|
Cu Bo nhảy tưng tưng:
- “Má, nhìn kìa má!”
Thường ngước lên theo hướng Bo chỉ, tít tắp trên nền mây xanh mát là vệt khói của một chiếc máy bay bỏ lại. Vạch ngang và chia mây ra làm đôi.
Bo níu tay mẹ:
- “Má ơi, máy bay sao bay chậm rì vậy má?”
Nó hỏi mà hình như không cần nghe câu trả lời, cứ há miệng leo nheo mắt nhìn theo. Tội nghiệp cu cậu, chỉ thấy máy bay qua sách vở, qua những lần được ra ngoài đường nhìn, chứ đâu biết máy bay là cái chi. Thường cũng lơ đãng nhìn theo vệt khói. Bỗng dưng Thường nhớ Dân dữ dội, cũng cách nhìn máy bay, đôi mắt lơ đãng này mà bảy năm trước đã từng làm Dân bồi hồi khi khăn gói để bước sang xứ người.
Thời gian trôi nhanh thiệt. Thường đã quên gần hết những giọt nước mắt nhớ thương, những hứa hẹn đợi chờ, những thề thốt gìn giữ cùng nhau. Giờ trước mắt hai mẹ con, rõ mồn một tồn tại và bươn chải.
Anh đi, với lời hứa hết hạn anh quay về, có vốn để hai vợ chồng làm ăn, để mau thoát khoải cái kiếp làm thuê cho thiên hạ. Thường tin anh như đã từng tin chính mình khi quyết định đến với anh, người con trai chăm chỉ trong làng, mặc cho ba má khuyên từ từ, hãy suy nghĩ kỹ. Đám cưới rộn ràng ở miệt quê, không linh đình nhưng cũng khiến cho đám con trai còn lại trong làng đình công, không thèm đi. Sau đám cưới, hàng loạt những cuộc bỏ xứ ra đi, với lý do là đi thành phố mần ăn. Thường biết, họ tránh mình, họ tránh phải chứng kiến cái hạnh phúc của mình, tránh cái cảnh thấy người con gái đẹp, một báu vật của làng cặp kè âu yếm với một kẻ khác, kẻ mà chẳng hơn gì mình. Thoáng chạnh lòng, nhưng rồi Thường cũng mau chóng bước qua cái mớ tâm lý lổn nhổn bi lụy đó. Cu Bo ra đời để dập tắt luôn hẳn những suy nghĩ bám vào quá khứ.
Dân khép kín, trầm lặng đến mức nhàn nhạt. Thế mà tính khí này đã từng làm Thường ngưỡng mộ, với cái ý nghĩ ngô nghê rằng anh sẽ là người bản lĩnh và vững chãi. Thật tội nghiệp, cuộc sống vợ chồng với những lo toan cơm áo gạo tiền, còn cần sự thấu cảm, chia sẻ. Điều đó khá hiếm hoi ở Dân. Anh đi ruộng từ sáng, chiều sẩm sẩm là quay về, xoa đầu cu Bo vài cái, rồi tắm, rồi leo lên phản ngồi trước mâm cơm mà Thường dọn sẵn.
Thường mệt, cái mệt từ công việc đồng áng, từ phải lo canh mặt trời xiên xiên ngay chân ruộng là tất tả đạp xe về, không quên bọc theo mấy con cá đồng mà chú Bảy Hào bắt cho, rồi thế là khói bếp cứ ám vào khuôn mặt cô cho đến lúc Dần ăn xong bữa cơm; mệt khi chồng mình cừ lừng lững lầm lì mà đi ngủ.
Chẳng biết cái thông báo to đùng dán ngoài xã có hấp lực gì, Dân vừa xem xong, đã tất tả hối Thường vay mượn ba má ít vốn để đi học nghề và tiếng Tây tàu chi đó, anh nói kỳ này đổi đời, phá bỏ bằng được cái kiếp nghèo cứ đeo đẳng, để anh nở mày nở mặt với đám trai làng thi thoảng lại về thăm xóm với quà thành phố tưng bừng.
Mấy công ruộng của nhà bay vèo mất cùng với làn khói máy bay bỏ lại, trên đó có chứa niềm hy vọng, chứa cả một tương lai lờ mờ nào đó mà Thường không biết đặt tên.
Giật mình với dòng suy nghĩ, bừng tỉnh nhớ lại rằng sáng mai phải vô nhận việc ở xưởng trên thành phố, Thường sửa lại cái nón, xốc lại cái túi xách rồi nắm tay cu Bo:
- “Lẹ lên con, hết xe giờ!”
Cuộc đời của Thường và Dân là như thế, có lẽ Dân đã đúng khi anh quyết định đổi đời; chỉ có một chi tiết nhỏ là không có Thường và cu Bo bên cạnh. Có lẽ Thường cũng đúng khi đã gạt hẳn Dân ra khỏi tim mình, chỉ khác một chi tiết là quyết định này đã đến sau tám năm sống cùng cái nhạt của chính mình.
Hưng Quốc
Sài Gòn 1/2012
|
|