Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 39 trên 39

Chủ đề: SUY NIỆM LỜI CHÚA THÁNG 12/2011

Threaded View

  1. #20
    repentir's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2011
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 32
    Cám ơn
    83
    Được cám ơn 52 lần trong 23 bài viết

    Default Các nhà chiêm tinh đến bái lậy Hài Nhi Giêsu

    Các nhà chiêm tinh đến bái lậy Hài Nhi Giêsu
    Lm PX Vũ Phan Long

    Phúc Ám Mátthêu 2, 1-12 – Hiển Linh

    1.- Ngữ cảnh

    Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?

    Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.

    2.- Bố cục

    Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một câu Mở và một câu Kết:

    1) Mở (c. 1): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh.
    2) Phần 1 (cc. 2-8): Tại đền vua Hêrôđê. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
    3) Phần 2 (cc. 9-11): Tại nhà của Hài Nhi. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
    4) Kết (c. 12): Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương.

    3.- Vài điểm chú giải

    - Bêlem (Bêthlehem) (1), có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.

    - Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tr CG). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa hy-lạp, nên ông bị người Do-thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.

    - Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy-lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tr CG), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tr CG), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các ki-tô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 sau CG), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ VI (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tr CG.

    - mấy nhà chiêm tinh (hl magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do-thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do-thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (tk V), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (tk 8). Sang tk XIV, ông Gaspar được coi là một người da đen...

    - chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do- thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.

    - xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.

    - chúng tôi đến bái lạy (hl proskyneô): Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là thái độ con người tùng phục Thiên Chúa.

    - Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do-thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do-thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).

    - Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy-lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!

    - mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).

    - Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.

    - hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).

    - lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.

    4.- Ý nghĩa của bản văn

    * Tại đền vua Hêrôđê (1-8)

    Có thể nói chương 2 của Tin Mừng Mt mở ra một cuộc “tìm kiếm” xuất xứ của Đấng Mêsia. Câu hỏi của các nhà chiêm tinh: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh ra, hiện ở đâu?” (c. 2) chính là đề tài của toàn thể bản văn. Điều đang lưu ý là cuộc tìm kiếm này lại được thực hiện bởi những người ngoại quốc, còn xa ơn cứu độ, nhưng chẳng bao lâu họ sẽ thế chỗ cho Dân Thiên Chúa tuyển chọn. Sự kiện họ có mặt ngay từ câu đầu tiên đã tiên báo sự đảo lộn xảy ra vào cuối bản văn (c. 11).

    Cac nhân vật chính: trước tiên, đó là “Đức Giêsu” (x. 1,21.23), “vua dân Do-thái”, cho dù còn đang được bọc tã. Ở 1,18, tác giả đả kể lại việc Người chào đời, nay chỉ nhắc lại là Người “đã ra đời”. Người xuất hiện một mình, nhưng sau này tác giả nói rằng bên cạnh Hài Nhi có bà Maria là thân mẫu Người. Trước mặt Người, nhưng ngự tại Giêrusalem, là Hêrôđê Đại Đế, gương mặt gian ác nhất mà tác giả có thể nhắc lại từ lịch sử Do-thái thời ngài. Giữa hai dung mạo này, có những dung mạo phụ: bên Đức Giêsu, đó là các nhà chiêm tinh; phía Hêrôđê, đó là các thượng tế và kinh sư.

