu, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng : “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ là đã do chính tay ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng !”. Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau : “Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ tôi rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi đã bị hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt theo nhau qua đời, tôi bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền của và phải theo lũ bạn đi trộm cắp. Rồi sau đó tôi bị bắt và phải thụ án trong nhà tù mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua nhiều khó khăn gian khổ : Bị đánh đập, ức hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần và cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ hành hạ bóc lột tù nhân mới hay các bạn tù yếu thế hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi được thả ra trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin”.
    Trước tâm sự của một người đã trót phung phí cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã hãy cố gắng ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau : “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một người ! Giữa thiên thần và ác quỉ, chỉ cách nhau 20 năm sống phóng đãng mà thôi !”.
    Theo thánh Phaolô thì đến ngày Tận Thế, mọi người đều được biến hình : “Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt, và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1Cr 15, 51.53). - “Đức Giêsu Kitô sẽ dùng quyền năng mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Tuy nhiên việc Đức Giêsu biến hình còn dạy rằng : chúng ta còn có một cuộc biến hình khác, được thực hiện ngay từ bây giờ, trong nếp sống, cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta.
    Sự biến hình trong ngày Tận Thế có liên quan mật thiết với sự biến hình hiện tại. Sự biến hình ngày sau là công việc của Thiên Chúa, còn sự biến hình ngay bây giờ lại là công việc của chúng ta. Thế nhưng sự biến hình ngày sau lại căn cứ trên sự biến hình bây giờ như Đức Giêsu đã dạy : “Bấy giờ, ai đã làm lành thì sẽ sống lại để được sống. Còn ai đã làm dữ thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Nếu muốn sau này ta cũng được Chúa biến hình nên sáng láng tốt lành như Đức Giêsu hôm nay, thì ngay từ bây giờ ta phải thực hiện việc thay hình đổi dạng để mỗi ngày nên giống Đức Giêsu hơn.
    Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!
    Tối hôm đó, sau khi từ giã bà con thân thuộc và bạn bè đến dự liên hoan chúc mừng, bà Magarita mới có thời giờ nói chuyện riêng với tân linh mục Gioan Boscô. Bà âu yếm nhìn con và nói: “Hỡi Gioan con yêu của mẹ. Hôm nay con đã trở thành linh mục của Chúa, và đã được diễm phúc dâng Thánh Lễ đầu đời. Con đã thuộc trọn về Chúa và đã là người của Chúa rồi. Vậy bắt đầu từ bây giờ, con không cần phải lo gì cho mẹ nữa. Nhưng hãy chú tâm thực hiện điều này là : Tìm làm vinh Danh Thiên Chúa và cứu rỗi cho các linh hồn” … Gioan đã ghi lòng tạc dạ những lời bà mẹ đạo đức của mình vừa khuyên nhủ, và đã làm theo lời khuyên dạy ấy. Ngài đã dành tất cả thời giờ và sức lực cho công việc tông đồ là giáo dục các thanh thiếu niên. Cuối cùng Ngài đã được Giáo hội tôn phong làm thánh để nên gương sáng cho các tín hữu chúng ta.
    Vậy để cho Lời Chúa phát huy tác dụng là biến đổi chúng ta trở nên tốt lành thánh thiện, chúng ta phải làm gì ?
    Phải ý thức giá trị của Lời Chúa : Mở rộng tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa, rồi suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn và xin ơn Chúa giúp thực thi ý Chúa (x. Lc 8,15).
    Phải đổi mới đời sống : đổi mới cách suy nghĩ, nói năng và hành động theo gương Chúa làm, theo lời Chúa dạy. Nhất là tập sống bác ái yêu thương (Ga 13,35-35). Cụ thể là khiêm nhường phục vụ tha nhân (Ga 13,15).
    Phải sống Lời Chúa dạy : Mỗi lần dự lễ, cần lắng nghe Lời Chúa phán qua các bài đọc Cựu Ước và Tân ước, nhất là nghe bài giảng của vị chủ tế để áp dụng Lời Chúa vào đời sống. Lời Chúa sẽ tỉa sạch các thói hư tật xấu của ta (Is 18,5 ; Ga 15,2). Lời Chúa là ngọn đèn và là ánh sáng chỉ đường cho ta (Tv 119,105). Lời Chúa sẽ làm phát sinh hoa trái bác ái (Ga 15,5). Nhờ Lời Chúa, ta sẽ sống bác ái như kinh “thương người” đã đề ra.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ mình ra trước mặt ba môn đệ thân tín trên ngọn núi cao để củng cố đức tin của các ông khi gặp thử thách sau này. Hôm nay con cũng sấp mình như các môn đệ Chúa xưa, để tôn vinh Thiên tính của Chúa, để cảm tạ Chúa đã cho con nếm trước hạnh phúc đời sau. Xin Chúa cho con một chút niềm tin chói sáng, một lý tưởng rạng ngời, một chút tình yêu tha thiết, để con cảm nghiệm thấy ở bên Chúa thực là hạnh phúc như các môn đệ Chúa xưa.
    Lạy Chúa, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con cần được biến đổi để nên giống Chúa nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi. Nhờ đó, chúng con sẽ sống đẹp lòng Chúa Cha vì đã vâng nghe lời Chúa con. Xin Chúa cho mọi người biết lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn vâng theo ý Chúa, để trở nên tốt hơn.

    http://tgpsaigon.net/

    ______________________


    Bảng kết tội nhau

    Tạp chí Reader's Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một chuyện ngắn, nhưng đầy ý nghĩa về gia đình: Ðôi vợ chồng đã nhiều lần cãi nhau và lần này, đang lúc hai người cãi nhau hăng say, thì người chồng đề nghị với vợ: "Này, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Mỗi người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau". Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu. Người vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, liền hối hả viết liên hồi, dường như cố ý tranh với chồng, để kể ra nhiều tật xấu hơn. Người chồng chỉ viết một câu rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra tật xấu của người chồng và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn.
    Ðến lúc không còn gì để viết nữa, họ trao cho nhau bảng kể tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt người vợ bỗng đổi vì xúc động. Bà vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng và có thái độ làm hòa ngay. Trong tờ giấy của người chồng bà chỉ đọc được có một câu duy nhất: Anh yêu em!
    Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với con người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  14. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  15. #8
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    08/08

    Bổn phận nộp thuế


    Thứ Hai sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 17,22-27

    22Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: "Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, 23họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy." Các môn đệ buồn phiền lắm. 24Khi thầy trò tới Caphácnaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao? " 25Ông đáp: "Có chứ! " Ông về tới nhà, Đức Giêsu hỏi đón ông: "Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài? " 26Ông Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài." Đức Giêsu liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn. 27Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh."


    Suy niệm:
    Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Đền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Đền thờ Giêrusalem.
    Câu truyện trong Tin mừng hôm nay xảy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
    Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao: vua chúa trần gian lấy thuế ai? con cái mình hay người ngoài?” Phêrô đáp: Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo: Thế thì con cái được miễn. Đây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: Thế thì con cái được miễn, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế, nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Đền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất tiền quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
    Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Đền thờ để lo việc phụng sự nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hạt lúa đã gieo vào trần gian. Chúa gieo yêu thương. Chúa gieo hạnh phúc. Chúa đã làm cho hoa yêu thương và hạnh phúc đến với mọi người qua đời sống tận hiến hy sinh của Chúa. Xin dạy chúng con biết yêu thương anh em như chính Chúa đã nêu gương cho chúng con. Xin tha thứ vì những lần chúng con vì lười biếng mà bỏ bê bổn phận, vì thiếu trách nhiệm mà gây nên những khổ đau cho cha mẹ và ông bà. Xin tha thứ vì những lần chúng con gieo vãi hận thù, ghen tương, đố kỵ bởi đời sống ích kỷ tầm thường của chúng con.
    Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời trong những bổn phận hằng ngày và trong những nghĩa cử yêu thương nhỏ bé của chúng con dành cho tha nhân, vì chưng nên thánh là chu toàn bổn phận hằng ngày. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    _________________________
    8 Tháng Tám
    Thánh Ða Minh
    (1170-1221)


    Sinh trong một gia đình quyền quý và đạo hạnh ở Tây Ban Nha, ngay từ nhỏ Thánh Ða Minh đã có chí hướng đi tu. Ngài theo học ở Palencia, và có lẽ được thụ phong linh mục trong khi còn đi học, và được bổ nhiệm là kinh sĩ ở Osma năm 1199. Ở đây ngài làm bề trên của một tu nghị, nổi tiếng là theo sát quy luật của Thánh Bênêđíctô.



    Năm 1203, ngài tháp tùng Ðức Giám Mục của Osma đến Languedoc, là nơi Thánh Ða Minh rao giảng chống với lạc thuyết Albigensian, và giúp cải tổ dòng Xitô. Thánh Ða Minh thành lập một tổ chức dành cho phụ nữ ở Prouille trong thuộc địa của phe Albigensian và giao cho một vài nữ tu trông coi với quy luật do chính ngài viết ra.

    Khi vị đại diện đức giáo hoàng bị bè phái Albigensian sát hại năm 1208, Ðức Giáo Hoàng Innôxentê III đã phát động một cuộc thập tự chinh do Bá Tước Simon IV cầm đầu để chống với bè rối này. Thánh Ða Minh đi theo đạo quân để rao giảng cho những người lạc giáo, nhưng không thành công lắm. Vào năm 1214, Bá Tước Simon tặng cho Thánh Ða Minh một lâu đài ở Casseneuil, và cùng với sáu môn đệ, thánh nhân đã thành lập một tu hội tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian.

    Trong Công Ðồng Latêranô lần thứ tư năm 1215, Thánh Ða Minh thất bại trong việc xin phê chuẩn tu hội, nhưng được Ðức Giáo Hoàng Honorius III chuẩn y vào năm tiếp đó, và Dòng Thuyết Giảng (các tu sĩ dòng Ða Minh) được thành lập.

    Thánh Ða Minh dùng quãng đời còn lại để tổ chức dòng, đi khắp nước Ý, Tây Ban Nha và Pháp để rao giảng và thu hút các thành viên mới, cũng như thiết lập các trung tâm của dòng. Dòng Thánh Ða Minh thành công trong việc hoán cải khi áp dụng quan niệm của thánh nhân là hài hòa giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng.

    Ngài triệu tập hội đồng chung trong dòng vào năm 1220 ở Bologna và từ trần ở đây vào năm tiếp đó, sau khi bị lâm bệnh và buộc phải trở về trong chuyến rao giảng ở Hung Gia Lợi.

    Ngài được phong thánh năm 1234.

    * Thuyết Albigensian dựa trên thuyết nhị nguyên về hai nguyên tắc đối nghịch nhau, sự thiện và sự dữ, mà mọi vật chất được coi là xấu xa và người tạo nên thế giới vật chất được coi là ma quỷ. Do đó, học thuyết Nhập Thể bị khước từ, và Cựu Ước cũng như các Bí Tích bị tẩy chay. Ðể trở nên tuyệt hảo hay "tinh tuyền", người theo thuyết này phải tránh tình dục và cực kỳ kiêng cữ ăn uống. Nhịn đói đến chết được coi là một hành động cao quý. Với hình thức thái quá này, thuyết Albigensian được coi là nguy hiểm cho xã hội.

    Trích từ NguoiTinHuu.com
    ___________________________


    Vị Thánh Của Kinh Mân Côi

    Ðaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Ðaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Ðaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.


    Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Ðaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Ðức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.

    Ðaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Ðaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.

    Vào năm 1216, Ðức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Ðaminh sámg lập mang tên "Dòng anh em giảng thuyết" thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Ðaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Ðaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.

    Trong suốt cuộc sống, Ðaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Ðức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.

    Cha Ðaminh qua đời tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Ðức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.

    Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Ðaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Ðức Maria. Ðức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Ðaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.

    Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Ðaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Ðaminh và nói: "Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta". Nhìn kỹ, Ðaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.

    Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Ðaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.

    Lý tưởng mà dòng Ðaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Ðó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  16. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  17. #9
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    09/08

    Tinh thần trẻ thơ


    Thứ Ba sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 18,1-5.10.12-14

    1Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? " 2Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông 3và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. 4"Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. 5"Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. 6Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. 7Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã. 8"Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. 9Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục. 10"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.


    Suy niệm:
    Tin mừng Matthêu được cấu trúc xoay quanh 5 diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
    Trước hết là thái độ sống trẻ thơ. Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: “Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền”. Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ thiên nhiên nhắc nhở sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.

    Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
    Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ kỳ thị, tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ. Chúa còn dạy chúng con phải sống như trẻ thơ mới vào được Nước Trời. Xin cho các thiếu nhi luôn biết gìn giữ nét đẹp của tuổi thơ là sự trong trắng, hiền hoà. Xin đừng để tâm hồn các thiếu nhi bị hoen ố bởi những tư tưởng xấu làm mất vẻ đẹp đơn sơ trong trắng của tuổi thơ.
    Lạy Chúa Giêsu, với tình yêu của người cha đầy lòng nhân ái, Chúa đã từng nâng niu và chúc phúc cho tuổi thơ. Chúa vỗ về tuổi thơ. Chúa cầu mong cho tuổi thơ được lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Xin Chúa hãy nhìn đến những tuổi thơ đang bị đánh cắp. Những trẻ thơ bị cha mẹ bỏ rơi đang phải sống vật lộn từng ngày với mưa nắng khắc nghiệt trong đời. Những trẻ thơ lem luốc lầm than vì sự thiếu trách nhiệm của cha mẹ. Những trẻ thơ đang sống trong lo sợ từng ngày vì sự bạo hành của gia đình và xã hội. Xin cho các trẻ thơ đó được sống an vui trong tình thương với đầy đủ trách nhiệm của cha mẹ. Xin cho các bạn tuổi thơ luôn tìm được sự hồn nhiên vui tươi trong lứa tuổi của mình.
    Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng con sống yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa. Xin dạy chúng con nên như trẻ thơ để chúng con biết tin tưởng và phó thác trong bàn tay quan phòng của Chúa là Cha. Amen


    http://tgpsaigon.net/

    ___________________

    9 Tháng Tám
    Thánh Edith Stein
    (1891-1942)

    Edith Stein, một nữ tu Camêlô thánh thiện, một triết gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Ðức cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.

    Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen.
    Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
    Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
    Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Camêlô, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Camêlô Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là "Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá." Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
    Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Camêlô ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Camêlô ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là Thánh Giá Học.
    Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
    Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.

    Lời Bàn


    Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần lớn đã được dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực, ngài theo đuổi chân lý mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy đến. Sơ Josephine Koeppel, O.C.D., người đã dịch vài cuốn sách của Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng quát về vị thánh này như sau, ngài "học biết cách sống trong bàn tay Thiên Chúa."

