|
C. Khái niệm về giao ước.
I, Định nghĩa.
1, Cấu tạo Thánh Kinh.
Được gọi là Thánh Kinh hay Sách Thánh là bởi vì:
- Tác giả là chính Thiên Chúa chí thánh.
- Vì trong đó chứa đựng những điều thánh thiện.
- Vì những trang sách này có sức thánh hoá người đọc (S. Thomas Aquino).
Thánh Kinh là một bộ sách gồm 73 cuốn, được chia làm hai phần: Cựu Ước và Tân Ước. Bộ sách chứa đựng các chân lý mặc khải về Ơn Cứu Rỗi, do nhiều tác giả viết ra dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần (ơn Linh Hứng).
Thánh Kinh được viết vào những thời kỳ khác nhau, trải dài từ khoảng năm 1350 trước Chúa Giáng Sinh đến năm 100 sau Chúa Giáng Sinh.
Thánh Kinh cũng được coi là bộ sách Giao Ước, trong đó bao gồm Cựu Ước (giao ước cũ) và Tân Ước (giao ước mới). Cả hai đều gồm ba thể loại: Lịch Sử, Ngôn Sứ và Giáo Huấn.
2, Định nghĩa giao ước.
Giao ước là một thoả thuận giữa hai bên, được thiết lập và đóng ấn bằng một nghi lễ công khai. Qua đó mỗi bên đều được hưởng những quyền lợi, kèm theo những ràng buộc và phải thi hành một số điều kiện.
Theo phong tục cổ thời, các dân vùng Lưỡng Hà Địa thì sau khi hai bên đạt được thoả thuận cho việc ký kết, người ta giết một con vật, rồi phân thây con vật làm hai nửa. Sau đó đại diện hai bên lần lượt đi qua giữa hai phần của con vật đó, ngụ ý nói lên quyết tâm thực hiện điều đã ký kết và sẵn sàng chịu chung số phận như con vật nếu vi phạm điều đã giao ước (x. St 15, 7-20; Gr 31,31; 34,18-22).
Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa chặt, thì không thể có giao ước đúng nghĩa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì giao ước chỉ được thiết lập giữa hai bên ngang hàng với nhau và hai bên đều được hưởng lợi và cùng phải có bổn phận ràng buộc. Trong khi Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và con người chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên từ hư vô thì không thể ngang hàng với nhau được. Đồng thời Thiên Chúa cũng chẳng được lợi ích gì và Người cũng không thể bị ràng buộc vào bổn phận phải thi hành, vì mọi sự đều là của Thiên Chúa. Nhưng vì yêu thương Thiên Chúa đã tự hạ cố để thiết lập giao ước, nên đúng hơn phải hiểu giao ước giữa Thiên Chúa với loài người là một Lời Hứa được ban cho con người mà thôi (x. St 9,11; 15,5; Xh 19,5).
Giao ước khác biệt với mọi bản giao kèo hay hợp đồng giao kết khác, nghĩa là các bản giao kết kia nếu một bên vi phạm thì bên còn lại không bị ràng buộc nữa, trong khi Giao Ước thì không thay đổi, bằng chứng là phía con người bất tín biết bao lần, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín.
3. Giao ước cũ và giao ước mới.
a, Cựu Ước.
Là Lời Giao Ước Cũ mà Thiên Chúa thiết lập với dân riêng của Người là Israel qua trung gian là các tổ phụ và các ngôn sứ, và được đóng ấn bằng máu con vật sát tế.
CÁC SÁCH CỰU ƯỚC (46 cuốn) :
* 21 sách lịch sử: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giosuê, Thủ Lãnh, Rút, 1&2 Samuel, 1&2 Vua, 1&2 Sử Biên Niên, Ét-ra, Nơkhemia, Tôbia, Giútđita, Ét-te, 1&2 Macabê.
* 18 sách ngôn sứ: Isaia, Giêrêmia, Aica, Barúc, Eâdêkien, Đanien, Hôsê, Giôen, Amốt, Oâvađia, Giôna, Mika, Nakhum, Khabacuc, Xophonia, Khácgai, Dacaria, Malakia.
* 7 sách giáo huấn: Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca.
b, Tân Ước.
