|
22/11
Vết chân Ngài
Thứ Ba sau Chúa Nhật XXXIV Thường niên A
Lời Chúa:
Lc 21,5-11
5Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: 6"Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào." 7Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước? " 8Đức Giêsu đáp: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. 9Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". 10Rồi Người nói tiếp: "Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.
Suy niệm:
Ngay giữa thời đại văn minh vẫn nổi lên ở khắp nơi những tin đồn về ngày tận thế, đặc biệt mỗi nơi khi có nguy cơ chiến tranh cấp vùng: phải chăng nó phản ánh một cách đọc những đoạn kinh thánh hôm nay ? Chúng ta không chối bỏ những giá trị lịch sử khách quan của Lời mạc khải, nhưng lời mạc khải không nhằm dạy ta những chân lý khoa học và lịch sử theo nghĩa thông thường của nó, mà chỉ nhằm dạy được chân lý cứu độ. Vì thế chúng ta đừng để quá bị xúc động bởi những trường hợp lịch sử, nhưng hãy hết lòng chuyên tâm vào chân lý mạc khải.
Lời Chúa rõ ràng trình bày về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và quan tâm đến Nước ấy như là lời giải đáp cho mọi biến động của lịch sử nhân loại.
Nước Thiên Chúa xuất hiện ngay giữa lòng lịch sử, đó là chân lý đầu tiên mà cả bài tiên tri Daniel lẫn bài Tin Mừng muốn khẳng định. Người ta không thể chờ đợi một nước Thiên Chúa như là một biến cố ngoài lịch sử, ngoài cuộc sống. Chân lý này có cả một bằng chứng lớn lao và sống thực của mầu nhiệm nhập thể. Ngay giữa lòng một dân tộc, một mảnh đất, một thời đại một nước Thiên Chúa đã được khai sinh và phát triển. Chân lý này vẫn còn cần được rao giảng cho người thời đại hôm nay. Biết bao con người đã mang một thái độ vong thân khi đi tìm một nước Thiên Chúa ở bên ngoài dân tộc, đất nước và xã hội của mình.
Tuy nhiên, chính Daniel và rồi chính Đức Giêsu cũng quan tâm đến một thái độ sai lạc khác, khi Daniel nhấn mạnh với đức Vua rằng nước Thiên Chúa cho dù xuất hiện ngay giữa lòng lịch sử nhưng lại không phải do bàn tay con người làm ra, nhưng “chính Thiên Chúa trên trời sẽ khiến một nước dấy lên...”. Cũng như đức Giêsu đã nói tới bối cảnh lịch sử khách quan khi nước Thiên Chúa hoàn thành trong lịch sử, nhưng hoàn cảnh không phải là yếu tố cấu thành của “Nước Thiên Chúa”. Nước Thiên Chúa là tiếng nói chung cuộc của lịch sử, sẽ thay thế toàn vẹn lịch sử, nhưng sự thay thế ấy không thể hiểu như là một cuộc chiến tranh tàn phá và hủy diệt. Điều quan trọng mà Mạc khải muốn trình bày chính là lời Tin Mừng sau đây: “Chính ta đây, và thời gian đã gần đến”. Đấng đã tự xưng mình “Chính ta đây” ở đầu Mạc khải cho Môsê để khai mạc lịch sử, chính Người đã đi trong lịch sử tang thương của một kiếp người, của một dân tộc, của một nhân loại. Chính Người phải đến, phải xuất hiện như là một tiếng nói cuối cùng của lịch sử. Lịch sử không làm thành bởi bàn tay con người, nhưng là từng bước đi của Đấng luôn tự xưng mình “Chính là Ta”.