    Lời trích


    Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng với người chị là Rosa và những người Công Giáo cũng như Do Thái khác bị đưa từ Hòa Lan đến trại tập trung Auschwitz, là nơi ngài chết vì hơi ngạt. Ngày nay, chúng ta tưởng nhớ ngài với lòng tôn trọng sâu xa. Một vài ngày trước khi bị trục xuất, người phụ nữ đạo đức này đã gạt bỏ vấn đề được cứu nguy: 'Ðừng làm như vậy! Tại sao tôi phải được miễn trừ? Không đúng sao khi tôi chẳng được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi không thể chia sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi chắc chắn bị tiêu diệt'."
    Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng nói: "Cuộc đời các con không phải là một chuỗi không cùng của những cánh cửa mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình! Ðừng dừng ở ngoài mặt nhưng đi sâu vào tâm điểm của mọi sự! Và khi đến giờ, hãy có can đảm quyết định! Thiên Chúa chờ đợi các con phó thác sự tự do của mình trong bàn tay nhân ái của Người."

    Trích từ NguoiTinHuu.com



    _____________________________


    Xin Hãy Dùng Con Như Khí Cụ Bình An!

    Ngày 09/8 hàng năm, hàng ngàn người Nhật Bản và nhiều du khách tập trung về Ðài Hòa Bình tại Nagasaki để tưởng niệm quả bom nguyên tử đầu tiên được ném xuống Nhật Bản.

    Ðúng 11 giờ 03 phút, giờ định mệnh của thành phố Nagasaki, từng đám đông dừng lại trong thinh lặng, trong khi đó từ các tháp chuông trên khắp nước, từng hồi chuông ngân vang để tưởng niệm giây phút đau thương của Nagasaki.
    Ngày 09/8/1945, quả bom nguyên tử đầy tiên đã giết hại khoảng 70 ngàn người và tiêu hủy gần như trọn vẹn thành phố Nagasaki. Ba ngày sau đó, quả bom thứ hai cũng được trút xuống trên Hiroshima nâng tổng số những người thiệt mạng lên đến gần 140,000 người. Và gần đây, hơn hai người còn sống sót từ dạo đó cũng vừa qua đời vì ảnh hưởng của phóng xạ.
    Lên tiếng trong một tuần lễ tưởng niệm, ông Motoshima, thị trưởng Nagasaki đã phát biểu như sau: "Qua kinh nghiệm đau thương này, những người công dân của thành phố Nagasaki đều nhận thấy rằng: bom nguyên tử có thể hủy diệt toàn thể nhân loại. Do đó, chúng tôi đã không ngừng kêu gọi hủy bỏ các vũ khí hạt nhân". Bài diễn văn trên đây của ông thị trưởng Nagasaki đã được sao gửi đến các vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới.
    Cũng trong bài diễn văn này, ông Motoshima đã tha thiết kêu gọi Liên Xô và Hoa Kỳ hãy ngồi vào bàn hội nghị với nhau và hãy quyết tâm cam kết thực hiện sự chung sống hòa bình giữa Ðông và Tây cũng như làm mọi cố gắng để giải trừ vũ khí hạt nhân...
    Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay. Có một lần trải qua đau thương như người Nhật Bản, cách riêng những người Nagasaki và Hiroshima, con người mới thấy được thế nào là sự tàn phá của bom nguyên tử và sự khao khát hòa bình.
    Lời kêu gọi trên đây của ông thị trưởng thành phố Nagasaki có lẽ không chỉ được ngỏ với các vị nguyên thủ quốc gia, hoặc hai cường quốc Hoa Kỳ và Liên Xô. Lời kêu gọi đó cũng phải được truyền đến tận tai của từng người. Bởi vì hòa bình không phải chỉ là vấn đề của một số người, hoặc của một số quốc gia. Hòa bình là vấn đề của từng người. Nó là cố gắng xây dựng của từng ngày và của từng người.
    Nhưng hòa bình không chỉ là thành quả của những cố gắng. Nó còn là một ân ban mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể trao tặng cho con người... Ngày 27/10/1986, cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình của các vị đại diện các tôn giáo trên thế giới đã nói lên được chiều kích đích thực của hòa bình: hòa bình phải xuất phát từ tâm hồn con người.
    Con người cần phải cầu nguyện cho hòa bình. Chính trong cuộc gặp gỡ thâm sâu trong tâm hồn giữa con người và Thiên Chúa mà hòa bình đích thực mới phát sinh. Cho dù có hủy bỏ mọi vũ khí hạt nhân, cho dù có ký mọi hòa ước, nếu con người chưa dẹp bỏ mọi thứ vũ khí khác trong tâm hồn, mầm mống của chiến tranh vẫn còn đó...

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  18. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  19. #10
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    10/08

    Hạt giống âm thầm


    Thứ Tư sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Ga 12,24-26

    24Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."



    Suy niệm:

    Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy các môn đệ một sự thật rất lạ thường về vấn đề sống chết :

    - Có chết thì mới có sống : “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt” ; “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

    - Chính Chúa Giêsu đã đi con đường lạ thường ấy, và Ngài bảo các môn đệ cũng hãy theo Ngài trên con đường ấy : “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”

    1. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Bạn hãy đọc lại câu này nhưng đổi một số chữ : hạt lúa = người tín hữu ; đất = thế giới này ; chết đi = hy sinh để phục vụ.

    2. ‘Có chết thì mới có sống’, điều nghịch lý này không chỉ đúng đối với hạt giống, với các thánh tử đạo (“Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”, Tertulien), mà còn rất đúng trong tu đức : tôi có chết đi con người cũ thì mới sống lại thành con người mới ; tính xấu có chết đi thì tính tốt mới sinh ra được.

    3. Một bà đạo đứcáy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bà đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói :

    - “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng ? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức."

    4. “Thật Thầy bảo thật anh em : nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi. Còn nếu chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24)

    Nhìn đồng lúa chín vàng, hạt lúa trĩu nặng, mấy khi tôi nghĩ đến những hạt giống âm thầm đi vào lòng đất, từng ngày, từng giờ, lặng lẽ nẩy mầm trong đêm, vượt đất vươn lên…

    Vẫn âm thần lặng lẽ, lặng lẽ như tiếng chổi tre của người phu quét rác, lặng lẽ như vạn đôi tay của các công nhân đang miệt mài xây dựng, lặng lẽ như tấm lưng còng của mẹ già tần tảo sớm khuya, lặng lẽ như những bước chân truyền giảng Tin Mừng…Tất cả đều tự nhiên, âm thầm và lặng lẽ trong bài học cho đi.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, con đã tiếp nhận cuộc sống từ bao người khác; xin cho con biết hân hoan đón nhận cuộc sống và đến lượt con cũng biết hiến trao cho anh em trong bài học cho đi.
    Lạy Chúa, như Ngài đã nói hạt lúa được gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Chúa đã gieo vào tâm hồn chúng con hạt đức tin, hạt tình yêu. Và chắc chắn Chúa cũng muốn chúng con cộng tác với Chúa để làm cho nó lớn lên và sinh nhiều hạt khác. Xin Chúa cho chúng con ý thức được trách nhiệm của mình là gieo mầm tin yêu cho dù chúng con có phải hy sinh va gặp khó khăn. Nhưng qua đó chúng con đón nhận được niềm hạnh phúc sâu xa là lòng tin vào Chúa luôn lớn mạnh và tình yêu Chúa ngày cang có nhiều người biết đến.


    http://tgpsaigon.net/

    _______________________________
    10 Tháng Tám
    Thánh Lôrensô
    (thế kỷ thứ ba)



    Thánh Lôrensô là một trong bảy nô bộc (phó tế) của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi đức giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi, "Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế, Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.


    Quan Tổng Trấn Rôma, một người tham lam, nghĩ rằng Giáo Hội có giấu giếm nhiều của cải. Do đó, ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo Hội cho ông. Vị thánh trả lời, xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo Hội giúp đỡ. Khi trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: "Ðây là tài sản của Giáo Hội!"

    Giận điên người, quan tổng trấn xử phạt Lôrensô phải chết cách thê thảm và chết dần mòn. Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng thánh nhân đang bừng cháy với tình yêu Thiên Chúa nên hầu như ngài không cảm thấy gì. Thật vậy, Thiên Chúa còn ban cho ngài sức mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi." Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Và ngài tiến lên lãnh nhận triều thiên tử đạo.

    Trích từ NguoiTinHuu.com
    ____________________________


    Tài Sản Của Giáo Hội


    Hôm nay, Giáo Hộ kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô. Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...

    Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.

    Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.

    Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...

    Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".

    Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...

    Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.

    Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.

    Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.

    Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.

    Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  20. Có 5 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  21. #11
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    11/08

    Tha thứ


    Thứ Năm sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 18,21_19,1

    21Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? " 22Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." 23Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." 27Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" 29Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." 30Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? " 34Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
    1Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Galilê và đi đến miền Giuđê, bên kia sông Giođan.



    Suy niệm:
    Một đôi vợ chồng nọ đưa nhau ra tòa xin ly dị. Vị luật sư biện hộ cho quan tòa biết: đôi vợ chồng này sống hoàn toàn yên lặng với nhau suốt 12 năm liên tiếp. Họ cũng không muốn gặp nhau nữa, nếu cần cho nhau biết điều gì, thì họ chỉ cần viết vào một mảnh giấy để sẵn trên bàn cho người kia đọc. Đôi vợ chồng này trước đây đã sống hạnh phúc với nhau trong vòng 18 năm, đã nuôi nấng con cái khôn lớn, nhưng rồi không rõ lý do gì, hai người đã không thèm nói chuyện với nhau, và giờ đây họ không còn nhớ đã giận nhau vì lý do gì.
    Những hờn giận, phiền muộn xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày, nếu không được nghiêm chỉnh giải quyết, vượt qua, thì sẽ dễ dàng chồng chất làm thành bức tường ngăn cách giữa cha mẹ với nhau, hay giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, hay giữa bạn bè thân thích. Những tâm tình phiền muộn tiêu cực mỗi ngày một ít cũng đủ ảnh hưởng đến cả cuộc sống, làm chúng ta không còn vui sống và bình an nữa.
    Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải tha thứ và tha thứ luôn luôn. Nhưng tại sao phải tha thứ? Vì tha thứ là một điều cần thiết trong đời sống xã hội, trong gia đình, trong các đoàn thể; vì tha thứ là đặc điểm của tình yêu: trong tình yêu Chúa, chúng ta tha thứ cho nhau như Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Tha thứ như thế không phải là yếu nhược, mà là sức mạnh của tình yêu, là khí cụ của hòa bình. Cuộc đời là một cuộc hành trình, nếu chúng ta cứ để mình mang gánh ưu tư, phiền muộn thì làm sao có đủ sức để đạt tới đích được. Do đó chúng ta hãy luôn sống tha thứ để tâm hồn chúng ta được nhẹ nhàng thanh thoát trên đường đời với niềm hy vọng và an vui.
    Một nhà tâm lý người Mỹ đã đưa ra nhận định như sau: Trên bình diện nhân bản, nếu suy nghĩ cho cùng, thì tha thứ là giải pháp tốt nhất cho người tha thứ và kẻ được tha thứ; sự tha thứ khai mở năng lực tinh thần con người và có tác dụng làm cho con người sống lành mạnh vui tươi hơn. Trên bình diện thiêng liêng, sự tha thứ có giá trị thật tích cực, chứng tỏ tình thương làm phát sinh nguồn an ủi trong tâm hồn; nếu chúng ta không thật lòng tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta.
    Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và như vậy chúng ta trở thành khí cụ đem niềm vui đến cho mọi người

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà ngoại tình, cho thánh Phêrô, và Chúa cũng đã từng tha thứ cho bao kẻ xúc phạm đến Chúa. Trên cây thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho họ: “Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa cũng đã từng tha thứ cho chúng con. Thế nhưng chúng con lại quá khó khăn khi phải tha thứ. Chúng con dễ kết án nhưng lại rất khó bao dung. Chúng con dễ gây thù hận nhưng lại khó khi làm hoà. Xin tha thứ vì những lần chúng con đã có thái độ bất khoan dung với anh em. Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu Chúa dành cho mình, để chúng con luôn biết cư xử khoan dung với người khác.
    Lạy Chúa là Đấng chậm bất bình và rất mực khoan dung, xin giúp chúng con sống như Chúa để chúng con cũng sẵn lòng yêu thương và tha thứ cho nhau. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    _______________________

    11 Tháng Tám
    Thánh Clara
    (1194-1253)


    Thánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, ngài cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng võ lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và vừa có ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua "cánh cửa người chết" (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô.
    Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.
    Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn). Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.
    Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được kết lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa.
    Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, "Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi." Sau đó, dường như có tiếng trả lời: "Ta sẽ luôn gìn giữ họ," và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.
    Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ngài luôn đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, "Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?"
    Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.

    Trích từ NguoiTinHuu.com


    ________________________


    Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi

    Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
    Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
    Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
    Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
    Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
    Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu".
    Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.
    Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  22. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  23. #12
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    12/08

    Vấn đề ly dị


    Thứ Sáu sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 19,3-12

    3Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?" 4Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ", 5và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt." 6Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly." 7Họ thưa với Người: "Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? " 8Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. 9Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình." 10Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn." 11Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu."



    Suy niệm:
    Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14,1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình mà thôi. Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của việc ly dị; họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
    Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Đời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
    Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng: “Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. “Ai có thể hiểu được thì hiểu”, ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được lập pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp này cũng bị hạ thấp.
    Người kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Điều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa gìn giữ tình huynh đệ của chúng con để chúng con luôn sống đùm bọc và yêu thương nhau. Cách riêng trong đời sống hôn nhân, xin cho tất cả những ai đang sống đời hôn nhân biết trân trọng và gìn giữ hôn ước mà họ đã cam kết, và giây hôn phối mà Chúa đã kết hợp họ nên một gia đình.
    Lạy Chúa, như hạt lúa mì nghiền nát để kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu. Xin dâng lên Chúa những hy sinh trong đời sống vợ chồng, những chén đắng chua cay, những gian truân vất vả trong khi chu toàn bổn phận gia đình. Xin cho các gia đình biết dâng hiến lễ hy sinh đời mình để kết hợp với hy tế thập giá của Chúa để sinh ơn cứu độ cho bản thân và gia đình.
    Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Tình yêu Chúa luôn bao dung độ lượng, luôn hy sinh quên mình. Xin cho các đôi vợ chồng biết hy sinh cho nhau, tha thứ cho nhau, hầu thắp sáng niềm tin yêu, hy vọng cho gia đình mãi êm ấm thuận hòa. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    ______________________


    Món Quà Vô Giá


    Một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh. Trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà. Tuyệt nhiên, bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà từng giây từng phút. Quà tặng duy nhất mà bà tặng cho cô đó là một thánh giá được bọc thạch cao.
    Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng cô đầy cay đắng buồn phiền. Cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được món quà không ra gì.
    Không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt cay đắng, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném tung trên nền nhà. Cây thập giá vỡ tung và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh...
    Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà... Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  24. Có 4 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  25. #13
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    13/08

    Chúa Giêsu với trẻ nhỏ


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật XIX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 19,13-15

    13Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. 14Nhưng Đức Giêsu nói: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng." 15Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.



