|
(Tiếp..)
* Thiên Chúa tự do
Có nhiều chiều kích và góc độ để nhìn sự tự do cũng như các tương quan tự do. Trong đó, người viết thấy có một đối tượng rất đáng lưu ý khi xem xét vấn đề này. Ðó là: sự tự do của Thiên Chúa. Xin được đưa ra suy tư của mình: Thiên Chúa tự do trong việc liên luỵ với con người. Ðây có lẽ là điểm rất đặc biệt trong Kitô Giáo, theo người viết, mà các tôn giáo khác không đạt tới được. Có thể nói, Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đã liên luỵ quá nhiều với phận người, liên luỵ đến mức phi lý, đến mức điên rồ đối với đầu óc con người. Cách thể hiện tự do như thế độc đáo quá, khủng khiếp quá. Thiên Chúa đã tỏ ra mình thật sự tự do khi tôn trọng tự do của con người một cách tuyệt đối.
Ðây là vấn đề lớn nên xin được triển khai thêm sau này.
a. Tự do của Thiên Chúa trong việc liên luỵ với con người
Có một cách biểu hiện tự do đích thực được Thiên Chúa thể hiện hết sức độc đáo trong lịch sử là: tự do tôn trọng tự do của con người và tự do liên luỵ với con người đến cùng. Sở dĩ như vậy, theo tôi, là vì Người có Sự Tự Do và Tấm Lòng của một vị Thiên Chúa.
Thử ví nhân loại này như một người sắp chết đuối đang quay cuồng, vùng vẫy trong dòng nước chảy xiết; và ví các tôn giáo, các triết thuyết, các hệ thống chính trị, tư tưởng, … như những nhân vật nỗ lực cứu vớt nhân loại. Tôi thấy có nhân vật đứng trên bờ hét to: hãy cố gắng bơi đi, bơi về phía bờ ấy; có nhân vật quẳng xuống một sợi dây, nói lớn: hãy bám vào thì tôi sẽ kéo anh lên,… Còn Thiên Chúa thì hô lên: “Có Ta đây, đừng sợ !” rồi nhảy tùm xuống nước, ôm lấy người ấy, cùng với người ấy bơi vào bờ.
Từ khởi đầu lịch sử, Thiên Chúa đã vào cuộc với con người. Trải dài suốt hành trình từ Adam đến Abraham, Issaac, Jacob,… cho mãi đến sau này, có lẽ không nơi nào thiếu vắng hình bóng của một Thiên Chúa đang liên luỵ với con người. Thiên Chúa dạo chơi hàn huyên với họ trong Eden. Khi họ bất trung với Người, Thiên Chúa đã tìm đến để giao hoà và trao ban lời hứa cứu độ. Rồi Người chọn Abraham, xây dựng dòng dõi của ông, chăm sóc một dân tộc, kiên nhẫn chịu đựng sự phản nghịch của những kẻ “ăn cháo đá bát” không biết bao nhiêu lần. Cuối cùng, sau bao liên luỵ thăng trầm của Thiên Chuá, người ta mới nhận ra Người không chỉ là Thiên Chuá của trời cao, của vũ trụ bao la nhưng nhất là “Thiên Chúa của Abraham, của Issaac, của Jacob…”, một Thiên Chúa “bồng ẵm họ trên tay, nâng niu trên đầu gối” dù họ đã trách móc, lộng ngôn, quay lưng, phản bội. Hơn nữa, chắc chắn Thiên Chúa ấy không chỉ chăm lo cho một mình Israel mà còn tất cả các dân tộc khác trên hành tinh này và có lẽ Người cũng liên luỵ với họ không kém gì với Israel. Lịch sử các dân chẳng phải là một minh chứng về điều ấy sao?
Tại sao Thiên Chúa không chọn một cách thức khác để đến với con người? Tôi rất tâm đắc câu khẳng định của Thánh Iraneus: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” (Gloria Dei, vivens homo). Thiên Chúa lấy việc con người được sống làm trọng hơn cả, như Ðức Giêsu xác nhận: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”(Ga 3,16). Ðó là cách thể hiện của một tấm lòng đầy tràn tự do. Ðỉnh cao của tấm lòng ấy thể hiện trọn vẹn nơi Cuộc Nhập Thể và Thánh Giá của Ngôi Hai Thiên Chúa. Thiên Chúa phải thật sự tự do thì mới có thể tôn trọng tự do của con người đến như vậy.
