|
Kim Ngân
Khoảng năm 1954, 55, lúc còn học tại trường giáo xứ do các xơ Gò Thị phụ trách, tôi, lúc đó cỡ 7, 8 tuổi, có chứng kiến công việc tráng gạch men nền nhà thờ Hà Dừa. Khi đó, thân phụ tôi làm ông biện đứng ra trực tiếp phụ trách công việc này và có dùng máy bơm hiệu Bernard cồng kềnh nặng nề thời đó của gia đình để bơm nước từ sông Con vào nhà thờ cho việc lát nền. Vì bản tính tò mò, tôi thường theo thân phụ để coi thợ làm việc. Khi phá nền nhà thờ cũ, tôi có mặt gần cung thánh với cha tôi và một vài người. Tôi nhớ ông quận Hứa, lúc đó làm ông Câu nhất, có nói với cha tôi là chỗ này (gần bàn thờ Mẹ Hằng Cứu Giúp, ngang cửa sổ thứ ba từ trong ra) và đối diện bên kia đều có mộ của các cố. Lúc đó tôi không biết tiếng tây tiếng u nên không nhớ. Tôi chỉ thấy có nền đất mà thôi. Ông quận Hứa là người ghi chép tiểu sử của họ Hà Dừa sau này. Ông mất đã lâu, cha tôi cũng mất lâu rồi, nên không có dịp hỏi lại. Vào trang web của MEP, tôi đọc được bài sau đây và nhân tiện gửi bằng tiếng Việt cho anh em để tri ân một cha sở có công rất lớn đối với giáo xứ Hà Dừa và Cây Vông.
Cha Charles, Léon Salomez (Cố Quới)
(27/11/1872 – 22/12/1922)
Nguyên cha sở Cây Vông và Hà Dừa
Cha Charles, Léon Salomez sinh ngày 27 tháng mười một năm 1872, ở Lille, giáo xứ Fives-Notre-Dame, giáo phận Cambrai, tỉnh Bắc (Nord). Trước tiên là học sinh trường nội trú St. Gabriel, năm 1886, cha vào tiểu chủng viện Cambrai, rồi vào Đại chủng viện triết ở Solesmes, năm 1891. Nhận phép cắt tóc ngày 29 tháng sáu 1892, cha thi hành quân dịch bảy tháng, sau đó được bổ nhiệm làm giám thị trường trung học “Collège d'Aire sur la Lys”.
Ngày 6 tháng tám 1894, cha vào Chủng viện Truyền giáo hải ngoại Paris. Chịu các chức nhỏ ngày 21 tháng Chín 1895, phó trợ tế ngày 27 tháng Chín 1896, phó tế ngày 13 tháng Ba 1897, ngài được thụ phong linh mục ngày 27 tháng Sáu 1897, nhận bài sai đến Giáo phận tông tòa Đông Nam Kỳ (Vicariat Apostolique de la Cochinchine Orientale) tức giáo phận Qui Nhơn và ngày 04 tháng Tám năm sau, cha lên đường nhận nhiệm vụ truyền giáo.
Đến QUI NHƠN, ngày 10 tháng Chín 1897, cha Salomez học tiếng Việt tại Gò-thị, và ngày 2 tháng Hai 1898, cha lên Kon tum để truyền giáo cho người dân tộc Bahnar. Cha học tiếng Bahnar ở Kon-Monei, và ngày 2 tháng Bảy 1898, cha tháp tùng cha Guerlach, đến với dân tộc Bonnuine. Ngày 27 tháng Chín 1899, vì bị bệnh, cha phải trở xuống Tourane (Đà Nẵng) để phục hồi sức khỏe.
Trong vài tháng, cha là cha sở của Lệ-sơn, vùng lân cận, rồi cha sở Phú-hoà, trong tỉnh Quảng-ngãi vào ngày 2 tháng Mười 1900. Năm 1904, sau một thời gian ngắn dừng chân nghỉ ngơi ởTourane và Phanrang, cha trở thành giám đốc cô nhi viện Gò-thị, rồi vào năm 1906, giám đốc cô nhi viện Lòng-sông.