    Suy niệm:
    Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
    Tin mừng Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những lời của Chúa Giêsu: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời”. Người ta dẫn trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Đặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành; họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù theo phong tục người Do thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
    Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đứa trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
    “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”. Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn được rửa tội hay không. Đây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
    Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn yêu thương từng người. Chúa quan tâm tới từng nhu cầu cuộc sống. Không ai bị loại trừ ra khỏi lòng thương xót của Chúa. Không ai bị bơ vơ trước sự hiện diện của Chúa. Nhưng Chúa ơi, xin tha thứ vì những lần chúng con thiếu tôn trọng lẫn nhau. Chúng con thường phân loại hạng người sang hèn. Chúng con nâng niu người sang nhưng lại xem thường kẻ bần cùng. Chúng con quý trọng người có địa vị nhưng lại coi khinh kẻ thấp cổ bé miệng hơn mình. Chúng con chọn người giầu loại người nghèo. Chúng con thân kẻ quyền thế và xa lánh kẻ cơ hàn. Chúng con chưa thực sự sống liên đới với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
    Lạy Chúa, Chúa dùng hình ảnh trẻ thơ yếu đuối để nhắc nhở chúng con đừng loại trừ ai. Xin giúp chúng con luôn trân trọng nhau và đón nhận nhau trong yêu thương và phục vụ như Chúa đã nêu gương cho chúng con. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    _____________________

    13 Tháng Tám
    Thánh Pontian và Thánh Hippolytus
    (k. 235)

    Vào năm 235, Maximinus làm hoàng đế Rôma và hầu như ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu bách hại người Kitô Giáo. Một trong những hình phạt thông thường đối với các giám mục và linh mục là các ngài bị lưu đầy đến những quặng mỏ nguy hiểm ở Sardinia, nước Ý. Chính vì sự bách hại này mà ngày nay chúng ta mừng kính hai thánh tử đạo.
    Thánh Pontian lên ngôi giáo hoàng sau khi Ðức Urban I từ trần năm 230. Khi Maximinus lên ngôi hoàng đế, Ðức Pontian cùng chung số phận với các Kitô Hữu khác và ngài phục vụ Giáo Hội trong sự đau khổ ở Sardinia.
    Hippolytus là một linh mục và là học giả ở Rôma. Ngài có nhiều sáng tác về thần học và là bậc thầy tài giỏi. Hippolytus thất vọng với Ðức Giáo Hoàng Zephyrinus (được tử đạo năm 217) vì đức giáo hoàng không mau mắn ngăn chặn những người giảng dạy cách lầm lạc. Khi Ðức Callistus I được bầu làm giáo hoàng kế vị Ðức Zephyrinus, Hippolytus cũng không hài lòng. Lúc bấy giờ, rất đông người theo Hyppolytus và họ đồng lòng bầu Hippolytus lên làm giáo hoàng. Vị thần học gia tài giỏi này đã không chế ngự được tính kiêu ngạo và đã chấp nhận. Khi cuộc bách hại bùng nổ, Hyppolytus bị bắt và cũng bị lưu đầy đến Sardinia.
    Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, môät phép lạ hòa giải đã xảy ra giữa sự cười nhạo của kẻ thù. Ðức giáo hoàng Pontian gặp gỡ với Hippolytus trong hoàn cảnh lưu đầy và vị linh mục tài giỏi này đã cảm hóa trước sự khiêm tốn của vị giáo hoàng. Hippolytus trở về với Giáo Hội và mọi tức giận đều tiêu tan. Ðức giáo hoàng Pontian thông cảm với vị linh mục. Ngài nhận ra nhu cầu của mỗi người là phải giúp đỡ và khuyến khích lẫn nhau trong tình bác ái của Ðức Giêsu Kitô. Cả hai đã được phúc tử đạo và mãi mãi trở nên nhân chứng cho sự tha thứ và niềm hy vọng Kitô Giáo.

    Trích từ NguoiTinHuu.com


    ______________________


    Bức Tường Ô Nhục

    Ngày 13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Ðông và Tây, Kruschev, chủ tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn cách Ðông và Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh dấu sự đọan tuyệt giữa Ðông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng những người Ðông Ðức ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Ðông Âu thì giải thích rằng bức tường này được dựng lên là để ngăn chặn những người Tây Phương có thể đến Ðông Ðức để làm gián điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó là bức tường ô nhục... Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào, bức tường ngăn cách giữa Ðông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của những chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên...
    Có những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do con người dựng lên... Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta có thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.
    Bức tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây kín khu vực của mình ở bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến với mình, nhưng còn giam hãm chính mình trong cô đơn...
    Bức tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế giới của mình và khép mắt, bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
    Bức tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao bọc mình sẽ không muốn nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
    Nhưng bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo vệ chính mình, con người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở, càng đến với tha nhân càng triển nở trong nhân cách...

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  26. Có 3 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  27. #14
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    15/08

    Đường về trời


    Thứ Hai sau Chúa Nhật XX Thường niên A, Lễ Mẹ Lên Trời

    Lời Chúa:
    Lc 1,39-56

    39Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. 40Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. 41Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
    46 Bấy giờ bà Maria nói:
    "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
    vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
    48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
    Người đoái thương nhìn tới;
    từ nay, hết mọi đời
    sẽ khen tôi diễm phúc.
    49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
    biết bao điều cao cả,
    danh Người thật chí thánh chí tôn!
    50 Đời nọ tới đời kia,
    Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
    51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
    dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
    52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
    Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
    53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
    người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
    54 Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
    55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
    vì Người nhớ lại lòng thương xót
    dành cho tổ phụ Ápraham
    và cho con cháu đến muôn đời."
    56 Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.


    Suy niệm:
    Thánh Luca thuật lại một cuộc thăm viếng thánh thiện, sinh ra nhiều hoa trái thánh thiện: Người đi thăm là Đức Maria, kẻ đang mang Chúa Giêsu trong lòng, kẻ “có phúc hơn mọi người nữ”, và có phúc bởi vì đã tin. Bởi thế người được thăm đã lãnh nhận những hồng ân cao cả : Bà Êlisabét đã nói “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy !”.
    Trong cuộc sống xô bồ ngày nay, chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần. Nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. Tình nghĩa láng giềng ngày càng lợt lạt, thay vào đó là đèn nhà ai nhà nấy sáng, sống chết mặc bay. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ sống bên cạnh nhau chứ không phải sống với nhau. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabét là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.
    Ngược lại, có những người thăm viếng nhau hàng ngày, mỗi ngày bỏ rất nhiều thời giờ để nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc ngồi lê đôi mách. Việc họ thăm viếng nhau chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác. Đức Maria đến với Bà Êlisabét đã mang lại cho bà nhiều ích lợi tích cực: giúp đỡ bà trong những ngày chuẩn bị sinh nở, và nhất là mang Chúa đến cho bà. Tôi xét lại những cuộc thăm viếng của tôi xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm không ? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người tôi thăm được bình an và hạnh phúc hơn không ?
    Magnificat là bài ca của những người khiêm tốn biết thân phận hèn kém của mình nên hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và nhờ đó mà được Ngài làm nơi mình những việc trọng đại. Ta hãy đặt mình vào tâm tình của Đức Mẹ và cùng với Người hát lên bài ca tuyệt vời này.
    Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh viện. Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân. ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn ? Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: Ngài sẽ viết thư cho mẹ tôi giúp tôi được không ? Ông đồng ý: Tôi sẽ viết và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho. Viết xong, ông quay lại nói: Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng. Và bây giờ còn điều gì khác tôi có thể làm không ? Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buột miệng: Ngài có thể ở lại với tôi ? Tôi muốn ngài nắm tay tôi. Ông nắm tay anh cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.
    Bà Maria vội vã lên đường… và ở lại với Bà Êlidabét độ 3 tháng: Trên con đường cheo leo đầy sỏi đá, Mẹ bước đi bằng cả tâm hồn. Trái tim Mẹ hòa cùng nhịp đập với Giêsu, với khát khao phục vụ con người.
    Dưới đây là câu chuyện của một người, một người đang sống trên đời nhưng lại đã mệt mỏi đến phát khóc lên được. Người ấy có thề là chính tôi, chính bạn chăng ?
    Một ngày kia, tôi nhìn quanh mình và thấy rằng:
    Hạnh phúc đang ở đó, ngay trong tầm tay mình.
    Tôi đưa tay ra để nắm lấy thứ hạnh phúc ấy.
    Đó là một cành hoa, tôi bèn hái lấy đóa hoa.
    Nhưng khi đóa hoa đã nằm trong tay tôi thì nó trở nên úa tàn...
    Hạnh phúc lại là một tia nắng mặt trời.
    Tôi ngước mắt nhìn lên để đón lấy ánh sáng rực rỡ,
    Nhưng tức khắc có một đám mây che phủ mất cả mặt trời...
    Hạnh phúc lại còn là một cây đàn ghi ta.
    Tôi vuốt ve những phím đàn,
    Nhưng nó chỉ bật lên những thanh âm nhạt nhẽo vô duyên...
    Ngày hôm sau, tôi vẫn tiếp tục đi tìm hạnh phúc.
    Dọc đường, tôi thấy một đứa bé đang khóc vì tủi thân.
    Chẳng biết lấy gì mà an ủi, tôi hái một đóa hoa để tặng cho em
    Hương thơm đóa hoa cũng làm cho tôi phải ngất ngây...
    Tôi lại gặp một người đàn bà đang run lập cập,
    Mà quần áo trên người thì lại rách tả tơi.
    Tôi nắm lấy tay bà ta và dẫn ra dưới ánh nắng mặt trời.
    Ngay lúc đó, chính tôi cũng cảm thấy được sưởi ấm lây...
    Sau đó, tôi lại gặp một nhóm bạn trẻ đang vui đùa ca hát.
    Tự nhiên, tôi cũng cảm thấy bị cuốn hút lạ lùng đến với họ
    Bởi vẻ đẹp của những giai điệu tan ra từ chiếc ghita cũ kỹ. Chiều hôm ấy, tôi trở về nhà, và tôi cảm thấy hạnh phúc đã trào dâng tự thâm sâu...

    Cái chết của Đức Mẹ được người ta nói tới bằng nhiều cách: Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)... Toàn là những cách nói đẹp, bởi vì Mẹ đã sống rất đẹp.
    Có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm câu:
    - Có cái chết như một dấu phẩy (,) tức tưởi không trọn vẹn;
    - Có cái chết như một dấu chấm than (!) buồn hiu hắt;
    - Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt;
    - Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngõ;
    - Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.

    Cái chết của Đức Mẹ chính là đấu chấm tròn. Còn cái chết của tôi sẽ là gì ?
    Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
    Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo !

    Cầu nguyện:
    Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới. Con cũng biết Tin là Bước đi. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ. Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời này, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn con lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu.

    http://tgpsaigon.net/


    _____________________



    15 Tháng Tám

    Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

    Vào ngày 1 tháng Mười Một 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII xác định sự Thăng Thiên của Ðức Maria là một tín điều: "Chúng tôi tuyên bố, bày tỏ và xác định đó là một tín điều được Thiên Chúa mặc khải, là đức vô nhiễm nguyên tội Mẹ Thiên Chúa, Ðức Trinh Nữ Maria, sau khi hoàn tất chu trình cuộc đời trần thế, đã được lên trời cả hồn và xác để hưởng vinh phúc trên thiên đàng." Ðức giáo hoàng tuyên bố tín điều này sau khi hội ý các giám mục, các thần học gia cũng như giáo dân. Rất ít người chống đối. Ðiều mà đức giáo hoàng long trọng tuyên bố thì đã có từ lâu trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo.Ngay từ thế kỷ thứ sáu, đã có các bài giảng về sự Thăng Thiên của Ðức Maria. Trong các thế kỷ tiếp đó, các Giáo Hội Ðông Phương kiên trì tin tưởng vào học thuyết này, trong khi một số học giả Tây Phương vẫn còn do dự. Tuy nhiên, vào thế kỷ 13 sự tin tưởng này đã trở thành phổ quát.
    Kinh Thánh không nói gì về sự Thăng Thiên của Ðức Maria. Tuy nhiên, trong Khải Huyền chương 12, có nói về một người nữ bị vây hãm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự dữ. Nhiều người coi phụ nữ này tượng trưng cho dân Chúa. Vì Ðức Maria là hiện thân của cộng đồng Dân Chúa vừa trong Cựu Ước và Tân Ước, sự Thăng Thiên của ngài có thể coi như một thí dụ điển hình cho sự chiến thắng của người nữ. Ngoài ra, trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Côrintô 15:20, ngài nói về sự phục sinh của Ðức Kitô như hoa quả đầu mùa của những kẻ còn mê ngủ. Vì Ðức Maria liên hệ rất mật thiết với các mầu nhiệm cuộc đời Ðức Giêsu, nên không ngạc nhiên khi thấy Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo Hội để tin tưởng rằng Ðức Maria cũng được chia sẻ sự vinh hiển với Chúa Giêsu. Ở trần thế, Ðức Maria được gần gũi với Chúa Giêsu như thế nào thì ở trên trời ngài cũng phải được ở với Chúa cả hồn lẫn xác.

    Lời Bàn


    Trong ý nghĩa ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, chúng ta dễ nhận ra một ý nghĩa mới trong kinh Magnificat. Trong sự vinh hiển, ngài tuyên xưng sự cao cả của Thiên Chúa và tìm thấy niềm vui trong Ðấng Cứu Chuộc của ngài. Thiên Chúa đã làm những điều trọng đại cho Ðức Maria và ngài giúp người khác nhận biết sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ngài là nữ tì hèn mọn rất mực tôn kính Thiên Chúa và đã được tôn vinh lên bậc cao cả. Từ vị thế uy quyền của Ðức Maria, ngài sẽ giúp những người hèn mọn và nghèo khổ tìm thấy sự công chính nơi trần thế, và ngài khuyên bảo những người giầu có và quyền thế đừng coi tiền của và thế lực như nguồn hạnh phúc.