b. Tự do đích thực là liên luỵ đến cùng: Nhập thể và Thập Giá – một Tấm Lòng
Thiên Chúa chúng ta không đứng trên cao để phán, để ra lệnh nhưng nhảy xuống cùng đi với con người, nói đúng hơn là dìu con người bước đi, là cõng con người trên lưng, là bồng ẵm con người. Vì thế mà Ngôi Hai đã đi vào lịch sử loài người, chung chia kiếp sống nhân loại, bỏ lại đàng sau tất cả vinh quang của Ðấng Tạo Hoá: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8). Giêsu không dừng lại nơi một thân phận bình thường, Người “mặc lấy thân nô lệ” của chính con người vì yêu thương họ. Không có gì có thể cản trở tình yêu ấy được thể hiện, ngay cả cái chết đau đớn tủi nhục nhất của một tên tử tội bị lột sạch tất cả phẩm giá trên thập tự. Ðức Giêsu, Ngôi Lời, chắc chắn có đủ quyền năng để thay đổi tất cả cục diện lịch sử trong chớp mắt, không ai có quyền trên mạng sống của Người vì “Mạng sống tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh.”(Ga 10,18). Ðó là sự tự hiến của một tấm lòng và tấm lòng ấy chính là biểu hiện của tự do. Thiên Chúa, qua Con của mình, đã bộc lộ thứ tự do của một vị Thiên Chúa. Tự do ấy tự do đến nỗi sẵn sàng chấp nhận ‘mặc lấy thân nô lệ’, trở thành nô lệ cho con người để con người trở nên tự do như Chúa.
Trong hàng ngàn cây thập giá đã được dựng lên, chỉ có một cây đã giương cao vì tình yêu, và chính tình yêu đã làm cho nó trở nên thánh, nên biểu tượng của dấn thân đến cùng, của tự do bằng liên luỵ. Thập giá tội ác đã được biến đổi thành Thánh Giá tình yêu khi Thiên Chúa thể hiện tự do của mình.
Có người nhận xét: Thiên Chúa là Ðấng vẽ quỹ đạo cho muôn tinh tú, thế mà khi đi vào đời này Thiên Chúa đã để cho người ta cầm tay dắt đi. Ðâu là lý do của việc Thiên Chúa tự nguyện trở nên bất lực trong việc liên luỵ với con người nếu đó không phải là vì tấm lòng Thiên Chúa dành cho họ quá lớn? Nếu đó không phải là vì tự do Thiên Chúa quá tuyệt vời? “Ðức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;… Tội lỗi của chúng ta chính Ngừơi đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2:21-24; Is 53, 5). Một lần nữa, Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa được nhận ra và tôn thờ sau khi đã làm và hi sinh tất cả cho con người, ngay cả chấp nhận cái chết nhục nhã nhất: “Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Ðức Giêsu là Chúa’” (Pl 2,10-11).
2.2. Trong đau khổ của con người, Ngài ở đâu?
Như đã trình bày, Thiên Chúa toàn năng nhưng không dùng quyền năng ấy vào việc đánh gục những kẻ dữ hay miễn trừ người lành khỏi tai ương. Ðúng hơn, quyền năng Thiên Chúa hoạt động theo cung cách liên lỷ giúp con người nói chung rút tỉa ra những lợi ích tinh thần từ những con người hoặc hoàn cảnh không may lành.
Chỉ cần nhìn sơ qua các trang nhật báo cũng đủ thấy các số liệu về đau khổ không phải là ít. Ví dụ nửa năn đầu năm 2004 (thông tin từ báo Tuổi Trẻ), người ta đã phải chịu dịch cúm gà mấy tháng liền, tháng 5 vừa qua hơn 1.950 người bi thiệt mạng tại CH Dominica và Haiti trong trận lụt, ít nhất 10 người chết và 27 người bị thương trong vụ nổ khí đốt tại thành phố Samara nước Nga ngày 4/6, mới hôm qua ngày 9/6 cây dừa đổ xuống làm chết bé Thiện và bị thương người mẹ,… Những tai nạn này không thể là hành động của Thiên Chúa nhưng là vận động của thiên nhiên hay do sự bất cẩn của con người. Hành động của Thiên Chúa không phải là tai hoạ nhưng là chính sự can đảm thúc đẩy con người dám đứng lên xây dựng lại từ đổ vỡ và chính là tinh thần biết chia sẻ của những tấm lòng nhân ái. Ðau khổ vẫn xảy ra hằng ngày trên thế giới nhưng không thể đè bẹp lòng dũng cảm vượt thắng nghịch cảnh và những vòng tay liên đới tình người. Giữa màn đêm sự dữ, Thiên Chúa hiện diện như là ánh sáng xuyên qua bóng tối để giúp con người vươn cao mãi.
