|
5. Thánh Kinh và thời gian.
Cách tư duy theo lối Tây Phương, quan niệm thời gian như một thực tại có thể đo lường được. Thật vậy, khi muốn nhắc đến thời gian, người ta dùng các dụng cụ trắc lượng như đồng hồ hay quyển lịch để có thể xác định một thời đại hoặc một biến cố. Thời gian trở thành đặc tính có thể đo lường.
Nhưng đối với người Do Thái, biết thời gian không phải là cho nó một thời biểu, mà biết thời gian được nói đến là thời gian nào: Đó là thời gian của tiếng cười hay thời gian khóc lóc, thời gian của hoà bình hay thời gian chiến tranh, thời gian để gieo hay thời gian để gặt…
“Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời :
một thời để chào đời, một thời để lìa thế ;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây ;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành ;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng ;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười ;
một thời để than van, một thời để múa nhảy ;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá ;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn ;
một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất ;
một thời để giữ lại, một thời để vất đi ;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu ;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng ;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét ;
một thời để gây chiến, một thời để làm hoà” (Gv 3,1-8).
Giống như khi nói: “thời gian tốt”, thời gian xấu”, “thời kì tân tiến”, “thời kỷ khó khăn…” có nghĩa là đánh giá những gì xảy ra trong thời gian, đánh giá phẩm tính của kinh nghiệm con người chứa đựng trong đó.
Khi nghĩ đến lịch sử, người ta tìm lại quan niệm lượng số về thời gian. Riêng người Do Thái thời xưa không tự đặt mình vào một chỗ nhất định, mà phối trí các biến cố, địa điểm, các thời đại và thấy mình lư thông trong đó. Nguyên tố duy nhất và độc nhất của biến cố đối với Do Thái là Thiên Chúa, vì Người là chủ lịch sử, là Đấng tổ chức thời gian: “… Một thời để ăn chay, một thời để vui chơi, một thời để phán xét, một thời để cứu rỗi…”
Mười một chương đầu của sách Sáng Thế tường thuật tuổi đời rất dài của các tổ phụ, như: Ađam 930 tuổi (St 5,5), Mơthusêlac 969 tuổi, Nôê 950 tuổi (St 9,29)… Điều này cho ta những thắc mắc:
Có phải người xưa sống thọ hơn ngày nay?
Người xưa đã biết tính tuổi (365 ngày) như ngày nay?
Làm thế nào các tác giả Thánh Kinh biết được tuổi những người sống trước họ hàng trăm thế kỷ?
Thiết nghĩ, Thiên Chúa không mặc khải những điều như thế, nhưng các tác giả chép thánh Kinh đã định tuổi của họ với những dụng ý sau:
- Cố gắng bắc nhịp cầu nối liền giữa thời đại đương thời của tác giả với các tổ phụ thời đại xa xưa, để nói lên tính liên tục của lịch sử và chứng tỏ Thiên Chúa là chủ lịch sử và hiện diện hoạt động trong mọi thời đại. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất cho các tác giả là sử liệu truyền khẩu về các vĩ nhân và các biến cố không nhiều trong khoảng thời gian lịch sử rất dài, nên các vị đã phải phân phối tuổi tác các vĩ nhân làm sao cho bao trùm hết được khoảng thời gian lịch sử ấy. Dĩ nhiên, các tác giả Thánh Kinh cũng không biết rõ lịch sử nhân loại bắt đầu từ bao giờ và các vị cũng chỉ dùng quan niệm bình dân của thời đại các vị để chép mà thôi.
- Quan niệm người xưa cho rằng sống lâu là một ân huệ Chúa ban. Vì thế, việc gán cho các tổ phụ có tuổi đời trường thọ, ngụ ý cho thấy rằng các tổ phụ kia đã sống cuộc sống đầy ân nghĩa với Thiên Chúa.
Tóm lại: Tuy các tác giả Thánh Kinh thực sự không biết chắc về tuổi thọ của các tổ phụ, nhưng việc gán cho các tổ phụ có tuổi đời rất lớn là nhằm cho thấy dù các vị sống từ thời xa xưa vẫn thuộc gia đình nhân loại, và Thiên Chúa của chúng ta hôm nay cũng là Thiên Chúa của các tổ phụ xưa. Thiên Chúa duy nhất.
Hiền Lâm
* Có tham khảo và một số trích đoạn từ cuốn “DẪN VÀO THÁNH KINH” của Lm Dominic Nguyễn Phúc Thuần. |
|