    Trích từ NguoiTinHuu.com


    ______________________________


    Marilyn, Chúng Tôi Thông Cảm Với Cô

    "Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang Westwood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.
    Hiện nay, từng giây, từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim óng ả lặng lẽ ra đi không một lời dã biệt. Cuộc quên sinh của cô, cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết...
    Randall Reise, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: "Marilyn không còn là một con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của Holywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
    Marilyn đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi ngàn đời ấy...
    "Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô", bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa nào hơn là cái chết...
    Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời...
    Ngày 22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Ðức Mẹ. Ðức Mẹ đã chết. Ðó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
    Chết là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Ðức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về trời. Với Chúa Giêsu và Ðức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời...
    Nếu cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành chính niềm hy vọng của chúng ta.
    Trong một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Ðức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  28. Được cám ơn bởi:


  29. #15
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    16/08

    Giáo hội của người nghèo


    Thứ Ba sau Chúa Nhật XX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 19,23-30

    23Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. 24Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." 25Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu? " 26Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được." 27Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? " 28Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ítraen. 29Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp. 30"Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."

    Suy niệm:
    “Giáo hội của người nghèo”, “Ưu tiên phục vụ người nghèo”, đó là những khẩu hiệu trở thành thời trang trong Giáo hội kể từ mấy thập niên qua. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Nhưng Giáo hội có thực sự là Giáo hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?
    Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhở cho Giáo hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của hoàng đế Constantinope vào thế kỷ thứ IV đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm cho Giáo hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Kant Marx mà Giáo hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.
    Ngay từ thời mới khai sinh, cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Đọc lại giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giàu trong Giáo hội. Theo quan niệm quen thuộc của người Dothái, thì sự giàu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng : “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”, và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước trời.
    Giáo hội của những người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy : họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.
    Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo hội hiện nay cũng là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tận hiến chính mình trở nên của ăn nuôi dưỡng hồn xác chúng con. Chúa đã đi qua kiếp người trong hy sinh từ bỏ để trở nên mọi sự cho mọi người. Chúa không có của cải nhưng có cả một con người quảng đại phục vụ tha nhân. Chúa không giữ lại gì cho riêng mình để có thể trao ban cả cuộc sống cho nhân loại chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin Chúa dạy chúng con biết sống một cuộc đời biết cho đi hơn nhận lãnh, biết phục vụ hơn được phục vụ.
    Lạy Chúa, Chúa đã sống nghèo để dạy chúng con biết thanh thoát với của cải trần gian. Của cải trần gian mang lại cho con người niềm vui chốc lát, nhưng có thể giam hãm con người trong tham lam ích kỷ, trong lo âu sợ hãi, khiến mất bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Có nhiều người giàu có nhưng lòng bất an. Có nhiều người tiền dư bạc để nhưng lại mất bạn bè người thân. Có nhiều người chỉ biết giữ tiền nhưng không giữ được người thân. Họ đánh mất chính mình khi họ đề cao của cải hơn mọi mối quan hệ giữa người với người. Xin dạy chúng con biết chọn lựa sự sống đời đời hơn là của cải mau qua đời nay. Xin dạy chúng con biết trân trọng tình người hơn là có tiền mà đánh mất bạn bè. Xin dạy chúng con biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Amen.

    http://tgpsaigon.net/


    _______________________


    16 Tháng Tám
    Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi
    (975-1038)

    Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương--dù tốt hay xấu. Không có Kitô Hữu nào được coi là "nguyên bản" cả; có người là Công Giáo Mễ Tây Cơ, hay Công Giáo Ba Lan, hay Công Giáo Việt Nam. Dữ kiện này được nhận thấy hiển nhiên trong cuộc đời Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
    Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 cùng với cha của mình là thủ lãnh nhóm Magyar, là những người khai phá đã đến Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi 20 tuổi, ngài kết hôn với Gisela, người em của hoàng đế tương lai là Thánh Henry. Khi kế vị cha mình, Stêphanô theo chính sách của một quốc gia Kitô Giáo vì các lý do chính trị cũng như tôn giáo. Ngài triệt hạ được các cuộc nổi loạn của giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người Magyar thành một tổ chức lớn mạnh trong nước. Ngài đến Rôma để xin Giáo Hội phê chuẩn và cũng để xin đức giáo hoàng phong ban tước vua cho mình. Vào lễ Giáng Sinh 1001, ngài được đội vương miện.
    Stêphanô đã thiết lập một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo. Cứ 10 thành phố thì một thành phố phải xây một nhà thờ và cấp dưỡng cho một linh mục. Ngài bãi bỏ các tục lệ ngoại giáo với ít nhiều sự ép buộc, và ra lệnh tất cả mọi người phải kết hôn, ngoại trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo.
    Vào năm 1031, con trai trưởng của ngài là thái tử Emeric từ trần và quãng thời gian kế đó đầy dẫy những tranh chấp quyền kế vị. Ngay cả người cháu cũng mưu toan ám sát ngài. Stêphanô từ trần năm 1038 và được phong thánh năm 1083.

    Lời Bàn


    Ðược trở nên thánh thiện là có được lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân giống như Ðức Kitô. Ðức ái nhiều khi phải mang bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì lợi ích của sự thiện. Ðức Kitô đã lên án sự giả hình của người Pharisêu, nhưng khi từ trần, Người đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông người loạn luân ở Côrintô "để có thể cứu rỗi linh hồn" ông ta. Một số Kitô Hữu đã chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với một tinh thần cao thượng, bất kể các động lực bất chính của người khác. Ngày nay, sau các cuộc chiến tranh vô nghĩa, và với những hiểu biết sâu xa hơn về sự phức tạp của các động lực con người, chúng ta chùn bước trước bất cứ bạo lực nào, về hành động hay "im lặng" đồng lõa. Sự phát triển tốt đẹp này vẫn còn được tiếp tục khi người ta tranh luận rằng có thể nào một Kitô Hữu trở nên người yêu hoà bình tuyệt đối hay đôi khi sự dữ phải bị tiêu diệt bằng vũ lực.

    Lời Trích


    "Dù Giáo Hội đã góp phần rất nhiều trong việc phát triển văn hóa, kinh nghiệm cho thấy, vì hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hài hòa văn hóa với giáo huấn của Giáo Hội.
    "Những khó khăn này không nhất thiết gây thiệt hại cho đời sống đức tin. Thật vậy, chúng có thể khích lệ tâm trí để thấu hiểu đức tin cách chính xác hơn. Vì các cuộc nghiên cứu và khám phá mới đây của khoa học, lịch sử và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các cuộc nghiên cứu mới về thần học" (Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, 62)

    Trích từ NguoiTinHuu.com

    ______________________________


    Anh Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng Thành



    Ngày 16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem như là thần tượng của nhạc Rock tại Hoa Kỳ trong thập niên 70.

    Xuất thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis thường trở thành trò cười cho bạn bè trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ trở thành ca sĩ, Elvis đã thắng được tính nhút nhát của mình để trở thành một ngôi sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ quốc...

    Danh vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn bị cho mình một triết lý sống vững chắc. Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy xa hoa. Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết bao nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn phiền...

    Sự ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực để xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh...

    Buổi sáng ngày 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách, Elvis đã được tìm thấy trong phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả mãnh liệt với tử thần... Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở vào bệnh viện.

    Priscilla, người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau: "Cái chết của Elvis khiến tôi nghĩ nhiều về chính cái chết của tôi... Tôi chợt nhận ra rằng tôi cần phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang đến với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi chính những người ái mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ sống như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng thành, anh chưa bao giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài".

    Bảo rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh phúc có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời này, rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề... Thánh Augustinô đã được coi như là một hiện thân của một cuộc tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc v.v..., tất cả chỉ để lại trong tâm hồn ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con chỉ ngơi nghỉ khi được yên nghỉ trong Chúa...".

    Phải, chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc trong lòng người... Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái chóng qua ở đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi không phải là tiền của, danh vọng, nhưng chính là Chúa và những giá trị của Nước Trời.

    Trích sách Lẽ Sống

    thay đổi nội dung bởi: Rosa_Huong, 17-08-2011 lúc 07:11 AM
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  30. Được cám ơn bởi:


  31. #16
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    17/08

    Thứ Tư Tuần thứ 20 Thường Niên


    Thứ Tư Tuần thứ 20 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mt 20, 1-16a

    1"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." 5Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" 7Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" 8Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." 9Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12"Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." 13Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? 14Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?" 16Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.


    Suy niệm:

    Phân tích

    Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn những người thợ làm vườn nho là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ:
    Lối suy nghĩ của một số người thợ làm việc nhiều giờ: làm nhiều thì phải được trả công nhiều.

    Lối suy nghĩ của ông chủ: Ông trả công vì lòng thương nhưng không hại đức công bình, cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.
    Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người Do Thái và của Chúa Giêsu:
    - Người Do Thái làm việc đạo đức để tính công với Chúa. Họ nghĩ, họ làm nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ nhiều.
    - Đối với Chúa Giêsu: Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.

    Suy gẫm

    1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không phù hợp với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải vì lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình lại cư xử với con cái theo lý lẽ công bằng thì không biết con cái sẽ ra sao?
    Chúa cũng cư xử với chúng tôi như thế. Nếu Chúa xử theo công bằng thì không biết chúng ta sẽ ra sao?
    2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, thì tôi không nên ganh tỵ với người làm từ giờ thứ 11: những người bên lương trở lại, những người hấp hối mới ăn năn tội. Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
    3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tỵ với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh Vịnh: “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!” Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không theo công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi người theo lẽ công bình, vươn tới tình thương.
    4. Một người Do Thái nọ qua đời. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó chết theo đúng nghĩa y học, và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Giữa lúc hạ huyệt người ta đã nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết như sau: “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đang chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài và tiếp tục chôn.
    Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các luật lệ tôn giáo cũng như khi cư xử với nhau.
    5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ làm ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12).
    Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ không quay xung quanh được.
    Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai phút một người khác lại lên và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một người khác lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu tranh chấp. Bỗng một người phía dưới lên tiếng: “Tốt hơn hãy tắt cái quạt máy đi!” và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy tắt hẳn.
    Tôi suy nghĩ và tự hỏi: Tại sao đến với Chúa mà người ta vẫn còn chanh chấp ganh tỵ? Nhưng dường như cuộc sống con người thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình và quên đi mọi nhu cầu của tha nhân.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán, xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng dừng lại ở chính những con người để biết yêu thương.

    http://tgpsaigon.net/


    _____________________


    Tiếng Thì Thầm Của Sa Mạc

    Một nhà thám hiểm nọ lạc mất giữa sa mạc. Ði từ dụm cát này đến cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu ông cũng thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô. Ông vấp ngã và nằm vùi bên gốc cây. Ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào. Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên. Trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại.
    Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối. Rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối...
    Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa.
    Có những ồn ào của những bận tâm thái quá cho danh vọng, cho tiền của, cho tương lai. Có những ồn ào của tham lam giành giật không đếm xỉa đến người khác. Có những ồn ào của sôi sục cừu hận, báo thù...
    Có thinh lặng trong cõi lòng, chúng ta mới nghe được tiếng thì thầm mời gọi của Chúa trong từng phút giây của cuộc sống. Có thinh lặng, chúng ta mới nhận ra được tiếng Ngài qua những khóc than của không biết bao nhiêu người bất hạnh xung quanh. Có thinh lặng, chúng ta mới nghe được lời an ủi, đỡ nâng của Ngài giữa gánh nặng chồng chất của cuộc sống...

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  32. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  33. #17
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    18/08

    Sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?


    Thứ Năm Tuần 20 Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mt 22,1-14

    1 Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng:2 "Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình.3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến.4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! "5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn,6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng.8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng.9 Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới."10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
    11 "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới,12 mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới? " Người ấy câm miệng không nói được gì.13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."


    Suy niệm:

    Phân tích
    Dụ ngôn tiệc cưới:
    Tiệc cưới là Nước trời.
    Những người khách được mời đợt đầu nhưng chối từ là dân Do Thái.
    Những người khách được mời đợt sau là chư dân.
    Trong dụ ngôn này có hai chi tiết hơi khó hiểu là:
    Vua ra lệnh phá hủy thành phố của những người không đáp lời mời: ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy năm 70.
    Một người vào dự tiệc mà không mặc áo cưới nên bị phạt: áo cưới chỉ nếp sống mới. Được gia nhập Nước trời nhưng không có một nếp sống mới thì cũng bị phạt trong ngày phán xét.

    Suy niệm


    1. So với dân Do Thái, chúng ta chính là những người tốt có xấu có vất vơ ở các ngã ba đường nhưng được Chúa mời vào Giáo hội. Hãy tạ ơn Chúa.


    2. Câu chuyện người không mặc áo cưới là một lời cảnh giác chúng ta: để xứng đáng với tấm lòng của Chúa, chúng ta phải cố gắng hoán cải, có một nếp sống mới. Không phải nguyên việc trong Giáo hội là đảm bảo cho ơn cứu độ đâu. Thánh Phao Lô kêu gọi hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới.


    3. Tiệc cưới và áo cưới tượng trương cho những tâm tình cơ bản mà người Kitô hữu phải luôn có, đó là hân hoan, vui mừng và yêu thương.

    Có người đã tưởng tượng ra thiêng đàng và hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người cầm một đôi đũa dài đến độ thức ăn gắp được nhưng không thể đưa vào miệng. Bàn tiệc trên thiêng đàng thì cũng y hệt, nhưng khác một điều: thay vì gắp thức ăn cho và miệng mình, thì người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng cho người đối diện. Thế là vui vẻ cả vì ai cũng được ăn no nê.

    4. Ngày nay chúng ta có thể “đọc lại” dụ ngôn này và hiểu đợt khách được mời thứ nhất là chính chúng ta.

    “Mọi sự đã sẵn sàng, xin mời đến dự tiệc”: Chúa dọn sẵn câu chuyện ta hai bàn tiệc là Thánh thể và Lời Chúa. Đến đó, chúng ta sẽ được bồi dưỡng mọi thứ cần thiết. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta từ chối. Cũng như những người trong dụ ngôn, chúng ta coi việc “đi thăm trại” và “buôn bán” (những việc làm ăn, vui chơi) trọng hơn bàn tiệc của Chúa .

    5. “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời không xứng đáng. Vậy các người hãy ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22,89).


    6. Nhà vua sai những đầy tớ khác đi dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng này cỗ bàn Ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo Ta đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quý vị đến dự tiệc cưới. Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi" (Mt 24,4-5).