Bởi vậy thái độ của những kẻ tin, không phải là chạy theo những biến đổi của lịch sử khách quan, dù nó biến đổi theo một xu hướng như thế nào, nhưng họ luôn tỉnh thức tìm kiếm “vết chân Ngài”, Đấng đã nhiều lần trong chuỗi giòng lịch sử khẳng định “chính là ta”. Họ muốn đặt từng bước chân đời mình vào “vết chân Ngài”, Đấng đã bướcvào lịch sử và còn đang đi cho đến ngày cùng tận. Nhưng chuỗi ngày kinh hoàng của “Biển đỏ” ngày xưa khi bước chân Ngài đi qua giữa cảnh từng đoàn lớp hùng binh của Pharao gục ngã giữa lòng biển cũng không tha cho họ, họ phải lê bước 40 năm trong sa mạc khô cháy và đói khát. Quả thực Đấng tự xưng mình “Chính là Ta” đã đi trong những biến cố đó, nhưng không đồng hóa mình bất kể là biến cố nào. Ngài vẫn bước đi trong mầu nhiệm cứu độ của Ngài, và những kẻ tin luôn bị đòi hỏi phải tỉnh thức để tìm kiếm Ngài.
Bàn tiệc Thánh thể là mầu nhiệm của lịch sử bước chân Ngài: tất cả lịch sử dường như cô đọng lại nơi lời tuyên bố long trọng “này là Mình Ta... Này là Máu Ta...”, đó chẳng phải là lời của Đấng luôn tự xưng” chính là Ta” đó sao.
Những người tin hiểu rằng chính nơi bàn tiệc này mà tất cả lịch sử đã khởi đầu và hoàn thành và họ có mặt ở đó, bám trụ vào giây phút trọng đại ấy để tin chắc mình đang đứng vào đúng “Vết chân Ngài”. Họ sẽ phải làm cho thánh lễ xuất hiện trong giòng cuộc sống hôm nay, để thánh lễ là tiếng nói cuối cùng của cuộc sống ấy vậy.
Cầu nguyện:
Lạy chúa, chúng con thật hạnh phúc vì được chiêm ngưỡng biết bao kỳ công Chúa đã làm. Chúa còn cho chúng con vinh dự là hình ảnh của Chúa. Xin giúp chúng con biết khám phá ra tình thương của Chúa luôn đong đầy trong cuộc đời chúng con, để nhờ đó chúng con biết ca hát ngợi khen tình yêu Chúa.
Hôm nay Chúa nhìn đền thờ Giêrusalem nguy nga lộng lẫy, nhưng Chúa lại tiên đoán một ngày kia nó sẽ bị tàn phá. Vâng lạy Chúa, giữa những vẻ đẹp nhân tạo, giữa những vẻ đẹp của trần thế mau qua, Chúa muốn chúng con tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Đó chính là vẻ đẹp của tâm hồn thanh khiết không bợn nhơ tội lỗi, vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng luôn biết sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xin dạy chúng con biết lựa chọn những điều đúng ý Chúa.
http://tgpsaigon.net/
______________________
22 Tháng Mười Một
Thánh Cecilia
(Thế kỷ III)
Mặc dù Thánh Cecilia là vị tử đạo thời danh trong Giáo Hội Rôma, những câu chuyện quen thuộc về thánh nữ thì không thấy ghi chép trong văn bản chính thức. Vào thời tiên khởi cũng không thấy dấu vết của sự tôn kính ngài. Chỉ có một mảnh đá thời thế kỷ thứ tư có ghi khắc tên của một nhà thờ mang tên thánh nữ, và ngày lễ kính được cử hành vào khoảng năm 545.
Theo truyền thuyết, Cecilia là một thiếu nữ Kitô Giáo của giai cấp quyền quý kết hôn với một người La Mã tên là Valerian. Cecilia mặc áo nhặm, ăn chay, và thường cầu khẩn các thánh, các thiên thần, các trinh nữ xin họ gìn giữ sự trinh tiết của ngài. Và thánh nữ nói với đức lang quân, "Em sẽ tiết lộ cho anh một sự thật, nhưng anh phải hứa đừng nói với ai." Và khi ông hứa, ngài nói: "Có một thiên thần luôn trông chừng em, và gìn giữ em khỏi bị ai đụng chạm đến." Ông nói, "Em yêu dấu, nếu đó là sự thật, hãy cho anh thấy vị thiên thần ấy," và ngài trả lời, "Anh chỉ có thể thấy nếu anh tin vào Thiên Chúa, và được rửa tội."
