|
b, Emmanuel - Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta: đặc trưng rao giảng Tin Vui (x. Is 7, 14 // Mt 2, 18. 22-23).
“Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14).
Có thể nói, sấm ngôn về người thiếu nữ sinh con được trích dẫn trên đây là một trong những sấm ngôn quan trọng nhất trong Kinh Thánh, và cũng đoạn Kinh Thánh này để lại nhiều vấn đề nan giải, ít nhất là có ba lối giải thích:
1* Đó là người vợ của vua Akhab và sự sinh nở của bà là một điềm lành cho vương quốc .
2* Sấm ngôn chỉ có ý nghĩa cho tương lai sau này được ứng nghiệm nơi Đức Maria, sinh ra Đấng Messia.
3* Sấm ngôn vừa là dấu chỉ cho toàn dân lúc đó áp dụng cho vợ vua Akhab sinh con, vừa tiên trưng cho Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ Đấng Cứu Thế.
Cùng với các nhà Kitô học và Thánh Mẫu học, chúng ta thiên về lối giải thích thứ hai, nghĩa là Isaia tiên báo về Đức Maria sinh hạ Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, khi đọc kỹ bản văn, chúng ta lại gặp phải một khó khăn lớn khi đối chiếu các bản văn Hípri và Hy Lạp.
Bản Hípri viết là “một thiếu nữ” mang thai (thiếu nữ: nghĩa là cô gái còn trẻ chứ không nhất thiết phải hiểu là đồng trinh), trong khi bản Hy Lạp ghi là: “một trinh nữ” sẽ mang thai; bản văn Hípri sử dụng thì hiện tại, còn bản Hy Lạp lại sử dụng thì tương lai (một thiếu nữ mang thai // một trinh nữ sẽ mang thai).
Như vậy, theo bản Hípri thì dường như dấu chỉ “người thiếu nữ sinh con” đã gần kề, xét về thời gian, áp dụng cho việc vợ vua Akhab sinh hạ Ezechias, phần là vì bà vợ Akhab là thiếu phụ chứ không phải “trinh nữ”, phần là vì nếu đọc câu 16 tiếp theo đó sẽ thấy ứng nghiệm khi Ezechias lớn lên thì đất đai hai vua mà ngài khiếp sợ sẽ không còn (x. Is 7, 16), mà theo lịch sử thì lúc này vương quốc Đamát đã mất và Samari đã bị sát nhập vào Assur. Tuy nhiên, cũng cần biết, lời tiên tri ở đây mang vẻ thật long trọng và siêu việt khi tuyên bố về sự hiện diện của Đấng Emmanuel, cho thấy mang tính cánh chung hơn là dấu hiệu hiện thời (x. Is 9, 1-5; 11, 1-9). Đàng khác, chính vua Ezechias sau này cũng không thế phục hưng vương quốc.
Còn bản Hy Lạp, như đã nói ở trên, có lẽ khi nhóm ký lục biên dịch (bản LXX) đã thấy rõ sự suy tàn của triều đại David và đọc thấy bản văn đầy vẻ trang trọng phản ánh tính cánh chung, nên đã nghĩ tới một sự ứng nghiệm xa hơn.
Nguyên bản Hípri sử dụng danh từ Alma: thiếu nữ, còn dịch văn Hy Lạp lại sử dụng từ parthênôs: trinh nữ và xác định sự thụ thai đồng trinh. Như thế, bản Hy Lạp có ý nghĩa gần hơn về sự đồng trinh của Đức Trinh Nữ Maria mà sau này được thánh Matthêu trích dẫn để áp dụng cho việc thụ thai và sinh hạ Đức Giêsu.
“…Maria đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần… và tất cả sự việc đã xảy ra để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 2, 18. 22-23).
Qua việc trích dẫn của tác giả Tin Mừng Matthêu, cho ta việc suy tư về mầu nhiệm Đức Maria sẽ dễ chấp nhận hơn khi dùng bản Hy Lạp, vì theo công đồng Vaticano II trong Hiến chế về Hội Thánh dạy: “Phải đọc và hiểu dưới ánh sáng mặc khải trọn vẹn sau này. Phải đọc dưới ánh sáng mặc khải Tân Ước mới hiểu đúng, vì đoạn văn Is 7, 14, cũng như đoạn văn St 3, 15 là một phác hoạ còn mờ”.
Tuy đưa ra một vài chú thích thần học trên đây, nhằm có một cái nhìn xác đáng hơn, nhưng vấn đề quan trọng ở đây nhắm đến là hai cụm từ “trinh nữ” và “Emmanuel”. Hai từ này trong lời tiên báo của Isaia được áp dụng cho Đức Maria khi sinh ra Đấng là Emmanuel. Dấu chỉ người trinh nữ sinh con là điềm lành cho vương quốc Giuđa ngày xưa, thì nay việc Trinh Nữ Maria sinh Con cũng là Tin Mừng cho muôn thế hệ; Emmanuel, dấu chỉ Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta xưa ở nơi Hòm Bia đi theo dân Israel suốt hành trình và ngự trong đền thờ Giêrusalem, cũng là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đã nhập thể và nhập thế thực sự, đã đến trong cung lòng Đức Maria, làm người, sinh ra và sống với mọi người, và cuối cùng ở với mọi người cho đến tận thế qua các Bí Tích, đặc biệt nơi huyền nhiệm Thánh Thể.
Như vậy, trong lời sấm ngôn Is 7, 14, khi tiên báo về một dấu chỉ, một điềm lành cho triều đại David, được các Kitô hữu nhìn dưới ánh sáng Phục Sinh để áp dụng cho Đức Trinh Nữ Maria sinh Đấng Emmanuel là một Tin Vui cho nhân loại. Ngoài ra, khi nói về đức đồng trinh của Mẹ Vô Nhiễm, nghĩa là sự xứng đáng khi tiếp nhận và cưu mang Lời Chúa, người truyền giáo phải tôn trọng gìn giữ sự tinh tuyền của Lời Chúa khi được rao giảng cho nhân loại, phải được cắt nghĩa nhờ ơn soi sáng của Thánh Thần, chứ không phải do ý muốn của con người (tựa như Đức Maria cưu mang Ngôi Lời là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không phải do ý muốn của nam nhân). Đặc biệt, khi thời đại hôm nay đang sống như vắng bóng Thiên Chúa, thậm chí như Thiên Chúa đã chết rồi. Vì thế, hơn lúc nào hết, các chứng nhân rao giảng Tin Mừng phải giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu Nazareth chính là Đấng Emmanuel đã đến, đã sống và đang sống ở giữa nhân loại.
|
|