    Chúa Giêsu đã mời gọi tất cả mọi người, không trừ một ai, kể cả những người tội lỗi, hãy đến với Ngài.
    Thế nhưng có những người, và đáng buồn nhất là những người được Thiên Chúa ưu đãi, lại khước từ lời mời gọi của Chúa.
    Ước gì tất cả chúng ta đây, đừng có ai là người khước từ lời mời gọi của Chúa, mà tất cả đều mau mắn đáp lại lời mời gọi đó, nghĩa là mau mắn đến dự bữa tiệc cưới của Con Thiên Chúa đã được dọn sẵn.
    Và để được vào dự bữa tiệc cưới đó, chỉ đòi chúng ta phải có một bộ y phục cưới. Y phục cưới đó là chính Chúa Kitô, nghĩa là đòi chúng ta phải mặc lấy Chúa Kitô, hay nói các khác là chúng ta phải tin nhận Chúa Kitô.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho con biết đến với anh em, và hòa mình vào dòng người đi vào tiệc cưới trong nhà Cha.

    http://tgpsaigon.net/

    _______________________


    Ngài Là Sự Bình An Của Chúng Ta

    Năm 1899, cuộc xung đột biên giới giữa hai nước Chile và Argentina suýt đưa tới một cuộc chiến tranh khốc liệt... Mùa Phục Sinh năm 1900, quân đội của hai bên đã sẵn sàng giao tranh với nhau.
    Trong suốt tuần thánh năm đó, vị tổng giám mục Buenos Aires của Argentina đã đưa ra một lời kêu gọi tha thiết về Hòa Bình. Sứ điệp của ngài đã không mấy chốc được truyền sang Chile. Các giám mục của nước này cũng hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi. Giáo hội của hai bên đã làm áp lực để hai chính phủ ngồi vào bàn hội nghị với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.
    Không mấy chốc, một hòa ước đã được hai nước ký kết. Ðể nói lên thiện chí xây dựng hòa bình, quân đội Argentina đã gom góp lại một số khí giới và nung lên để rồi đúc thành một tượng Chúa Giêsu. Bức tượng đã được đặt tên là "Ðức Kitô của dãy núi Andes". Andes là dãy núi nơi đã có cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Cánh tay phải của bức tượng được mở rộng để ban phép lành, còn cánh tay trái cầm thánh giá.
    Chính phủ Argentina đã quyết định đưa bức tượng lên đỉnh núi ở cao độ gần 4 ngàn thước. Xe lửa di chuyển bức tượng đến chân núi. Sau đó, người ta dùng chính các chiến xa do lừa kéo để đưa bức tượng lên núi. Và cuối cùng, khi đến gần đỉnh núi, chính các quân nhân là những người hoàn thành công tác còn lại.
    Sau khi đã dựng bức tượng, người ta viết dưới bệ của bức tượng như sau: "Những ngọn núi này sẽ sụp xuống và biến thành cát bụi nếu nhân dân của Chile và Argentina quên đi lời giao hòa mà họ đã long trọng ký kết dưới chân Ðức Kitô". Trên mặt khác của chân tượng, người ta cũng đọc thấy câu trích từ thư của thánh Ephesô như sau: "Chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã làm cho đôi bên bị chia rẽ nên một".
    Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1990 đã được quyết định trao tặng cho tổng thống Gorbachov của Liên Xô. Cả thế giới đã nhìn nhận vai trò của ông trong việc đạp đổ bức tường ô nhục Bá Linh và các chế độ cộng sản tại Ðông Âu, cũng như góp phần dập tắt cuộc chiến tranh giữa hai khối cộng sản và tư bản.
    Hòa bình mà tổng thống Gorbachov góp phần kiến tạo phải chăng không là kết quả của một sự "đạp đổ": chỉ khi nào những bức tường của kỳ thị, của bách hại, của hận thù, của độc tôn bị đạp đổ thì Hòa Bình mới thực sự chớm nở...
    Người La Mã ngày xưa thường nói: Nếu muốn Hòa Bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Còn cuộc chiến nào gay go, khốc liệt cho bằng cuộc chiến để đạp đổ những bức tường của hận thù, của bạo động, của bất khoan dung trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự có bình an trong tâm hồn và người người mới thực sự có Hòa Bình khi những bức tường ấy được đạp đổ trong chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  34. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  35. #18
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    19/08

    Yêu thương lân cận như chính mình


    Thứ sáu Tuần 20Thường Niên

    Lời Chúa:
    Mt 22,34-40

    34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng:36 "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? "37 Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.




    Suy niệm:

    Phân tích

    Trả lời cho một số luật sỹ hỏi “Giới răn nào là trọng nhất?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.

    Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.

    Suy niệm


    1. Những luật sĩ Do Thái rất thuộc luật và giữ rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương. Có thể chúng ta cũng thế: hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo hội và luật cộng đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.


    2. Có người nói yêu thương khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không đễ thương bằng Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai bằng giới răn thứ nhất.


    3. “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga4,20-21).


    4. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một Người Cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau.


    5. “Còn một điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy là: phải yêu thương lân cận như chính mình” (Mt 22,39).

    Tình yêu đối với Thiên Chúa phải được tỏ hiện ra dấu hiệu bề ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.
    Điểm độc đáo của Chúa Giêsu là gắn liền điều răn thương người với điều răn mến Chúa, có tầm quan trọng như nhau, và tập trung tất cả Lề Luật vào hai giới răn đứng đầu nầy.
    Đối với chúng ta hôm nay, ai mà không biết hai giới răn trọng nhất đó, vì đã học thuộc lòng từ hồi nhỏ. Nhưng học thuộc không có nghĩa là đã sống nó rồi. Chịu khó suy nghĩ một tí, thì ai trong chúng ta cũng cảm thấy không yên tâm chút nào. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn thì chưa, mà thương yêu tha nhân bằng mình thì cũng chưa nốt, bằng cái nhăn mặt thì thường xảy ra hơn.
    Vì thế chúng ta cũng không nên trích các kinh sư hay nhà thông luật, một phải trách mình trước đã. Lời Chúa hôm nay đang thúc giục tôi nhìn về cuộc sống của mình trước những đòi hỏi của hai giới răn trọng nhất đó. Tôi phải đặt lại bậc thang giá trị trong đời, bởi vì trong thực tế tôi thường đảo ngược bậc thang giá trị đó: cái trọng nhất thường lại đứng vào hạng sau cùng, Tiền bạc hay thú vui là ưu tiên số một, còn bổn phận đối với Chúa cũng như đối với tha nhân thường lại nằm ở cuối bảng.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con.

    http://tgpsaigon.net/


    __________________


    Hãy Nhìn Lên Cao

    Dạo cuối tháng 4/1990, ở cao độ 620 cây số trên biển Thái Bình Dương, cánh tay dài 12 thước của người máy từ phi thuyền con thoi Discover đã đưa ống thiên văn Hubble rời xa phi thuyền để đi vào quỹ đạo không gian, bắt đầu một cuộc hành trình quan sát vũ trụ được dự trù kéo dài trong suốt 15 năm, mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong ngành thiên văn học.
    Do nhu cầu tìm hiểu vũ trụ, kính thiên văn đã được ra đời cách đây khoảng 380 năm. Nhờ kính thiên văn, các nhà thiên văn học mới có thể quan sát một cách chi tiết những thiên thể ở gần trái đất và từ đó đưa ra những định lý căn bản cho ngành thiên văn học. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là những máy điện toán, những kính thiên văn ngày càng được cải tiến về kỹ thuật cũng như kích thước để gia tăng khả năng quan sát. Hai kính thiên văn có đường kính lớn nhất hiện nay được đặt trên đỉnh núi Palomar và Caucasus. Nhưng dù được cải tiến cách mấy đi nữa, khoảng cách quan sát và mức độ phân giải của kính thiên văn đặt trên mặt đất vẫn còn bị giới hạn, vì ánh sáng từ các thiên thể trước khi đến mặt đất đã bị ngăn cản và tản xạ nhiều bởi lớp khí quyển bao quanh trái đất.
    Ý tưởng về kính thiên văn đặt ngoài không gian đã được đề cập đến năm 1923, nhưng mãi đến năm 1981, ý tưởng này mới được thực hiện với một kinh phí khổng lồ là 1 tỷ rưỡi Mỹ kim. Kính thiên văn đặt ngoài không gian trái đất này mang tên khoa học gia Hoa Kỳ Edwin Hubble, một trong những tài năng lỗi lạc nhất trong ngành thiên văn học.
    Sự ra đời của kính thiên văn Hubble có thể so sánh với sự ra đời của kính thiên văn đầu tiên của Galilêô vào năm 1609: đây là bước tiến quan trọng trong ngành thiên văn học, nó giúp con người tiến đến gần chân lý hơn trên con đường tìm hiểu vũ trụ.
    Càng lên cao, con người mới nhìn xa thấy rộng. Càng ra khỏi mặt đất, càng lên cao trên không gian, nhãn giới của chúng ta càng mở rộng. Cũng giống như ống kính thiên văn Hubble, người Kitô hữu cũng được trang bị bằng cái nhìn từ trên cao. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta nhìn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta biết được đâu là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta có thể nhìn thấy dấu vết của một tình yêu luôn hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại và của từng người.
    Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, Phêrô kéo Ngài lại và can gián Ngài. Chúa Giêsu đã quở trách ông: "Hãy lui ra đằng sau ta hỡi Satan. Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, bởi vì cái nhìn của ngươi không phải là cái nhìn của Thiên Chúa, mà là của loài người".
    Lắm lúc chúng ta cũng khước từ cái nhìn trên cao của Thiên Chúa để chỉ nhìn vào cái biến cố bằng cái nhìn trần tục của chúng ta. Với cái nhìn trần tục, chúng ta chỉ thấy màu đen của thất bại, chết chóc, thất vọng, buồn thảm. Nhưng với cái nhìn của Chúa, sự yếu đuối sẽ trở thành sức mạnh, mất mát sẽ trở thành lợi lộc, khờ dại sẽ trở thành khôn ngoan. Trong cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy ánh sáng, hy vọng, tin tưởng, lạc quan.
    Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: "Hãy yêu thích những sự trên trời". Hãy mặc lấy cái nhìn từ trên cao. Hãy luôn sống và hành động bằng những tâm tình của chính Chúa Giêsu.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  36. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  37. #19
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    20/08

    Đề phòng thái độ giả hình


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật XX Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 23,1-12

    1Bấy giờ, Đức Giêsu nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2"Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. 3Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "rápbi". 8"Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. 11Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.

    Suy niệm:
    Theo các văn thư của Đức Giáo hoàng Innocente để lại, thì thời của ngài, tức thế kỷ XII, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân lý : tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó thánh Phanxicô Assisie xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc; ngài đi cho đến tận cùng trọn cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ, Giáo hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
    Trong giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisie thôi thúc chúng ta hơn bao giờ hết.
    Tin mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế ? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình ?
    Câu hỏi mà chúng ta phải không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thật sự là một đóng góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh thần không ? Giáo hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho nhiều người không?

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, Chúa không thích chúng con nói mà không làm. Chúa càng không thích lối sống giả tạo của chúng con. Xin Chúa hãy giúp chúng con biết kiện toàn đời sống của mình theo tin mừng của Chúa. Xin Chúa hãy giúp chúng con can đảm làm chứng cho tình yêu của Chúa. Một tình yêu dấn thân đến nỗi quên cả tính mạng mình. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu chân thành để có thể cúi mình phục vụ mà không so đo tính toán. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn để sống gần gũi, hòa đồng với nhau. Xin loại trừ nơi chúng con thái độ kẻ cả, tự cao tự đại để chúng con luôn là người dễ mến của tha nhân.
    Lạy Chúa, Chúa là Đấng hiền lành và rất mực khiêm nhường, xin dạy chúng con biết đối xử với nhau trong khiêm tốn hiền hòa. Xin soi sáng hướng dẫn chúng con để chúng con không ngừng nhìn lại bản thân và nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng con quyết tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa. Amen.

    http://tgpsaigon.net/

    _______________________


    Hai Vì Sao Mỉm Cười

    Một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.

    Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
    Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.
    Ðể mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy Matthêô. Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do Matthêô khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau: "Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ".
    Qua thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt lõi của Tin Mừng, cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.
    Nói như mẹ Têrêxa Calcutta: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.
    Khi tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những người xúc phạm đến tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ hy sinh đích thực".

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  38. Được cám ơn bởi:


  39. #20
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    22/08

    Lời đáp trả


    Thứ Hai sau Chúa Nhật XXI Thường niên A, Đức Maria Trinh Vương

    Lời Chúa:
    Lc 1,26-38

    26Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, 27gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. 28Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." 29Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. 32Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. 33Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." 34Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " 35Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." 38Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.



    Suy niệm:
    Vai chính trong tường thuật này là Đức Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau :
    - một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)
    - nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì “đầy ơn sủng” và được “Đức Chúa ở cùng” (câu 28)
    - được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)
    - dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38 : Fiat = “Xin Chúa cứ làm nơi tôi...”).

    Đức Maria hỏi “Việc ấy xảy ra cách nào được”. Thiên sứ đáp “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được : Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
    Mặc dù “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình : “Xin cứ làm cho tôi...”.
    Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp :
    - Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
    - Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

    Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.
    “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói : Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà. Nghe lời chào ấy, Bà rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1,28-29)
    Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
    Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.

    Cầu nguyện:
    Mẹ Maria đã để cho Chúa thực hiện những điều kỳ diệu trên cuộc đời của Mẹ dù Mẹ ý thức mình chẳng là gì trước Thiên Chúa. Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa chỉ thực hiện điều Ngài muốn cho con nếu con thực sự đón nhận với lòng tin yêu, phó thác, khiêm tốn để cho Ngài thực hiện. Xin cho con biết nỗ lực cộng tác vào ơn ban của Chúa, chương trình cứu độ của Chúa. Để ý Chúa được thể hiện, danh Chúa được hiển vinh.
    Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ.

    http://tgpsaigon.net/

    ______________________________


    Trinh Nữ Vương


    Hiện nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Ðiển, Thái Lan, chức nữ hoàng và quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.

    Giữa trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh: "Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy..." lượt dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: "Salve Regina..." vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.

    Trong tông huấn mang tựa đề: "Lòmg sùng kính Ðức Mẹ Maria", Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về Ðức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm nay đại khái như sau: "Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền".

    Lời giải thích của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của Mẹ Maria theo tinh thần của cộng đồng Vatican II. Ðó là liên kết vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.

    Theo dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát tình yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu tình yêu của Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với con Mẹ trong Nước Trời.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  40. #21
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    23/08

    Kết án thái độ vụ hình thức


    Thứ Ba sau Chúa Nhật XXI Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 23,23-26

    23"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. 24Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. 25"Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.