Ngài gửi đức lang quân đến gặp Thánh Giáo Hoàng Urbanô để được rửa tội; và khi ông trở về nhà, ông thấy Cecilia đang cầu nguyện trong phòng, và cạnh đó là một thiên thần với đôi cánh rực lửa, tay cầm hai triều thiên bằng hoa hồng và hoa huệ đặt trên đầu của hai người, và biến đi. Sau đó, Tibertius, người em của Valerian, bước vào phòng và ông ngạc nhiên khi ngửi thấy mùi hoa nồng nàn cũng như vẻ mỹ miều của các bông hoa.
Khi ông này được kể cho biết các chi tiết của câu chuyện, ông cũng muốn được rửa tội. Sau đó, cả hai anh em ông tận tụy hy sinh chôn cất các vị tử đạo mà thời ấy xảy ra hàng ngày, dưới quyền tổng trấn Turcius Almachius. [Không có tổng trấn nào mang tên này cả]. Họ bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn, và khi họ từ chối thờ cúng các tà thần họ đã bị chém đầu.
Trong khi đó, Thánh Cecilia, qua lời rao giảng ngài đã đưa bốn trăm người trở lại đạo và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô rửa tội. Sau đó thánh nữ bị bắt, và bị xử tử bằng cách trấn nước cho đến chết. Ngài bị dìm trong bồn nước một ngày một đêm, sau đó quan cho nổi lửa đun sôi bồn nước, nhưng thánh nữ không hề hấn gì. Khi tổng trấn Almachius nghe biết điều này, ông sai người đến chặt đầu thánh nữ ngay trong bồn nước. Lý hình chém đến ba lần mà đầu thánh nữ vẫn chưa đứt. Hắn để mặc cho máu tuôn đổ. Ðám đông đổ xô đến để thấm máu trong khi ngài vẫn rao giảng cho họ. Ba ngày sau, ngài trút hơi thở cuối cùng, và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô và các phó tế chôn cất.
Vào thời Phục Hưng, người ta thường vẽ ngài với đàn vĩ cầm và phong cầm nhỏ.
Lời Bàn
Như bất cứ Kitô Hữu tốt lành nào khác, Thánh Cecilia dùng miệng lưỡi để ca ngợi Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Ngài tiêu biểu cho sự tin tưởng của Giáo Hội rằng thánh nhạc là một phần căn bản trong phụng vụ, có giá trị lớn lao hơn bất cứ nghệ thuật nào khác. Trong thời đại hỗn độn của âm nhạc ngày nay, có lẽ chúng ta cần đọc lại những lời của Công Ðồng Vatican II dưới đây.
Lời Trích
"Hành động phụng vụ thêm cao quý khi các nghi thức thánh được âm nhạc trang trọng hóa, với sự phụ giúp của các thừa tác viên chức thánh và sự tham dự của giáo đoàn... Phải luôn luôn khuyến khích các ca đoàn, nhưng các giám mục và cha sở phải để ý rằng, bất cứ lúc nào phụng vụ được cử hành với thánh nhạc, toàn thể giáo đoàn phải có thể góp phần tham dự cách tích cực vì đó là quyền lợi của họ... Bình ca phải có vị trí xứng đáng trong các nghi lễ, so với các loại nhạc khác. Nhưng điều đó không có nghĩa gạt bỏ các loại thánh nhạc khác, nhất là loại đa âm điệu... Thánh ca dành cho giáo dân phải khéo léo chọn lựa, để trong việc phụng tự và nghi lễ, họ có thể cùng góp tiếng hát" (Sắc Lệnh Về Phụng Vụ, 112-118).
Trích NguoiTinHuu.com
______________________
Nồi cháo tuyệt vời
Một hôm, có một người lạ mặt đến gõ cửa nhà của một bà góa nghèo để ăn xin. Nhưng người đàn bà cho biết trong nhà bà không còn gì để ăn cả. Người lạ mặt mới nói: “Bà đừng lo, tôi có mang theo một hòn đá có thể biến nước thành một thứ cháo tuyệt vời nhất trần gian. Nhưng trước tiên bà hãy cho tôi mượn một cái nồi lớn”.