Càng đi sâu vào các biến cố sự dữ và đau khổ sẽ càng thấy lòng kiên nhẫn chịu đựng và sự khó xử của Thiên Chúa. Người là Cha của nhân loại, hằng mong muốn con cái mình sống yêu thương nhau như người đã yêu thương họ trước (Ga 13, 14-15; 34-35). Vậy mà nhìn kìa: đứa thì cầm dao, đứa thì cầm súng sẵn sàng giết nhau. Chúng ganh ghét, đố kị, hận thù, loại trừ nhau, thậm chí còn muốn lôi cả Người vào phe mình để hãm hại nhau nữa. Ắt hẳn nhân loại sẽ không bao giờ quên ngày 11/9/2001 tại New York, trên 3000 người đã chết ‘bất đắc kỳ tử’ oan ức, tức tưới, không toàn thây. Thiên Chúa không thể là người gây ra khủng bố, không thể dùng khủng bố như phương tiện để ‘thi hành công lý’ hay ‘trừng phạt tội lỗi nước Mỹ’ như có kẻ đã rêu rao. Sự dữ do việc sử dụng tự do một cách sai lầm của con người đã xảy ra và Thiên Chúa lại phải hành động để khắc phục hậu quả không do mình tạo ra. Cũng may người ta còn kịp nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự dũng cảm, hy sinh của hàng trăm lính cứu hoả, những người đã không ngại hiểm nguy lao vào đám cháy hỗn loạn. Nhiều người trong số họ vĩnh viễn không còn thấy mặt người thân nữa. Tôi nhớ không khí nước Mỹ cả năm trời sau đó còn chìm sâu trong tang tóc. Có một điều lạ là nhà thờ giáo xứ xưa nay vốn thưa thớt mấy ông bà già bỗng trở nên chật cứng. Người ta càng đau buồn vì mất mát thì càng cảm phục và trân trọng những người đã dám xả thân hy sinh cho người khác. Người ta càng phẫn uất lên án sự dữ thì đồng thời cũng rưng rưng nước mắt cảm ơn trời cao đã dấn thân cứu chữa. Thiên Chúa không gây nên sự dữ nhưng khi nó xảy ra vì bất cứ lý do gì thì Thiên Chúa là người đầu tiên vào cuộc để cứu giúp con người.
Có một bảo chứng và niềm an ủi rất quan trọng đối với tất cả những ai đang mang gánh nặng nề khổ đau trên đường đời. Ðó là: Ðức Giêsu đứng về phía họ. Người ra tay chống lại sự dữ: cứu chữa bệnh nhân, xua trừ tà thần, tha thứ tội lỗi, phục sinh kẻ chết,… đặc biệt là cuộc tử nạn – phục sinh của Ðức Giêsu đã mở ra bầu trời hy vọng cho nhân loại đang quằn quại dưới gót giày sự dữ. Hơn hết, Ðức Giêsu trong tư cách là Thiên Chúa đã làm điều ấy khi đồng hoá mình với những con người đau khổ bị bỏ rơi, thấp cổ bé họng, cô thân cô thế, nạn nhân của bất công, bạo lực, thiên tai, … qua khẳng định “Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)
Câu chuyện sau đây của E. Wiesel góp phần minh hoạ.
“(Ở trong trại tập trung của Ðức quốc xã lúc ấy có) một cậu bé, người ta thường gọi tên cậu là thằng bé Hạt Tiêu… Một ngày nọ trên đường đi làm về, chúng tôi thấy ba cái cột được dựng đứng ở giữa quảng trường xử án, ba bóng ma. Còi lệnh vang lên. Bọn SS, lăm lăm chĩa những khẩu súng tiểu liên, đứng quanh chúng tôi: nghi lễ truyền thống. Ba kẻ bị kết án, tay bị trói, trong đó có thằng bé Hạt Tiêu. Tên chỉ huy đọc bản án. Mọi con mắt đổ dồn về cậu bé. Mặt nó nhợt nhạt, bình tĩnh, bậm môi lại. Bóng của cây cột phủ lấy thân hình nó… rồi ba người cùng bước lên ghế. Ba cái cổ cùng lúc bị đưa vào những giây thòng lọng…
“Trời ơi, Chúa nhân lành ở đâu?” Một kẻ nào đó đàng sau tôi thốt lên.