    Các nhà chiêm tinh được loan báo nhưng không được giới thiệu. Các vị cũng sẽ không xuất hiện nữa trong Tin Mừng. Rất có thể đây là những vật nổi tiếng trong thời Thượng Cổ: là các nhà chiêm tinh hoặc các nhà thông thái đến từ phương Đông. Các nhà chú giải đã tìm các xác định căn cước của các vị này, nhưng rất có thể là vô ích. Các vị ấy chỉ là những hình ảnh biểu tượng của thế giới ngoại giáo. Các vị này đã được thúc đẩy (và “dẫn đường”: c. 9) bởi một ngôi sao lạ, được giải thích như là dấu chỉ loan báo “vua người Do-thái” chào đời, mà danh xưng này là danh xưng của Đấng Mêsia. Một “ngôi sao” xuất hiện với cuộc chào đời và hành trình vào đời của mỗi con người, nhất là của những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử, thì không thể thiếu được trong cuộc đời của Đấng Mêsia. Rất có thể tác giả đã lấy hình ảnh ngôi sao từ Ds 24,17, nhưng cũng có thể ngài nghĩ đến đám mây sáng dẫn đường cho dân Do-thái đi trong sa mạc (x. Xh 13,21; 33,9). Lời tuyên xưng của các nhà chiêm tinh, “chúng tôi đến bái lạy Người”, rõ ràng có một tầm mức châm biếm và biện giáo chứ không chỉ là mục vụ. Sự “khôn ngoan” ngoại giáo mà người Do-thái vẫn khinh bỉ và loại trừ cũng có khả năng dẫn đưa người ta đến với Đức Kitô. Tác giả không mô tả tâm trạng của các nhà chiêm tinh, mà chỉ nêu bật sự mau mắn và can đảm của các vị ấy ngược lại với sự lãnh đạm của dân Do-thái; tuy nhiên ngài lại phác vẽ cho thấy phản ứng của vua Hêrôđê và của dân thành Giêrusalem (“bối rối”, “xôn xao”: c. 3). Ghi chú này khiến có thể nghĩ rằng tác giả đang gợi lại các hoàn cảnh thuộc quá khứ trong lịch sử cứu độ và hơn nữa đang nghĩ đến các biến cố tương lai trong truyện Đức Kitô (Thương Khó). Hêrôđê mang những đường nét của các kẻ bách hại dân Thiên Chúa, nhưng chính ông cũng không thực hiện được các kế hoạch của ông. Thật ra, ghi nhận này là để nâng đỡ tinh thần cho các Kitô hữu đang sống trong hoàn cảnh bị áp bức. Riêng sự khôn ngoan Đông phương đã tìm được sự trợ giúp trong lời “ngôn sứ” Do-thái để đi đến tận nơi Đức Kitô đang ở (cc. 4.9). Quang cảnh ở đền vua Hêrôđê như báo trước cảnh ở dinh tổng trấn Philatô (x. Mt 27,11-14). Nhưng ngay ở đó, họ cũng không yên tâm về các biện pháp họ lấy.

    Khi tra cứu Kinh Thánh, giới lãnh đạo Do-thái giáo đã khám phá ra rằng Đấng Mêsia có xuất xứ là Bêlem. Thật ra tác giả đã ép bản văn Mk 5,1 để đi đến chỗ đồng hóa “Bêlem miền Giuđa” với “miền Giuđê” (c. 1) và bổ túc bằng một lời trích lấy từ 2 Sm 5,2 nói về vị thủ lãnh “sẽ chăn dắt Israel dân Ta”. Đây là kiểu chú giải quyen thuộc thời ấy. Kinh Thánh không nói rằng Đấng Mêsia xuất thân từ Bêlem, nhưng nếu Người là “con cháu Đavít” (Mt 1,1.20), thí cũng có thể kết luận rằng, giống nhu vị vua oai phong ấy, Người cũng là một người Bêlem. Việc chào đời trong một ngôi làng của miền Giuđê không chỉ là một sự kiện lịch sử, vì thật ra chỉ là phụ thuộc, mà là một dữ kiện thần học. Xuất xứ này xác nhận rằng Đức Giêsu là con cháu vua Đavít và là Đấng Mêsia. Tính cách biện giáo của bản văn thật rõ: những người ngoại giáo đã biết lên đường đi tìm Đức Kitô và một ông vua gian ác và ngoại quốc (Iđumê) biết làm trung gian cho tin vui, trong khi dân Giêrusalem chẳng những đã không đến với Người, mà còn chống lại Người.

    Không bao giờ là một liên minh của Đấng Mêsia, vua Hêrôđê đã lên kế hoạch để loại trừ Người. Kế hoạch của ông đi ngược lại với chương trình của Thiên Chúa. Ông là “vua” trần thế, ông sợ các đối thủ. Sự quan tâm ông bày tỏ với các nhà chiêm tinh chỉ là mánh lới, mưu mô (cc. 7-8).

    * Tại nhà của Hài Nhi (9-11)

    Chuyến đi của các nhà chiêm tinh đã phải dừng lại, bây giờ lại được tiếp tục (c. 9). Các vị không phải là khách du lịch, nhưng là những khách hành hương được hướng dẫn bởi lời và ánh sáng của Thiên Chúa. Đến đây tác giả mới cho thấy tâm trạng của các vị này (“mừng rỡ vô cùng”: c. 10). Một cách gián tiếp, tác giả cho hiểu rằng trước đây, các vị tiến đi trong sự khắc khoải âu lo. Hành trình đức tin không bao giờ thoải mái. Chuyến đi hành hương cuối cùng đã đưa những người ngoại đến tận nơi ở của Đấng Mêsia (c. 11).

    Các nhà chiêm tinh được tiếp đón “vào nhà”, chứ không phải là vào đến vua. Và các vị thấy một hài nhi với bà mẹ. Các vị không tỏ ra chán nản thất vọng. Dân Do-thái không chấp nhận Đức Kitô do Người sinh ra trong hoàn cảnh thấp hèn (Mt 13,55-58); là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, các nhà chiêm tinh đã phủ phục trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh nhỏ bé yếu ớt. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy. Các lễ vật cho thấy các lời sấm của các ngôn sứ đã nên hiện thực và cho thấy Đấng Mêsia được nhận biết; đây là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.

    * Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương (12)

    Đã chân thành lên đường theo tiếng gọi của sự khôn ngoan của mình, các hiền sĩ đã chân thành lên đường tiếp tục hành trình theo lời chỉ vẽ của Lời Chúa và của ngôi sao. Chính sự chân thành tìm kiếm chân lý này đã giúp các ngài gặp được chân lý và được chân lý gìn giữ bình an. Các ngài đã được báo mộng nên “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Câu này còn có nghĩa là khi gặp được Đấng Mêsia rồi, các vị phải xác định đường lối mới phải theo trong đời mình.

    + Kết luận

    Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong hoàn cảnh chính trị xã hội. Người không đến để tranh dành quyền lực với bất cứ lực lượng nào, vì Người là nguồn ban mọi quyền lực cho loài người. Nhưng sự hiện diện của Người vẫn đặt lại vấn đề về tính hợp pháp và về cách hành xử các quyền lực trong thế giới hôm nay.

    Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

    5.- Gợi ý suy niệm

    1. Các hiền sĩ và giới lãnh đạo Israel

    Cuộc tiến bước trong hân hoan của cúac nhà chiêm tinh tiến về máng cỏ không ngăn cản tác giả nhận ra rằng có một cuộc tiến bước theo chiều ngược lại của quốc gia Israel, tượng trưng bằng các thủ lãnh đạo đời, khi nghe loan báo về cuộc chào đời của Đấng Cứu thế. Các nhà chiêm tinh hết sức mừng rỡ, dân thành Giêrusalem lại xôn xao lo sợ. Người Do-thái có thể nghiên cứu Sách Thánh để khám phá ra nơi vị ngôn sứ đã báo trước rằng vị thủ lãnh Thiên Sai sẽ chào đời, nhưng họ không bước một bước nào để đến gặp Người, ít ra để bước theo các người thờ lạy ngoại quốc kia. Cuộc quy tụ của họ với vua Hêrôđê trong đền vua dường như là một nội các chiến tranh hơn là một cuộc hội họp bình thản để tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa.

    2. Hình ảnh của Hội Thánh

    Sự sa sút của dân Do-thái tưởng chừng có thể làm hỏng tương lai của ơn cứu độ, nhưng hiện tượng dân ngoại tuốn đến lại làm bừng lên các niềm hy vọng vào Hội Thánh phôi thai. Các nhà chiêm tinh vây quanh Đức Maria và Đức Giêsu là một bản phác thảo lý tưởng về Hội Thánh gồm những người ngoại nay làm thành các cộng đoàn Kitô hữu. Sự hiện diện của Đức Giêsu vẫn mang một dáng vẻ giới hạn và nghèo nàn, dù Người đúng là Đấng Phục Sinh, là Chúa Tể muôn loài muôn vật. Mẹ Người cũng hiện diện ở đó để làm chứng về điều này. Tuy nhiên, chấp nhận được Người là Đấng Mêsia, là Đấng Phục Sinh, là một vấn đề của lòng tin chứ không phải là chuyện chứng minh bằng toán học hay bằng lý luận theo kiểu tam đoạn luận. Ở trong Hội Thánh, mỗi người, mỗi nhóm, tùy nghi dùng những gì cao quý nhất mình có (của cải và sự khôn ngoan) để bày tỏ lòng tin và sự tùng phục của mình.

    3. Những người ở gần và những người ở xa

    Truyện này cho thấy rằng những người ở xa thì lại đến gần được với ơn cứu độ, với Thiên Chúa, còn những người ở gần thì lại đi xa dần, để rồi cuối cùng chuồi vào bóng tối. Vấn đề không phải là khoảng cách về không gian hay về thời gian, bởi vì tình yêu toàn năng của Thiên Chúa vượt thắng tất cả mọi trở ngại về không gian cũng như về thời gian. Vấn đề là lòng tin của con người. Con người cần phải thấy rằng mình không đủ cho chính mình, mình không phải là nguồn mạch của chính mình, để tìm mọi cách đi ra khỏi mình như là trung tâm, nhận lấy trung tâm mới là Đấng Cứu thế, làThiên Chúa, để có thể thoát khỏi mọi căng thẳng, xung đột, mâu thuẫn do thân phận thụ tạo giới hạn, và hiểu được hướng phải theo mà tìm ra ý nghĩa cho đời mình.!
    thay đổi nội dung bởi: repentir, 20-12-2011 lúc 11:50 AM
    Chữ ký của repentir
    HÃY BIẾT CẢM TẠ CHA TRONG MỌI HOÀN CẢNH - NGAY CẢ KHI BẠN ĐI TRONG TĂM TỐI - HÃY VỮNG TIN NƠI NGÀI!

  2. Được cám ơn bởi:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com