Là Lời Giao Ước Mới mà Thiên Chúa thiết lập với toàn thể nhân loại nhờ chính Con Một Người là Chúa Giêsu và được đóng ấn bằng chính Máu của Người đổ ra trên thập giá (x. Mc 14,22-25; 1Cr 11,23-25).
CÁC SÁCH TÂN ƯỚC (27 cuốn):
* 5 sách lịch sử: Mátthêu, Máccô, Luca, Gioan, Công Vụ Tông Đồ.
* 1 sách ngôn sứ: Khải Huyền
* 21 sách giáo huấn (các thư): Rôma, 1&2 Côrintô, Galát, Eâphêsô, Philípphê, Côlôsê, 1&2 Thêxalônica, 1&2 Timôthê, Titô, Philêmôn, Do Thái, Giacôbê, 1&2 Phêrô, 1&2&3 Gioan, Giuđa.
II. Các nguồn tài liệu.
1. Các sách luật (ngũ kinh) .
Ngũ Kinh: 5 cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh làm thành một khối duy nhất gọi là sách Luật . Để đạt tới như hiện nay, Ngũ Kinh đã trải qua một quá trình thành hình và phát triển lâu dài.
Ban đầu khi nhìn vào thế giới, khi quan sát các hiện tượng trong trời đất, khi chứng kiến cuộc sống và thân phận con người, khi kinh nghiệm về các biến cố trong lịch sử… một số người trong Israel được mặc khải của Thiên Chúa đã suy tư và tìm hiểu ý nghĩa của những thực tại này. Rồi để phổ biến những kiến thức và kinh nghiệm lãnh hội được từ Thiên Chúa, các tác giả đã dùng những tích truyện, những bài thơ, những điều luật làm phương tiện chuyển tải cho mọi người. Nhờ đó mà chúng ta có bộ Thánh Kinh, cách riêng bộ Ngũ Kinh .
Những truyền thống trên bao gồm nhiều tài liệu khác nhau, lắm lúc có cả những tài liệu không cần thiết. Vì thế, qua những biến cố quan trọng ảnh hưởng đến đức tin vào Thiên Chúa, như việc tìm thấy sách Luật trong đền thờ, cuộc lưu đày… người ta đã hiệu đính lại các truyền thống và loại bỏ những gì không cần thiết, đồng thời đưa ra những chú giải làm căn bản thần học cho các truyền thống ấy.
Ngày nay các nhà chú giải phân biệt được thành 4 truyền thống khác nhau lẫn lộn trong bộ Ngũ Kinh:
a, Truyền thống J
J là chữ viết tắt chữ Javeh (Gia-vê). Được gọi là truyền thống Gia-vê vì các đoạn văn thuộc truyền thống này gọi danh Thiên Chúa là Gia-vê.
Truyền thống J xuất hiện ở Miền Nam (Giuđa) vào khoảng thế kỷ X trước Chúa Giáng Sinh, dưới thời Đavít và Salômon trị vì Israel.
Đặc điểm của truyền thống này là dùng cách thức của con người để diễn tả Thiên Chúa. Chẳng hạn: Kể chuyện Thiên Chúa giống như thợ gốm ngồi lấy đất nặn ra con người, lấy xương sườn đàn ông để đắp thành đàn bà…
Truyền thống J trình bày giai đoạn lịch sử bao quát kéo dài từ con người khởi thuỷ đến biến cố Xuất Hành. Chủ đề tổng quát của truyền thống J là LỜI HỨA và THỰC HIỆN LỜI HỨA được trình bày qua các trình thuật về các tổ phụ.
b, Truyền thống E
E là viết tắt chữ Ê-lô-him. Được gọi là truyền thống Ê-lô-him vì các đoạn văn thuộc truyền thống này gọi Thiên Chúa là Ê-lô-him.
Truyền thống E xuất hiện muộn hơn truyền thống J, thuộc miền Bắc, tức vào khoảng thế kỷ IX trước Chúa Giáng Sinh.