Tên chỉ huy vừa ra dấu, ba cái ghế liền đổ xuống… Hai người lớn tuổi đã chết… Nhưng sợi dây thứ ba vẫn còn động đậy: thằng bé chưa chết, vì nó nhẹ quá. Trong hơn nửa giờ đồng hồ, chúng tôi chứng kiến nó hấp hối, vật lộn giữa sống và chết. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh ấy ngay trước mắt mình. Ðàng sau lưng tôi, cũng giọng nói của người đàn ông ấy:
“Chúa đâu rồi?”
Tôi nghe một giọng nói bên trong tôi trả lời:
“Chúa ở đâu ư? Người ở đây này: Người bị treo kia kìa, trên cái cột ấy”.
Ðúc kết
Các trường hợp xảy ra sự dữ vật lý (hiện sinh) như bệnh tật, thiên tai, cái chết tự nhiên,…, cho thấy Thiên Chúa tôn trọng và duy trì những gì Người đã tự do sáng tạo và thiết lập. Ðau khổ phát sinh từ đó là do thân phận bất toàn của thụ tạo (trong mối liên hệ với lợi ích của con người). Các trường hợp xảy ra sự dữ luân lý (tinh thần) như hận thù, chia rẽ, chiến tranh,… cho thấy Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Người đã dựng nên họ có tự do và tôn trọng tự do ấy đến cùng.. Trong cả hai trường hợp, có thể rút ra một kết luận, ít là cho những ai tin, rằng: Thiên Chúa liên đới với con người cả trong đau khổ lẫn cuộc chiến chống lại đau khổ và sự dữ. Cuộc đời của Ðức Giêsu là minh chứng sống động nhất cho điều này.
2.3. Thiên Chúa có thể làm cho điều lành xuất phát từ trong sự dữ khi nó xảy ra.
Thiên Chúa khắc phục đau khổ cho con người qua sự quan phòng của Người, nghĩa là bằng cách ban ý chí và sự can đảm để con người dám đứng lên chống lại nghịch cảnh. Sự quan phòng của Thiên Chúa không theo cung cách phép lạ ồn ào nhưng theo cung cách âm thầm, liên lỷ hoạt động trong lòng trí họ. Thiên Chúa đã đặt một sức năng bền bỉ trong con người để họ không ngừng vươn lên những đỉnh cao mới, đặc biệt những lúc phải đối diện với nghịch cảnh. Các thành tựu khoa học kỹ thuật đã chứng tỏ sự can trường và quyết tâm của con người trong việc chinh phục thiên nhiên, và thật là thú vị khi thấy rằng những gì con người đạt được ngày nay hầu hết đều bắt nguồn từ những nghịch cảnh: trí thông minh con người có được độ tinh vi như hôm nay là nhờ các nỗ lực giải quyết những vấn đề khó khăn, bức thiết của cuộc sống như đói kém, hạn hán, dịch bệnh, thời tiết khắc nghiệt, tai nạn, … Có thể nói tài năng đã nhờ các nhu cầu bức thiết mà trở nên sắc bén hơn. Trong gian truân, ý chí và nghị lực của con người cũng được tôi luyện và phát triển. Ngày hôm nay tôi thấy mình kiên nhẫn hơn thời chưa là sinh viên. Chính cuộc sống ở nhờ nhà người khác, phải chịu đựng lời ra tiếng vào, phải cắn răng nếm trải thất bại trong cuộc sống của một sinh viên nghèo mà tôi đã lớn lên, vững vàng hơn và biết quý trọng các giá trị cuộc đời. “Thất bại là mẹ thành công” là một nghịch lý rất hữu lý.
Lịch sử nhân loại có những lúc thật là đen tối, tưởng chừng không lối thoát. Những lúc ấy, những hậu quả do sự dữ luân lý thật là khủng khiếp vô cùng. Nếu ta đặt mình vào vị trí của những người Do Thái trong trại tập trung Ðức quốc xã hồi Ðệ nhị thứ chiến, của người dân Rwanda trong thời kỳ thanh trừng sắc tộc, người dân Palestine, người dân Iraq, những bệnh nhân Aids đau đớn nằm chờ chết,… thì sẽ thấy bóng tối sự dữ kinh khủng đến mức nào. May thay, Thiên Chúa vẫn không ngừng hoạt động để giúp con người đẩy lui bóng tối và biết yêu mến ánh sáng. Nếu so sánh với ngày xưa, chắc chắn ngày nay con người đã biết quý trọng sự sống hơn, đề cao nhân phẩm hơn, đấu tranh cho nhân quyền nhiều hơn, chú ý các chiều kích nhân bản và tâm linh hơn.