    Suy niệm:
    Tin mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án của Chúa đối với thái độ vụ hình thức. Trước hết là việc giữ luật bên ngoài thật tỉ mỉ, mà không có lòng đạo đức thật, không thực thi công bằng và tình yêu thương.
    Trong Do thái giáo, luật đóng thuế thập phân trên những sản phẩm con người làm ra là một hành động tôn giáo để nhìn nhận quyền tối cao của Thiên Chúa. Theo luật Môsê được ghi trong sách Thứ luật, thì chỉ buộc trả thuế thập phân trên những sản phẩm chính là gạo, rượu, dầu, con vật đầu lòng. Thế nhưng, có lẽ vì quá sốt sắng, những Luật sĩ và Biệt phái muốn áp dụng thuế thập phân cho những sản phẩm nhỏ, không cần thiết như: bạc hà, thì là, rau húng.
    Chúa Giêsu không kết án các Luật sĩ và Biệt phái vì sự tuân giữ luật Môsê một cách tỉ mỉ: họ tuân giữ những điều hết sức nhỏ để tỏ ra mình sốt sắng đạo đức, nhưng họ lại lỗi phạm những điều lớn về đức công bằng và tình yêu thương, họ làm như thế chẳng khác nào lọc lừa con muỗi ra ngoài, nhưng lại nuốt cả con lạc đà nguy hiểm hơn.
    Thái độ vụ hình thức thứ hai của các Luật sĩ và Biệt phái còn được thể hiện trong sự tuân giữ những nghi thức bên ngoài, mà không chăm lo tinh tuyền bên trong: họ lo rửa chén đĩa bên ngoài, mà bên trong tâm hồn thì đầy cướp bóc, tham lam. Việc tuân giữ nghi thức thanh tẩy bên ngoài, việc đến nhà thờ đọc kinh ngoài môi miệng mà thôi chưa đủ, cần phải để cho ơn Chúa biến đổi tận bên trong tâm hồn ngõ hầu trở nên con người mới. Sự hoán cải nội tâm quan trọng hơn và phải đi trước những thực hành đạo đức bên ngoài để tránh thái độ giả hình, vụ hình thức đáng bị Chúa Giêsu khiển trách.
    Nguyện xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi những tham lam, ích kỷ, hẹp hòi. Xin cho chúng ta sống ngay chính bên trong cũng như bên ngoài, sống điều chúng ta nói trên môi miệng để làm chứng cho Chúa giữa mọi người.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã buồn vì đời sống giả hình của những người biệt phái. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ dạy người khác về đạo nhưng họ lại sống thiếu công bình bác ái. Họ vạch lối chỉ đường cho người khác nhưng bản thân họ lại lầm lạc sai lối. Có lẽ Chúa cũng đang buồn vì lối sống thiếu tình yêu của chúng con? Chúa cũng buồn lắm khi mà số người đến nhà thờ vẫn đông nhưng lại ít người tham dự thánh lễ cho tích cực sốt sắng. Chúa càng buồn hơn khi mà con số theo đạo thì nhiều nhưng giữ đạo chẳng bao nhiêu! Xin Chúa thứ tha, vì chúng con vẫn còn đó những thói hư tật xấu: vẫn tham lam, ích kỷ, hẹp hòi. Chúng con có đạo nhưng thiếu thực hành đạo, nên vẫn còn đó những thù hận, bất trung và phản bội tràn lan trong đời sống thường ngày của chúng con. Chúng con mang danh Kitô nhưng những lời chúng con nói, việc chúng con làm lại phản Kitô vì thiếu tình yêu đối với tha nhân. Xin ban cho chúng con ơn hoán cải để chúng con dám sống chân thật trước mặt Chúa và mọi người.
    Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tuân giữ luật pháp của Chúa trong công bình, lòng nhân và thành tín. Xin cho lời chúng con nói, việc chúng con làm luôn ngôn hành như nhất để làm vinh danh Chúa. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    __________________________
    23 Tháng Tám
    Thánh Rôsa ở Lima
    (1586-1617)


    Vị thánh đầu tiên của Tân Thế Giới này có cùng một đặc tính như tất cả các thánh khác -- đó là bị đau khổ vì sự chống đối -- và một đặc tính khác được khâm phục hơn là nên bắt chước -- đó là sự hãm mình đền tội cách quá đáng.
    Thánh nữ sinh trong một gia đình Tây Ban Nha ở Lima, Peru, vào lúc Nam Mỹ đang trong thế kỷ truyền giáo đầu tiên. Dường như ngài muốn noi gương Thánh Catarina ở Siena, bất kể những chống đối và nhạo cười của cha mẹ, bạn hữu.
    Vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà các thánh có những hành động kỳ dị đối với chúng ta, và quả thật đôi khi thiếu khôn ngoan, nhưng đó chỉ để nói lên sự tin tưởng của các ngài là bất cứ điều gì làm nguy hại đến sự tương giao với Thiên Chúa đều bị tiêu trừ. Do đó, vì sắc đẹp của ngài được nhiều người ngưỡng mộ nên Thánh Rôsa đã dùng hạt tiêu chà sát lên mặt để tạo thành các vết sưng xấu xí. Sau này, ngài còn đội một vòng bạc dầy cộm trên đầu, bên trong nhét đinh giống như mão gai.
    Khi cha mẹ ngài rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh, ban ngày Thánh Rôsa phải làm việc nơi đồng áng và ban đêm phải khâu vá để giúp đỡ gia đình. Mười năm dài tranh đấu với gia đình được khởi đầu khi cha mẹ ép buộc ngài phải kết hôn. Cha mẹ ngài không cho đi tu, và vì vâng lời ngài tiếp tục đời sống cô độc và ăn chay hãm mình ngay tại nhà như một thành viên của Dòng Ba Ðaminh. Vì lòng ước ao muốn được trở nên giống như Ðức Kitô nên hầu hết khi ở nhà, ngài sống trong cô độc.
    Trong những năm cuối đời, Thánh Rôsa lập một căn phòng ngay trong nhà để chăm sóc các trẻ em bụi đời, người già yếu và bệnh tật. Ðây là khởi đầu của dịch vụ xã hội ở Peru. Mặc dù có cuộc sống và sinh hoạt tách biệt, ngài cũng bị đưa ra trước Toà Thẩm Tra, nhưng các người thẩm vấn không tìm thấy lý do gì khác hơn là ngài bị ảnh hưởng bởi ơn sủng.
    Ðiều chúng ta lầm tưởng rằng đó chỉ là một cuộc sống lập dị thì thực sự đã được biến đổi tự bên trong. Nếu chúng ta nhớ đến cách ăn năn đền tội bất thường của ngài thì chúng ta cũng phải nhớ một điều vĩ đại của Thánh Rôsa: tình yêu Thiên Chúa của ngài quá nồng nhiệt đến nỗi ngài sẵn sàng chịu đựng sự nhạo cười của người đời, chịu cám dỗ mãnh liệt và chịu đau bệnh lâu dài. Khi ngài từ trần năm 31 tuổi, cả thành phố đã tham dự tang lễ của ngài và các chức sắc trong xã hội đã thay phiên nhau khiêng quan tài của ngài.

    Lời Bàn


    Thật dễ để cho rằng sự ăn năn đền tội quá đáng của các thánh là hình thức bề ngoài của một vài nền văn hóa hay tính khí nào đó. Nhưng hình ảnh một phụ nữ đội mão gai rất có thể đã khích động lương tâm của chúng ta. Chúng ta đang vui hưởng một đời sống đầy đủ tiện nghi nhất trong lịch sử loài người. Chúng ta ăn uống thừa thãi, sử dụng biết bao đồ vật và chất chứa trong tai mắt chúng ta đủ mọi thứ âm thanh và hình ảnh. Giới thương mại vội vã chế tạo các vật dụng không cần thiết để chúng ta tiêu xài. Dường như khi chúng ta ngày càng nô lệ cho các phương tiện vật chất thì lúc ấy sự "tự do" trở nên vấn đề lớn lao. Chúng ta có sẵn sàng rèn luyện tâm linh trong một môi trường như thế hay không?

    Lời Trích


    "Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mắt mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt. 18:8-9).

    Trích từ NguoiTinHuu.com
    ______________________

    Hoa Ðầu Mùa Của Mỹ Châu

    Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ. Thánh nữ có hai đặc điểm mà dường như vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống khắc khổ.
    Chọn thánh nữ Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sợ nhan sắc của mình có thể quyến rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho chính mình, Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến mình thành một người xấu xí. Cô cũng lấy thép cuốn thành vòng gai nhọn đội trên đầu.
    Nhưng Rosa không phải là một con người mơ mộng viển vông. Khi thấy gia đình gặp khó khăn về kinh tế, Rosa đã hy sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá suốt đêm để kiếm tiền đắp đổi cho gia đình. Sống cho cha mẹ, lo cho gia đình, nhưng Rosa vẫn quyết tâm dâng hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để chống lại ý định của cha mẹ nhằm cưỡng bách cô phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì cha mẹ cũng không chấp nhận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba thánh Ða Minh. Như thế cô vừa sống được lý tưởng tu dòng vừa sống thánh giữa đời.
    Trong những năm cuối đời, Rosa dành một phòng trong nhà để đón tiếp trẻ em không nhà không cửa và những người già cả bệnh tật. Ðây là một trong những hình thức hoạt động xã hội đầu tiên tại Pêru.
    Rosa qua đời năm 31 tuổi. Cả thành phố Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết hợp tinh thần chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.
    Thánh Rosa kể lại rằng trong một giấc mơ, ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc dành cho những người muốn nên thánh. Thánh nhân chứng kiến cảnh không biết bao nhiêu người đang ngồi trước các khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong một tác phẩm nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục đẽo trên một phiến đá sần sù, cứng nhắc. Thánh nữ cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và đặt ngồi trước một phiến đá lớn. Người mẫu của tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên Chúa đã đặt để từ đời đời trong thánh nữ.
    Mỗi ngày chúng ta kính nhớ một vị thánh. Mỗi một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta về ơn gọi nên thánh của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào giống vị thánh nào. Không ai bắt buộc phải sống khuôn dập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi người là một vị thánh cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: đó là họa lại hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.
    Và hình ảnh mà Thiên Chúa muốn mỗi người chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính mình là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Ðức Kitô, mà còn sống bằng chính Ðức Kitô. Họa lại Ðức Kitô cũng có nghĩa là để cho Ðức Kitô uốn nắn, tạc vẽ cho đến khi nào chúng ta đạt được tầm mức của Ngài.

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  41. Được cám ơn bởi:


  42. #22
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    24/08

    Chúa tìm tôi hay tôi tìm Chúa


    Thứ Tư sau Chúa Nhật XXI Thường niên A

    Lời Chúa:
    Ga 1,45-51

    45Ông Philípphê gặp ông Nathanaen và nói: "Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét." 46Ông Nathanaen liền bảo: "Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được? " Ông Philípphê trả lời: "Cứ đến mà xem! " 47Đức Giêsu thấy ông Nathanaen tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Đây đích thật là một người Ítraen, lòng dạ không có gì gian dối." 48Ông Nathanaen hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi? " Đức Giêsu trả lời: "Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi." 49Ông Nathanaen nói: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen! " 50Đức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa." 51Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người."


    Suy niệm:
    Trong Tin Mừng Gioan, Natanaen là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.
    Khi Philipphê nói với Natanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói : “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ? (6,42)
    Đức Giêsu nói với Natanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh” : Trong Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và các con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ : có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh ; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là : Natanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.
    Lời của Đức Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.
    Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39; 19,3.21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).
    Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).
    Natanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” : bấy giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.
    Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời ; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
    Natanaen đã được biết Chúa Giêsu và được Ngài kêu gọi nhờ sự giới thiệu của Philipphê. Tôi cũng được biết Chúa và được Ngài gọi nhờ sự giới thiệu của nhiều người. Nhưng ít khi tôi nhớ ơn họ và cầu nguyện cho họ. Hôm nay tôi hãy cầu nguyện cho những ân nhân đó ; và nguyện sẽ giới thiệu Chúa cho những anh chị em khác của tôi nữa.
    Natanaen hỏi “Làm sao Ngài biết tôi ?” Chúa Giêsu đáp “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” : Chúa cũng biết con từ lâu và biết rất rõ. Con xin phó thác đời con cho Chúa.
    Ngày nọ, một người bạn đến tìm nhà giảng thuyết Mc-Leod Campbell trong tâm trạng bối rối : “Này anh, xin anh nói cho tôi hay ; làm thế nào mà anh luôn tìm thấy Chúa ?” Nhà giảng thuyết trầm ngâm một lúc rồi nói : “Làm thế nào mà tôi luôn tìm thấy Chúa ư ? Không đâu, tôi không luôn tìm thấy Chúa đâu, nhưng tôi biết là Chúa luôn tìm thấy tôi !”
    “Ông Natanaen hỏi Người : “Làm sao Ngài lại biết tôi ?” Đức Giêsu trả lời : “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1,48)
    Có người lái buôn kia quyết đi tìm điều quý giá nhất trên đời, nhưng đó không phải là vàng bạc, đá quý, mà là Thiên Chúa. Anh đi mãi, đi mãi, và tìm đủ loại sách, mọi bậc thánh hiền nhưng vẫn không gặp được Thiên Chúa.
    Một ngày kia, đang thơ thẩn trên dòng sông, bỗng anh thấy một đàn vịt. Đàn vịt con cứ muốn rời mẹ để đi kiếm ăn riêng. Vịt mẹ cứ phải lặn lội tìm hết con này đến con kia mà không tỏ ra giận dữ. Nhìn cảnh vịt mẹ cứ mãi tìm con, anh ta mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương, hân hoan nói với mọi người rằng : Tôi đã đi tìm Thiên Chúa, và cuối cùng tôi khám phá ra rằng chính Ngài đã đi tìm tôi.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày nhất là những lúc chúng con gặp khó khăn. Chúng con cứ loay hoay đi tìm Chúa, cứ than trách Chúa ở đâu sao con chẳng thấy. Thực thì Chúa đang ở ngay bên cạnh con để cùng con bước đi trên chặng đường sỏi đá của đời con. Chúa đang ở đàng sau con để động viên, khích lệ con hãy cố gắng, cố gắng không ngừng. Chúa đang ở trong con để nên sức mạnh cho con và để con được sống bằng sức sống của Chúa. Xin cho con cảm nghiệm được tình thương quan phòng của Chúa trong cuộc đời con để mỗi chúng con luôn khao khát hoàn thiện ơn gọi đời mình theo đúng ý Chúa.
    Lạy Chúa, xin cho con nghe được tiếng Chúa gọi thầm, để con nhận ra Chúa đang đến với con trong mọi biến cố của cuộc sống và trong những người anh em mà con gặp gỡ hằng ngày.

    http://tgpsaigon.net/


    _____________________

    24 Tháng Tám
    Thánh Batôlômêô

    Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: "Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng" (Gioan 1:47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời "Tôi thấy anh ở dưới cây vả" (Gioan 1:48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel" (Gioan 1:49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, "Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!" (Gioan 1:50)
    Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Ðức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Gioan 21:1-14). Lúc ấy các ngài chài lưới cả đêm mà không được gì cả. Vào buổi sáng, họ thấy có người đứng trên bờ dù rằng không ai biết đó là Ðức Giêsu. Ngài bảo họ tiếp tục thả lưới, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên nổi. Sau đó Gioan nói với Phêrô, "Chính Thầy đó."
    Khi họ dong thuyền vào bờ, họ thấy có đám lửa, với một ít cá đang nướng và một ít bánh. Ðức Giêsu bảo họ đem cho mấy con cá tươi, và mời họ đến dùng bữa. Thánh Gioan kể rằng mặc dù họ biết đó là Ðức Giêsu, nhưng không một tông đồ nào dám hỏi ngài là ai. Thánh Gioan cho biết, đó là lần thứ ba Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ.
    Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.