Tháng Chín 1909, cha trở thành cha sở giáo xứ Cây-vông, gần Nhatrang, đồng thời sau này kiêm luôn cha sở giáo xứ Hà-dừa, một cộng đoàn ki tô hữu kỳ cựu, nơi cha mất ngày 22 tháng Mười Hai năm 1924.
Cha SALOMEZ ít đọc sách, trái lại, ngài trò chuyện rất nhiều với những người Việt Nam. Cha là người cộng tác đắc lực cho một trong số những anh em đã công bố những ghi chép về phong tục và những điều mê tín dị đoan. Người anh em này chỉ cần biên tập lại những cuộc nói chuyện của các ngài, khi các ngài là láng giềng của nhau, hoặc chép lại những điều sau này cha viết cho anh trên những mảnh giấy nhỏ hầu như khó đọc. Cha có những nhận định đúng đắn và dự kiến chắc chắn về tình hình chính trị bản xứ cũng như ở Pháp. Chẳng hạn như một bài báo do ngài đọc viết về đề tài đó cho một nhật báo ở Trung Hoa đã được báo chí Đông Dương đăng lại.
Được những người Việt Nam kính trọng, những người châu Âu quý mến, theo nhật báo \L'IMPARTIAL\ cha là":... \"con người tuyệt vời trên trái đất ;...cha rất quan tâm đến bạn bè thân hữu .. Vị linh mục này không phải là một con người buồn rầu, trái lại cha tỏ ra vui vẻ và biết làm vững lòng những kẻ ăn năn sám hối..\" Một nhật báo khác \" le CAMLY\" trong khi thông báo tin ngài từ trần, có nhắc lại công trình phát triển do ngài thực hiện : ....\"Chúng ta sẽ không quên cách đây mới mười lăm năm, ở cách thành phố mười ki lô mét, chỉ có rừng rậm.Hiện nay, nhờ vào nghị lực của một vị linh mục khiêm tốn, thung lũng cao của sông NHATRANG đã có người ở và được khai khẩn..\" Ngoài ra, ngài mới vừa nhận được huân chương KIM-KHÁNH của Việt Nam.
Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1922, vào lúc một giờ trưa, cảm thấy trong người khó ở, cha SALOMEZ gọi người giúp việc đi tìm người đến cấp cứu và đỡ cha lên giường trong phòng riêng..Cha không thể nói được nữa. Bằng cách ra dấu, cha yêu cầu được nhận bí tích bệnh nhân. Người ta vội chạy báo tin cho cha GARRIGUES, vị linh mục láng giềng ; Khi cha Garrigues đến, thì cha SALOMEZ đã ra đi khoảng mười lăm phút trước đó. Cha bị đột quỵ do tình trạng sung huyết não(congestion cérébrale).
Lễ an táng của cha diễn ra vào ngày áp lễ Giáng Sinh, với sự hiện diện của tất cả các linh mục trong tỉnh, hai vị thừa sai đến từ PHAN-RANG, hai quan chức chính quyền và rất đông bà con giáo dân. Hiện nay cha an nghỉ trong lòng nhà thờ HÀ-DỪA, ngôi thánh đường mà cha đã trùng tu và mở rộng.
(Bản tiếng Việt của Kim Ngân)
(Nhà thờ Hà Dừa được trùng tu và mở rộng với tháp cao với hai quả chuông nặng hàng tấn được đúc từ bên Pháp. Phía trước nhà thờ Hà Dừa, hiện nay chúng ta còn thấy có ghi niên hiệu năm 1917, đó là năm trùng tu và mở rộng chứ không phải năm xây dựng thánh đường. Hiện nay, giáo dân Hà Dừa và cha sở muốn phục chế lại tháp chuông này đã xuống cấp, nhưng xem ra công trình rất tốn kém đòi hỏi chuyên môn cao và tiền bạc quá lớn. Mọi sự đều nhờ hồng ân của Chúa.)
|
|