Con người chán ghét sự xấu và đấu tranh đẩy lui đau khổ là một dấu hiệu tốt cho thấy Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người và con người đang trung thành với ‘ơn gọi’ của mình để tiếp tục lớn lên trong tầm vóc của mình. ‘Ơn gọi’ của tất cả mọi người là đạt cho được hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn không còn bóng sự dữ hay khổ đau. Vì thế, mỗi khi khó chịu với hay muốn đẩy lui đau khổ là ta đang diễn tả ý chí muốn chế ngự sự dữ và khát vọng đạt đến hạnh phúc. Nếu cứu cánh đời ta không phải là hạnh phúc và ơn gọi của ta không phải là tìm cách đạt cho được hạnh phúc ngay từ lúc này thì có lẽ chúng ta không chán ghét sự dữ và đau khổ.
Không ai muốn đau khổ vì nó thường gây khó chịu, ê chề, lao đao, khốn khó, thất vọng. Nhưng ý thức và kinh nghiệm đau khổ, với sự trợ giúp của ân sủng, lại làm cho con người vượt ra khỏi cấp độ thú vật và phát triển trên phương diện tri thức và đạo đức. Ông bà mình quả có lý khi nói: “Cái khó ló cái khôn”.
Sự trung lập, tình cờ của các định luật tự nhiên có thể được coi là một khiếm khuyết bất công vì chúng không chừa ra người lương thiện mà giáng tai ương xuống trên tất cả. Ta có thể xem đây là một loại ‘sự dữ’, là một trong những nguyên nhân gây ra đau khổ. Tuy nhiên, sự trung lập lạnh lùng ấy lại là yếu tố giữ gìn tự do của con người và giúp con người hiệp thông với nhau. Thứ nhất, nó giữ gìn tự do của con người vì tránh cho họ khỏi nguy cơ làm các việc tốt vì sợ bị phạt (đồng nghĩa với nô lệ sợ hãi) mà trở thành lưu manh, chạy chọt, xu nịnh, dúm dó. Ngược lại, nhờ sự ‘vô tình’ ấy mà con người sẽ chọn Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa, chọn điều thiện vì chính điều thiện. Thứ đến, nó làm cho con người hiệp thông trọn vẹn thật lòng với nhau vì loại bỏ động cơ vụ lợi trong việc yêu thương bác ái, nghĩa là giúp con người yêu thương thật sự chứ không phải vì lợi ích vật chất do việc kính Chúa yêu người mang lại.
Thiên Chúa đã tự do sáng tạo vũ trụ như nó đã tồn tại và vận hành lâu nay, trừ những phần đã bị phá hỏng do con người. Tại sao Thiên Chúa lại sáng tạo một thế giới có những đường nét và đặc tính nhiều khi rất khó chịu gây ra bao nhiêu khó khăn cho con người? Tất nhiên không ai biết được lý do chính xác vì không ai là Thiên Chúa cả. Nhưng tôi có một suy tư thế này: Thiên Chúa đặt con người vào một thế giới còn nhiều bất toàn (trong mối liên hệ với lợi ích của con người) như thế có lẽ để con người thể hiện vị thế làm chủ của mình bằng cách hoàn thiện nó, “đặt tên” cho nó có khi bằng chính sự vượt khó của mình. Ðể rồi kinh qua tất cả những gian lao, thử thách ấy, con người vươn tới một tầm vóc lớn hơn và cuối cùng có thể ‘đủ sức’ chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, Ðấng siêu việt. Có lẽ cũng vì thế mà Ngôi Hai đã chọn con đường Nhập thể để trợ giúp con người hoàn thành hành trình vươn cao của mình, ngang qua các nghịch cảnh.
“Tất cả là hồng ân” không phải là một câu nói lúc nào cũng có logic và dễ nghe, nhất là trong đau khổ. Tuy vậy, khi nhờ ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vẫn hằng hoạt động trong mỗi người mà ta vươn lên tầm vóc trưởng thành hơn, vững vàng hơn, thánh thiện hơn ngang qua mọi đau khổ, thì xin được xác tín rằng: TẤT CẢ CÓ HỒNG ÂN.
|
|