    Lời Bàn


    Batôlômêô hay Natanien? Một lần nữa chúng ta phải đương đầu với sự kiện là hầu như chúng ta không biết gì về các tông đồ. Tuy vô danh nhưng các vị vẫn là nền tảng, là 12 cột trụ của Israel mới mà 12 chi tộc ấy đã tràn lan trên khắp mặt đất. Cá tính của các ngài chỉ là thứ yếu (nhưng không vì thế mà bị coi thường) so với nhiệm vụ trao truyền lại những gì các ngài được cảm nhận đầu tiên, được lên tiếng nhân danh Ðức Giêsu, được đưa Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể vào ngôn ngữ loài người để khai sáng thế gian. Sự thánh thiện của các ngài không phải là thái độ trầm ngâm về thân phận trước mặt Thiên Chúa. Ðó là một ơn sủng mà họ phải chia sẻ với tha nhân. Ðược gọi là Tin Mừng vì tất cả chúng ta được mời gọi trở nên thánh thiện khi là phần tử của Ðức Kitô, qua ơn sủng từ bi của Thiên Chúa.
    Sự thật thì loài người hoàn toàn vô dụng trừ phi được Thiên Chúa lưu tâm. Do đó, vì được trở nên thánh thiện bởi chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, nhân loại trở thành tạo vật quý báu nhất của Thiên Chúa.

    Lời Trích


    "Cũng như chính Ðức Kitô, các tông đồ không ngừng làm chứng cho chân lý của Thiên Chúa. Họ chứng tỏ sự can đảm khác thường khi 'mạnh dạn nói lời của Thiên Chúa' (TÐCV 4:31) trước dân chúng và nhà cầm quyền. Với đức tin mạnh mẽ, các ngài xác tín rằng chính phúc âm là sức mạnh của Thiên Chúa để cứu chuộc những người có lòng tin... Các ngài đã noi gương hiền lành và khiêm nhường của Ðức Kitô" (Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, 11).

    Trích từ NguoiTinHuu.com


    _________________________


    Tách Nước Tràn Ðầy

    Ðể đả phá sự kiêu ngạo, người Nhật Bản thường kể câu chuyện sau: Có một nhà hiền triết nọ nổi tiếng về sự khôn ngoan và kiến thức. Ai ai cũng tìm đến vấn kế.
    Ðể kiểm chứng điều đó, một hôm có một giáo sư đại học đến xin tiếp kiến nhà hiền triết. Ông trang bị cho mình không biết bao lý lẽ và kiến thức.
    Khi ông giáo sư đại học an tọa trong phòng khách, nhàhiền triết mới đưa một bình trà thật nóng ra tiếp khách .Ông bắt đầu rót nước vào tách của ông giáo sư . Những giọt nước trà nóng hổi không mấy chốc đã tràn ra tách, nhưng nhà hiền triết vẫn điềm nhiên rót tiếp. Nước tràn ra cả khay... Ông giáo sư nhìn nước tràn ra khay rồi nghĩ thầm trong lòng: thì ra con người mà thiên hạ tôn thờ như bậc thánh hiền chỉ là một con người lơ đễnh, bất chấp... Không còn đủ kiên nhẫn nữa, vị giáo sư mới nói lớn: "Thưa ngài tách trà đã đầy tràn, nước đang chảy lai láng ra bên ngoài cả khay kìa".
    Lúc bấy giờ nhà hiền triết mới dừng tay lại và nói: "Cũng giống như tách này, đầu óc của ông tràn đầy văn hóa, kiến thức, tư tưởng và những định kiến. Nếu ông không dốc cạn tách trà của ông, thì làm sao tôi có thể nói với ông về triết thuyết của tôi, bởi vì triết thuyết của tôi chỉ dành cho những con người đơn sơ và cởi mở".
    Có dốc cạn tâm hồn, có trở nên nghèo nàn, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy. Cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm cách lấp đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua ở đời này, thì đó cũng là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn. Trái lại, càng dốc cạn chính mình, càng trở nên nghèo nàn, con người càng được Thiên Chúa lấp đầy, con người càng tìm thấy bình an và hạnh phúc đích thực.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  43. Có 2 người cám ơn Rosa_Huong vì bài này:


  44. #23
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    25/08

    Tỉnh thức chờ Chúa



    Thứ Năm sau Chúa Nhật XXI Thường niên A


    Lời Chúa:
    Mt 24,42-51


    42"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. 45"Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? 46Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. 47Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 48Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: "Còn lâu chủ ta mới về", 49thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, 50chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, 51và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."



    Suy niệm:
    Các nhà chú giải thường đề nghị đọc và suy niệm những dụ ngôn của Chúa Giêsu về việc Chúa trở lại trong vinh quang trên hai bình diện: Kitô học và Giáo hội học. Trên bình diện Kitô học nhấn mạnh đến việc Chúa trở lại vào cuối lịch sử như một quan tòa xét xử mọi người. Trên bình diện Giáo hội học nhắc đến thời giờ của Giáo hội trong thời gian, từ khi Chúa lên trời cho đến lúc Ngài trở lại; trong thời gian này, mỗi kitô hữu phải tích cực chờ đợi và chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
    Hai dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.
    Thật không dễ dàng, mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Đó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo: “Thưa anh em, về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào".
    Sống chờ đợi Chúa lại đến gần không phải bằng thái độ thụ động, nhưng là bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô đã mô tả thái độ đó như sau: "Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bất chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ".
    Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.



    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhớ rằng: chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng của Chúa. Chúa cho chúng con tham dự vào sự sống trần thế để làm vinh danh Chúa. Chúa cho chúng con trông coi gia sản của Chúa để chúng con ban phát cho nhau những ơn lành đã lãnh nhận từ Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết chu toàn bổn phận Chúa đã trao. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức để chờ đón Chúa đến trong cuộc đời chúng con. Chúa đến không chỉ mỗi ngày trong Thánh Thể, nhưng còn nhiều lần trong ngày, qua dung mạo của tha nhân đang cần chúng con yêu thương, cảm thông và giúp đỡ. Có thể họ là những người thân trong gia đình mà chúng con đang phải có trách nhiệm yêu thương. Có thể họ là những người nghèo khổ, đói rách hay bệnh tật đang cần chúng con cảm thông, giúp đỡ. Xin cho chúng con đừng trốn tránh hay làm ngơ trước nhu cầu của tha nhân và mau mắn giúp đỡ với lòng bác ái vị tha.
    Lạy Chúa, xin dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa để chúng con ra đi gieo yêu thương vào lòng nhân thế hôm nay. Amen
    http://tgpsaigon.net/


    ____________________

    25 Tháng Tám
    Thánh Louis của Pháp
    (1226-1270)


    Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.


    Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Ðến lúc 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite ở Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Họ có đến 10 người con.
    Khi 30 tuổi, vua Louis "vác thập giá" cho đoàn thập tự chinh. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm.
    Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.
    Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.
    Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người -- tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.
    Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ở đất ngoại quốc khi 44 tuổi. Ngài được phong thánh vào 27 năm sau.
    Lời Bàn

    Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những "người bé mọn của Thiên Chúa." Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.


    Trích từ NguoiTinHuu.com



    ___________________________


    Giấc Mơ Của Một Thi Sĩ
    Thi sĩ Sully Prudhomme, người Pháp đã có lần tưởng tượng ra một giấc mơ như sau:
    Ông mơ thấy một nhà nông bảo ông hãy cầm cày lấy đất, trồng lấy lúa, gặt lấy thóc, làm lấy gạo mà ăn. Ông mơ thấy người thợ dệt bảo ông hãy đánh lấy chỉ, dệt lấy áo mà mặc. Ông mơ thấy người thợ nề bảo ông hòa lấy vữa, xây lấy nhà mà ở. Còn gì nữa? Ông đã thấy mọi người bỏ ông, xa lánh ông, để ông trơ trọi với cảnh vật. Ông kinh hãi. Ông kêu cầu, khẩn hứa nhưng chỉ thấy mãnh thú xuất hiện trên đường.
    Có lẽ không có bao nhiêu người đã mơ giấc mơ nói trên. Nhưng chắc chắn nhiều người chỉ nghĩ đến mình, tưởng rằng một mình có thể sống giữa vũ trụ, không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ.
    Không ai là một hòn đảo. Chúng ta đều bị ràng buộc với mọi người, chúng ta đổi công việc của chúng ta với công việc của người khác, chúng ta phụng sự người vì người đã phụng sự chúng ta.
    Nhưng chúng ta không chỉ sống trong tình liên đới về mặt vật chất. Con người còn liên đới nhau về mặt hạnh phúc và đau khổ. Không ai hạnh phúc một mình và không ai một mình có thể chịu nổi sự đau khổ. Nhờ người, ta mới vui và nhờ người, ta mới trút bớt những cơ cực của ta. Thế giới này quá nặng khiến một người có thể mang nổi và sự khổ cực của vũ trụ quá lớn cho một trái tim.
    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  45. Được cám ơn bởi:


  46. #24
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    26/08

    Tích cực sống đức tin


    Thứ Sáu sau Chúa Nhật XXI Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 25,1-13

    1"Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. 4Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. 5Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi! " 7Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! " 9Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." 10Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! " 12Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! " 13Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.



    Suy niệm:
    Đời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Đợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong một người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quý chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.
    Dụ ngôn muời trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.
    Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn chạy sáng. Đèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.
    Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được, mỗi kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.
    Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận và nói được như thánh nữ Têrêsa: Tất cả đều là Hồng ân. Vui buồn sướng khổ, giàu có hay nghèo hèn, đều là ân ban của Chúa. Vì giá trị cuộc đời không phải là những cái có vật chất hay những tình cảm mau qua, mà là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa ở bên và cùng đồng hành. Đó chính là món qùa qúy giá nhất mà chúng con cần phải trân trọng nâng niu. Sự hiện diện của Chúa, tựa như đá tảng vững chắc cho chúng con nương nhờ, như thành lũy chở che cho chúng con trong những đêm trường băng giá. Xin cho chúng con hôm nay, ngày từng ngày luôn biết chuẩn bị cho ngày mà Chúa sẽ mời gọi chúng con dự tiệc cưới nước trời.
    Xin giúp chúng con đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng con mới xứng đáng là môn đệ của Chúa. Môn đệ sẵn sàng cầm đèn sáng trong tay chờ Chúa đến. Amen

    http://tgpsaigon.net/


    _______________________


    Gia Ðình Là Nền Tảng Của Vũ Trụ

    Án Tử, người nước Tề, nổi tiếng là một người thanh liêm và thủy chung. Xuất thân từ một gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh buôn tảo bán tần để nuôi ăn học. Ðỗ đạt làm quan, Án Tử không bao giờ quên ơn ấy của vợ. Cuộc sống đầy cạm bẫy, ông vẫn một mực trung thành với vợ.
    Một hôm vua Cảnh Công đến thăm ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà đã già xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người đàn bà đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt. Ông đề nghị với Án Tử: "Ôi vợ khanh trông vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?".
    Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát, không chút do dự: "Nội tử của tôi nay thật già và xấu. Nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay, kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc còn trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi cũng như tôi đã từng nhận sự giúp đỡ của nội tử tôi. Nay, bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi phải mang tiếng là ăn ở bội bạc với nội tử của tôi".
    Nói xong Án Tử lạy hai lạy, xin từ chối không lấy con gái của nhà vua.
    Gia đình là nền tảng của xã hội. Con người chỉ có thể sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Trong cái nhìn Kitô, thì gia đình là một Giáo Hội nhỏ trong đó đức tin được thông ban và trưởng thành.
    Nền tảng để gia đình được đứng vững đó là Tình Yêu. Nhưng Tình Yêu không là một cái có sẵn, mà là một giá trị luôn đòi hỏi sự xây dựng và vun xới của con người... Một gia đình hạnh phúc hay không, tất cả đều tùy thuộc ở sự phấn đấu xây dựng từng ngày của con người.
    Hai cử chỉ dường như được gắn liền với nhau trong chuyến viếng thăm quê hương dạo tháng 5/1987 của Ðức Gioan Phaolii II, đó là: viếng mộ song thân và cử hành Thánh Lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng.
    Cây tốt thường sinh trái tốt: con người của Ðức Gioan Phaolô II là hoa trái Tình Yêu của cha mẹ ngài. Viếng mộ của song thân, Ðức Thánh Cha không những nói lên niềm tri ân của ngài đối với bậc sinh thành, nhưng ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân.
    Giữa đời thời đại mà đời sống hôn nhân và gia đình bị lay động đến tận gốc rễ, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên một tiếng kêu vô cùng thảm thiết: hãy trung thành với nhau.
    Trong Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình, qua đó các đôi vợ chồng hiện diện được mời gọi lập lại lời thề hứa trong hôn phối, Ðức Thánh Cha đã lập lại ý nghĩa và giá trị của Bí Tích Hôn Phối. Ngài nói như sau: "Khi quỳ gối trước bàn thờ trong ngày cưới, các đôi vợ chồng đã thề hứa với nhau cho đến cùng. Họ thề hứa với nhau như thế trước mặt Thiên Chúa. Lời cam kết này phản ánh chính lời hứa của Chúa Giêsu rằng Ngài yêu họ và yêu cho đến cùng".
    "Tôi hứa sẽ giữ trung thủy với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi".
    Khi tuyên hứa với nhau như thế, hai người đã lập lại chính cam kết của Chúa Giêsu, Ðấng đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
    Yêu cho đến cùng nghĩa là chấp nhận cái chết từng ngày. Tình yêu hôn nhân là một hạt giống: có được chôn vùi, có mục nát đi mới sinh hoa kết trái. Luật của đời sống hôn nhân chính là luật của hy sinh, của chiến đấu, của chính sự chết. Nhưng cũng chính khi con người biết chối bỏ chính mình bằng hy sinh, con người sẽ gặp lại chính mình trong người khác... Ðó là lẽ sống mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  47. Được cám ơn bởi:


  48. #25
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    27/08

    Trách nhiệm của các bậc cha mẹ


    Thứ Bảy sau Chúa Nhật XXI Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mt 25,14-30

    14"Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. 19Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. 20Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây." 21Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! " 22Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây." 23Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh! " 24Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy! " 26Ông chủ đáp: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! 28Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. 29Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng."