Đặc điểm của truyền thống này là luôn tránh lối diễn tả về Thiên Chúa theo cách thức con người. Vì thế, khi tường thuật việc Thiên Chúa muốn mặc khải điều gì, thì truyền thống E không dùng hình thức trực tiếp mà dùng các cách thức như: báo mộng, đám mây, ngọn lửa, thiên thần…
Về mặt luân lý, truyền thống E khắt khe hơn truyền thống J, để đương đầu với lối sống vô luân và phong tục của các bộ tộc ngoại đạo sống xung quanh hoặc lẫn lộn với dân Israel.
c, Truyền thống P
P là viết tắt chữ Priest (tư tế). Được gọi là truyền thống tư tế, vì các bản văn thuộc truyền thống tập chú đến những gì liên quan đến chức tư tế và phụng vụ, như: các ngày lễ, của lễ, y phục thánh…
Truyền thống P xuất hiện vào thời lưu đày. Giữa lúc dân Chúa sống giữa thế giới dân ngoại, nên rất dễ bị lung lạc và đồng hoá với các hình thức tôn giáo ngoại đạo. Vì thế, truyền thống P ra đời nhằm bảo vệ đức tin tinh tuyền và cách thờ tự Thiên Chúa của Israel.
Cũng như truyền thống E, đặc điểm của truyền thống P cũng luôn tránh lối diễn tả Thiên Chúa theo cách thức con người, vì Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt Tuyệt Đối. Đặc biệt đặt trọng tâm vào chủ đề: Thiên Chúa là Đấng Thánh, nên Israel cũng phải thánh thiện, nghĩa là phải tách biệt ra khỏi nền luân lý và những hình thức tôn thờ do con người bày ra.
Truyền thống P trình bày lịch sử theo khung cảnh phụng vụ, trình bày lịch sử Israel thành 4 thời kỳ và mỗi thời kỳ được đành dấu bằng một giao ước đặc biệt của Thiên Chúa và được đáp ứng bằng một hình thức tôn thờ đặc biệt.
Tóm lại, truyền thống P được trình bày theo lối phụng vụ trang trọng với chủ đích giúp dân Israel lưu đày giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa.
Ba truyền thống J, E và P đan kết lại với nhau làm thành 4 cuốn đầu của bộ Ngũ Kinh.
d, Truyền thống D.
D viết tắt chữ Deutoronomy (luật thứ hai). Được gọi là truyền thống Đệ Nhị Luật vì nói về luật và là nội dung của sách Đệ Nhị Luật.
Truyền thống D xuất hiện vào khoảng thế kỷ VII trước Chúa Giáng Sinh, thuộc thời kỳ khủng hoảng tôn giáo, do các vua gian ác làm tổn hại đến việc tôn kính Giavê, cùng với việc Miền Bắc đã bị sụp đổ và Miền Nam đang bị đe doạ trầm trọng bởi đế quốc Assyri. Trước tình trạng ấy, truyền thống D ra đời nhằm khích lệ dân Israel trung thành với giao ước qua việc tuân giữ lề luật.
Căn bản thần học của truyền thống D là xác tín rằng Giao Ước là lựa chọn đầy yêu thương của Thiên Chúa, do đó tuân giữ giao ước (lề luật) của Thiên Chúa chính là đáp lại sự lựa chọn đầy yêu thương đó.
Cả 4 truyền thống J, E, P và D đều là truyền khẩu, mãi tới thời Đavít và Salomon mới được chép ra thành văn nhờ các thư ký của triều đình. Sau này trong thời kỳ lưu đày ở Babilon và thời kỳ hồi hương mới được các tư tế đúc kết lại các tài liệu như chúng ta có ngày hôm nay .
2. Văn chương ngôn sứ .
Ngôn sứ được hiểu là một sứ giả của Thiên Chúa và chuyển đạt Lời Chúa, chuyển đạt ý định của Thiên Chúa cho dân.
Các ngôn sứ nhận được sứ điệp từ Thiên Chúa đôi khi qua thị kiến (x Is 6, Ed 1-3…), nhưng thường thì qua ơn linh hứng diễn ra nơi nội tâm. Các vị nhận thức được rõ về linh hứng và xác tín rằng đó là mặc khải của Thiên Chúa và phải được rao giảng cho dân.