Thấy người lạ mặt đề nghị một cách nghiêm chỉnh, cho nên người đàn bà mới cho nước vào cái nồi lớn nhất và đặt lên bếp. Khi nước vừa sôi, thì người đàn bà chạy đến các nhà láng giềng để mời sang chứng kiến điều lạ lùng sắp xảy ra. Trước đôi mắt mở to của mọi người, người khách lạ mới cho viên đá vào nồi, rồi dùng muỗng lấy nước đưa lên miệng nếm, ông vừa hít hà: “Thật là tuyệt diệu! Nhưng giá có thêm một ít khoai thì tốt hơn”. Nghe thế, một người đàn bà có mặt bèn sốt sắng đề nghị: “Trong bếp tôi còn một ít khoai”. Nói xong, bà đon đả chạy về mang khoai sang. Người khách lạ cho những miếng khoai tây được thái nhỏ vào trong nồi. Một lát sau, ông nếm thử và nói: “Tuyệt! Nhưng giá có thêm chút thịt thì chắc chắn phải ngon hơn”.
Nghe thế, một người đàn bà khác chạy về nhà mang thịt đến. Người lạ mặt cũng cho thịt vào nồi, đảo lên trộn xuống một hồi rồi nếm thử và nói: “Bây giờ thì quý vị có thể thưởng thức nồi cháo của tôi, nhưng nếu có thêm một chút rau cỏ cho vào thì là hoàn hảo”. Dĩ nhiên, ai cũng muốn nếm thử nồi cháo, cho nên ai cũng hăm hở đi tìm rau. Có người mang đến nguyên một giỏ củ cà rốt và hành. Người lạ mặt cho các thứ rau vào nồi rồi ra lệnh cho người đàn bà chủ nhà: “Bây giờ tôi cần một ít muối và tiêu nữa là có được nồi cháo ngon nhất trần gian”. Khi nồi cháo đã sẵn sàng, ông hối thúc mọi người đi tìm chén bát. Ai cũng hối hả chạy về nhà mang chén bát đến. Có người mang cả bánh mì và trái cây.
Mọi người vui vẻ ngồi vào một bàn tiệc bất ngờ. Trong khi mọi người nói cười rộn rã, thì người khách lạ lẻn đi. Ông vẫn để lại hòn đá mà mỗi khi cần đến, những người hàng xóm có thể sử dụng để cùng nấu chung với nhau một nồi cháo ngon nhất thế giới.
Một hòn đá, cộng với một ít thực liệu và gia vị sẽ tạo nên một nồi cháo ngon nhất trần gian: đó là hình ảnh của sự đóng góp vào phép lạ mà Thiên Chúa không ngừng thực thi cho con người.
Bà góa thành Sarepta đã dâng cúng một ít bột mì cho tiên tri Êlia để từ đó được lương thực hằng ngày trong suốt mùa hạn hán. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhân bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé…
Với một chút đóng góp từ lòng quảng đại của con người, Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cả thể. Tất cả những công trình bác ái và giáo dục trong Giáo hội đều bắt đầu một cách khiêm tốn: Chúng ta hãy nhìn vào công trình của Mẹ Têrêxa thành Calcutta, của cha Pierre, sáng lập cộng đồng Emmaus, của cha Van Straatten, sáng lập Hội trợ giúp các Giáo hội đau khổ: một căn nhà nhỏ, một miếng thịt mỡ, một công việc vô danh… Phép lạ của Thiên Chúa thường bắt đầu bằng những đóng góp nhỏ và âm thầm của con người.
Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta cơ may để đón nhận phép lạ của Ngài. Ngài chỉ cần một chút lòng quảng đại của chúng ta. Nếu chúng ta sẵn sàng dâng tặng cho Ngài một chút những gì chúng ta có thì có biết bao nhiêu người chung quanh sẽ được chung hưởng phép lạ của Thiên Chúa.
|
|