    Suy niệm:
    Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Đã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc, ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đây tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.
    Điều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ, điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con; bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.
    Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhở cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Định mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tấm lòng con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.
    Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: “Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.
    Một cách nào đó, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng đang sống vai trò làm cha mẹ đối với những người xung quanh ta. Với ơn thánh Chúa, chúng ta có thể sinh ra họ trong đức tin, trong lòng mến. Nuôi dưỡng họ bằng tinh thần lành mạnh và gương sống mẫu mực. Thế nên chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau thể hiện tốt vai trò của mình trước ơn Chúa.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con đức tin như là nén bạc ân phúc Chúa tặng ban. Chúa ban cho chúng con do lòng quảng đại của Chúa mà không do công đức của chúng con. Xin giúp chúng con biết chia sẻ ân phúc Chúa tặng ban cho anh chị em chúng con. Vì “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Xin dạy chúng con biết học nơi Mẹ Maria không chỉ ca ngợi ân phúc Chúa tặng ban mà còn dấn thân phục vụ trong tinh thần khiêm hạ như nữ tỳ của Thiên Chúa. Xin cho đôi chân chúng con cũng nhanh lẹ như Mẹ Maria, để đem niềm vui có Chúa ở cùng ra đi xây dựng tình người và thi thố lòng bác ái dấn thân.
    Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sinh lợi nén bạc Chúa trao bằng đời sống thuận hòa trong gia đình, trong cộng đoàn, qua đời sống yêu thương và phục vụ những người nghèo khó, tật nguyền, những người bất hạnh, yếu đuối bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con biết sống đúng vai trò và thể hiện hết trách nhiệm của mình đối với Chúa, với tha nhân, bắt đầu từ những người kề cận chúng con.Amen

    http://tgpsaigon.net/


    _________________________


    Ánh Sáng Cho Ðền Thờ

    Tại một khu phố cổ của Ấn Ðộ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không bao giờ được đốt lên thường xuyên. Dù vậy, từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, người ta thấy có treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu. Bình thường, ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng, cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn soi lối để đi qua các khu phố, họ cũng mang chính ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách kỳ lạ...
    Ngôi đền thờ chỉ sáng lên nhờ chính những ngọn đèn mà các tín hữu mang đến. Ðó có lẽ phải là hình ảnh đích thực của đời sống đạo chúng ta. Chúng ta lãnh nhận đức tin từ một cộng đồng Giáo Hội và đức tin của chúng ta chỉ có thể sống và lớn mạnh trong cộng đồng Giáo Hội mà thôi. Không ai có thể là người tín hữu Kitô mà có thể ở ngoài Giáo Hội.
    Cộng đồng giáo xứ nơi chúng ta được sinh ra và lớn lên trong đức tin thường được biẻu trưng bằng một ngôi thánh đường. Chính nơi đó người tín hữu Kitô gặp gỡ nhau, chính nơi đó, người tín hữu Kitô chia sẻ và củng cố đức tin cho nhau. Ngôi thánh đường sẽ chỉ là một đền thờ lạnh tanh và tăm tối nếu mỗi người tín hữu không mang đến chính ánh sáng của mình. Mỗi người một ít, nhưng chính nhờ sự đóng góp ấy mà ngôi đền thờ trở nên rực sáng và tràn đầy sức sống.
    Mỗi một người tín hữu Kitô trong cộng đồng Giáo Hội cũng giống như một ánh đèn chiếu sáng trong tay để làm cho ngôi thánh đường của cộng đồng giáo xứ được sáng lên.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  49. #26
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    29/08

    Can đảm làm chứng cho sự thật.


    Thứ Hai sau Chúa Nhật XXII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Mc 6,17-29

    17Số là vua Hêrôđê đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê, 18mà ông Gioan lại bảo: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài! " 19Bà Hêrôđia căm thù ông Gioan và muốn giết ông, nhưng không được. 20Thật vậy, vua Hêrôđê biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe. 21Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. 22Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." 23Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được." 24Cô gái đi ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì đây? " Mẹ cô nói: "Đầu Gioan Tẩy Giả." 25Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm." 26Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.27 Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, 28bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. 29Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.


    Suy niệm:
    Bài tường thuật của Máccô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu. Ta cần ghi nhớ 2 điều :
    - Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng
    ngôn sứ của mình.

    - Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.
    1. Ta hãy nhìn vua Hêrôđê : một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng không can đảm làm theo tiếng của lương tâm.
    2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân; khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cuộc sống loạn luân của mình nữa.
    Lời một Thánh vịnh : “Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm”. Nếu không nghe tiếng lương tâm mà chỉ để cho đam mê xấu lôi kéo thì người ta sẽ phạm hết tội này đến tội khác.
    3. Người ta đã giải thích lương tâm như sau : Đó là một khối ba góc ở trong tim ta. Khi ta làm gì tốt thì nó nằm yên. Khi ta làm gì xấu, nó quay và đâm các góc nhọn vào ta. Nếu ta cứ làm điều xấu, các góc nhọn của nó mòn dần và không làm ta cảm thấy gì nữa cả (Weapons and Workers).
    4. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.
    5. “Vua Hêrôđê sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philipphê, mà ông Gioan lại bảo : “Ngài không được phép lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6,17-18)
    Gioan đã chết chỉ vì nói lời sự thật. Một kết thúc bi tráng dành cho con người được gọi là cao trọng.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho con vẫn “thích nghe” tiếng lương tâm, cho dù phải “phân vân”, và nhất là phải can đảm làm theo sự hướng dẫn của lương tâm. Xin cho con ý thức những tài năng của con là những nén bạc Chúa giao để cho con xử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em con.
    Trong khi xã hội dạy cho con biết phải “khéo léo” chẳng nên làm chuyện thừa, Chúa lại dạy cho con một tấm gương mà nhìn vào con trở nên e ngại, gương của thánh Gioan Tẩy Giả. Con đang bước đi trong lòng một thế giới mà người ta bảo với con: “thật thà thường thua thiệt”. Có lúc ngay bên con, sự thật bị che lấp. Tận đáy lòng, con nghe tiếng Chúa mời gọi. Nhưng lạy Chúa:
    - Ông ấy là “xếp” của con mà !
    - Chị ấy là ân nhân của con.
    - Trách nhiệm của con với gia đình.
    - Áp lực xã hội…
    Con đấy, luôn tìm một sự bình an tạm bợ. Xin cho con chút can đảm, và khi con bước đi trong sự thật là lúc con nhận được sự bình an của Chúa vì sự thật sẽ giải thoát chúng con.


    http://tgpsaigon.net/


    __________________________


    Cái Chết Của Một Tiên Tri

    Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.
    Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.
    Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong xa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
    Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Ðấng Cứu Tinh sẽ đến.
    Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  50. Được cám ơn bởi:


  51. #27
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    30/08

    Lời nói và cuộc sống


    Thứ Ba sau Chúa Nhật XXII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Lc 4,31-37

    31Người xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát, Người giảng dạy dân chúng. 32Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền. 33Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: 34"Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! " 35Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! " Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau: "Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất! " 37Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.


    Suy niệm:
    Được bầu làm Bề trên cộng đoàn, một Tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
    Vị ẩn sĩ trả lời: Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
    Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, khi có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
    Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật, không có khoảng cách giữa lời Thiên Chúa và hành động của Ngài.
    Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin mừng của Ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: “Từ khởi thủy đã có lời và lời đã hóa thành nhục thể”. Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
    Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xảy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các luật sĩ đương thời.
    Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: ”Sự thật sẽ giải phóng các ngươi”
    Lời là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích của dối trá. Để lời tuyên xưng vào cuộc sống chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chúng ta coi cuộc sống có giá trị nhất.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa là thầy dạy có uy quyền. Lời Chúa nói có thể thay đổi vận mạng một đời người. Lời Chúa nói có thể làm cho ma quỷ khiếp sợ. Lời Chúa đã mang lại bình an và hoan lạc cho biết bao con người. Xin Chúa nhận chúng con làm học trò của Chúa. Xin dạy chúng con biết sống đúng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa. Xin thánh hoá môi miệng chúng con, để chúng con nói lời của Chúa. Xin cho lời chúng con nói luôn mang lại tình hiệp nhất, yêu thương. Xin loại trừ trong chúng con những lời thoá mạ anh em, những lời cay độc kết án anh em. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhường để chúng con sống và làm nhân chứng cho Chúa. Xin dẫn dắt chúng con đi theo chân lý vẹn tuyền. Xin đừng để chúng con lạc xa tình Chúa và tình anh em. Amen

    http://tgpsaigon.net/


    _____________________


    Ban Phát Không Ngừng

    Trong một câu chuyện ngắn, văn hào Tolstoi của Nga đã ghi lại mẩu đối thoại của 3 người khách bộ hành như sau:
    Mệt mỏi vì đường xa, ba người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối trong vắt. Trong những giây phút thoải mái bên cạnh dòng suối, mỗi người mới phát biểu về lợi ích của nó.
    Người thứ nhất lên tiếng: "Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, nhưng còn mời gọi chúng ta sống thành thật với nhau".
    Người bộ hành thứ hai góp ý: "Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi: Hỡi loài ngơừi, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được tốt đẹp hơn".
    Người bộ hành thứ ba, sau một phút trầm ngâm, mới thốt lên: "Những gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa mà tôi muốn chia sẻ cho các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào... Mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế".
    Sự sống đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho chúng ta sức sống của Ngài, Tình Yêu của Ngài, mà không đòi hỏi một điều kiện nào nơi chúng ta.
    Thiên Chúa chỉ muốn thông ban, Thiên Chúa chỉ muốn san sẻ và Ngài chờ đợi chúng ta cũng sống như thế. Nguồn suối đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó chúng ta được sống một cách tươi mát, luôn mời gọi chúng ta cũng hãy ban phát không ngừng.
    Thánh Thần là ân ban của Thiên Chúa... Người Kitô nhận lãnh Thánh Thần cũng hãy trở thành ân ban của Thiên Chúa cho người khác. Càng trao ban, càng phân phát, người Kitô càng tìm gặp lại chính mình.

    Trích sách Lẽ Sống
    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

  52. #28
    Rosa_Huong's Avatar

    Tuổi: 48
    Tham gia ngày: Nov 2008
    Tên Thánh: Maria
    Giới tính: Nữ
    Đến từ: Tp. Ho Chi Minh
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,457
    Cám ơn
    3,335
    Được cám ơn 3,964 lần trong 1,160 bài viết

    Default

    31/08

    Chữa trị bệnh tật


    Thứ Tư sau Chúa Nhật XXII Thường niên A

    Lời Chúa:
    Lc 4,38-44

    38Đức Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simôn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Simôn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.40Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa! " Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô. 42Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó." 44Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giuđê.



    Suy niệm:
    “Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa” đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin mừng hôm nay.
    Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca đã ghi: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài, Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ”. Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
    Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù, Ngài nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá. Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
    Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.

    Cầu nguyện:
    Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa tấm lòng quảng đại hy sinh để chúng con đem niềm vui đến chốn u sầu, đem ủi an đến chốn thất vọng. Xin loại trừ trong chúng con sự ích kỷ và tính hưởng thụ cá nhân, để chúng con biết sống vì lợi ích tha nhân.
    Lạy Chúa, xin cho thế giới chúng con sống có nhiều người quảng đại như Chúa để xoa dịu những thương đau cho nhân thế. Xin cho chúng con mỗi lần rước Chúa, chúng con cũng mang tình yêu và sức sống của Chúa hòa tan trong thế gian. Amen

    http://tgpsaigon.net/

    ____________________________


    Ốc Ðảo Hòa Bình


    Cách Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số người Do Thái và Ả Rập đã tình nguyện sống chung với nhau trong một ngôi làng mà người Do Thái gọi là Nevé Shalom, còn người Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả hai tiếng đều có nghĩa là "Ốc đảo hòa bình".

    Năm 1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa Bình này chỉ có một gia đình. Một năm sau, con số đó lên đến năm và hiện nay, có tất cả 15 gia đình vừa Do Thái vừa Ả Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân số của ngôi làng Hòa Bình này hiện nay là 70 người. Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung là minh chứng rằng người Do Thái và người Ả Rập có thể sống chung với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau.

    Người sáng lập ngôi làng này là cha Bruno Hussar, một linh mục công giáo năm nay 78 tuổi. Cha ngài là một người Pháp gốc Do Thái và mẹ ngài là một người Hungary cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do Thái khổ đạo. Năm lên 22 tuổi, ngài đã trở lại công giáo và xin tu trong viện Ðaminh. Cha Bruno Hussar tuyên bố với tất cả xác tín như sau: "Trong Kinh Thánh người ta đọc được lời này: Dân Ta sống trong một ốc đảo hòa bình. Cố gắng cảm thông là điều có thể làm cho những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần nhau, cũng như chính những người Kitô có thể đến gần với những người Hồi Giáo và vô thần".

    Ước vọng của các phụ huynh của 33 trẻ em sinh ra trong ngôi làng Hòa Bình này là thấy chúng được giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã cho xây một vườn trẻ chung, một trường mẫu giáo chung, một trường tiểu học chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả Rập đều có thể nói một lúc hai thứ tiếng. Một người cộng tác viên của cha Bruno cho biết như sau: "Ngay từ lúc nhỏ, các trẻ em đã có thể làm quen với hai nền văn hóa một lúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là các em sẽ đánh mất nền văn hóa của mình, trái lại càng ý thức về nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng người khác".

    Ðể bảo tồn văn hóa của mình, các gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này cũng xây nhà theo sở thích của họ. Nhưng những căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của họ. Tất cả đều chọn lựa sống một cuộc sống gần như tập thể: tuy trình độ khác nhau, nhưng tất cả mọi người đều đồng ý một mức lương giống nhau. Mỗi ngày, mọi dân cư trong ngôi làng này dùng điểm tâm và ăn trưa chung với nhau.

    Người phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng: "Ngồi đồng bàn để nói chuyện với nhau thay vì giữ những thành kiến riêng, điều đó giúp thay đổi thái độ rất nhiều".

    Cũng như trong tinh thần đó, từ 10 năm qua, 15 gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này đã tổ chức được rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Do Thái và Ả Rập. Người ta cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện chung, chung không những cho người Do Thái và Ả Rập, mà còn chung cho những người không tín ngưỡng nữa...

    Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối... Những người dân cư trong ngôi làng Hòa Bình trên đây, hẳn đã thấy được vết dầu loang của Hòa Bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi một cách vô ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.

    Tình yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là điều mà con người có thể xây dựng nếu con người biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết tôn trọng sự khác biệt của nhau...

    Trong phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của một xóm làng, liệu những người Kitô chúng ta có thể xây dựng được một ngôi làng Hòa Bình với nhau không?...

    Trích sách Lẽ Sống

    Chữ ký của Rosa_Huong
    ... Lạy Chúa Jesu con tín thác vào Chúa! ...

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com