Văn chương ngôn sứ: Để rao giảng Lời Chúa cho dân, các ngôn sứ đã sử dụng nhiều hình thức văn chương khác nhau như: THƠ TRỮ TÌNH, NHỮNG TƯỜNG THUẬT BẰNG VĂN XUÔI, NGỤ NGÔN, NHỮNG BÀI GIẢNG THUYẾT, SẤM NGÔN, AI CA, CHÂM BIẾM… Sứ điệp Lời Chúa được các ngôn sứ rao giảng liên quan đến hiện tại và tương lai. Các ngài cũng có thể tiên báo một biến cố sắp xảy đến để minh chứng lời nói và sứ vụ của mình xuất phát từ Thiên Chúa (x. 1Sm 10,1tt; Is 7, 14; Gr 28,15tt).
Để phân biệt đâu là một ngôn sứ có thật là do Thiên Chúa sai đến hay không, Thánh Kinh giúp chúng ta biết dựa theo 1 trong 2 tiêu chuẩn sau đây:
1% Những lời do ngôn sứ rao giảng phải được ứng nghiệm (x. Gr 28,9; Đnl 18,22). Điều này khó tin với người đương thời, vì thường thì lời ngôn sứ được ứng nghiệm trong một tương lai xa. Vì thế, cần đến tiêu chuẩn thứ 2 sau đây:
2% Giáo huấn của ngôn sứ rao giảng phù hợp với tôn giáo Gia-vê (x. Gr 23,22; Đnl 13,2-6). Hơn nữa, các lời ngôn sứ hầu như không bao giờ nói đến những điều bình an giả tạo trước sự suy đồi đạo đức, nhưng thường thì các ngôn sứ nói đến những lời cảnh tỉnh khó nghe, vì đó là lệnh của Thiên Chúa thức tỉnh dân Người.
Tiền ngôn sứ và hậu ngôn sứ: Quy điển Thánh Kinh Do Thái thì các sách: Giosuê, Thủ Lãnh, Samuel, Các Vua là sách TIỀN NGÔN SỨ, để phân biệt với HẬU NGÔN SỨ là: Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và 12 ngôn sứ nhỏ .
3. Các sách khôn ngoan .
Tìm kiếm và chiếm hữu được khôn ngoan là một khát vọng lớn lao. Vì thế, đi tìm sự khôn ngoan hiểu biết là một phong trào rất thịnh hành của các dân tộc. Mục đích của công cuộc tìm kiếm khôn ngoan là thâu thập những kinh nghiệm rút từ cuộc sống hằng ngày, rồi đúc kết lại thành một nghệ thuật sống giúp người ta thành công trên đường đời, biết sống hoà hợp với mọi người và vũ trụ, để đạt được hạnh phúc.
Các kinh nghiệm rút từ cuộc sống và những quan sát tuần hoàn của vũ trụ được lưu truyền lại bằng những câu CÁCH NGÔN, TÍCH TRUYỆN, BÀI THƠ, ANH HÙNG CA… và làm thành một kho văn chương độc đáo, đó là VĂN CHƯƠNG KHÔN NGOAN .
Dân Israel cũng hấp thụ nền văn minh và kho tàng khôn ngoan của các dân tộc, nhưng không chỉ dừng lại ở những gì có tính cách nhân bản mà còn được nâng lên một lãnh vực cao siêu hơn, không chỉ dừng lại ở lãnh vực cuộc sống thường ngày mà thăng hoá lên trong cái nhìn tôn giáo, nghĩa là sự khôn ngoan đích thực xuất phát từ Giavê, được soi sáng bởi Giavê và sự khôn ngoan của mọi khôn ngoan chính là lòng đạo đức và kính sợ Đức Chúa. Có thể so sánh sự khác biệt: Khôn ngoan dân ngoại đưa ra sự đối lập giữa khôn và dại, thì khôn ngoan Isrel đưa ra sự đối lập giữa đạo đức và vô luân, giữa công chính và bất chính…
Tóm lại: Các nguồn tài liệu lịch sử, ngôn sứ và khôn ngoan đã tạo nên một cuốn Thánh Kinh duy nhất.
Hiền Lâm
* Có tham khảo và một số trích đoạn từ cuốn “DẪN VÀO THÁNH KINH” của Lm Dominic Nguyễn Phúc Thuần. |
|