Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #5
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Những Con Đường Của Kinh Thánh.

    Trong Tân Ước, sự mạc khải của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trực tiếp liên kết với ân huệ của đời sống mới nhờ ân sủng: một khi nói về Ba Ngôi Thiên Chúa, tức là nói về việc cứu độ con người; và khi nói về việc cứu độ, tức là nói về Ba Ngôi Thiên Chúa. Chương sau, chúng ta sẽ trình bày một khía cạnh giáo huấn của Tân Ước. Nhưng trước hết, chúng ta cần nhắc lại điều này: việc tìm kiếm chứng cứ mặc khải về Ba Ngôi trong Tân Ước không cốt tại việc chỉ tạo ra một bảng liệt kê các đoạn Kinh Thánh. Trước hết, chúng ta phải tuân thủ theo dõi chuyển động sâu xa của mặc khải và nắm bắt chuyển động đó như một sự trọn vẹn trong những sự hài hoà đa dạng[1]. Tuy nhiên, Tân Ước cống hiến nhiều “con đường” phụ nhằm nắm bắt sự mặc khải về Ba Ngôi. Chúng ta sẽ xét đến hai trong số những con đường đó.
    Con đường đầu tiên khởi đi từ đời sống nhân loại của Chúa Giêsu để dẫn đưa chúng ta đến cuộc khổ nạn và tán dương vinh quang của Ngài. Cuộc khổ nạn và tán dương đó mặc khải cho chúng ta Ba Ngôi Thiên Chúa. Con đường này chứng tỏ rằng, Ba Ngôi được biểu lộ cách trọn vẹn ở nơi đích điểm các biến cố của đời sống nhân loại của Đức Giêsu. Tột đỉnh của mặc khải nằm trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô là mầu nhiệm mặc khải Ba Ngôi Thiên Chúa. Bài giảng của thánh tông đồ Phêrô vào ngày Lễ Ngũ Tuần cũng đem lại cho chúng ta một ví dụ điển hình (Cv 2, 14, 36).
    Bài thuyến giảng có tính tông truyền này được gửi tới những người Do Thái ở Jérusalem. Trong đó, thánh Phêrô giải thích rằng “Đức Giêsu Nadaret là người được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép lạ, điềm thiêng và những dấu lạ giữa anh em, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Cv 2, 22- 24), và xa hơn một tí nữa: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2,32-33). Rồi thánh Phêrô kết luận: “Vậy, toàn thể nhà Israel biết chắc điều này: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt người làm Đức Chúa và là Đấng Kitơ”â (Cv 2, 34).
    Trong bài giáo lý này, thánh Phêrô bắt đầu từ con người Đức Giêsu và những điều Đức Giêsu đã thực hiện, rồi tưởng nhớ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với chủ ý là dẫn đến việc tuyên xứng vinh quang phục sinh của Ngài. Đời sống của Đức Giêsu đạt tới đỉnh điểm trong việc Ngài được tôn vinh. Thánh Phêrô đặt nổi sự mới mẻ mà sự tôn vinh này mang lại. Thế nhưng sự phục sinh của Đức Giêsu là một biến cố, nơi mà cả ba tác giả đều đề cập đến Đức Giêsu, Thiên Chúa, được đồng nhất với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi được gọi tên khác nhau, phân biệt nhau. Việc tán dương Đức Giêsu phục sinh làm sáng tỏ uy quyền sống động và sự hiệp nhất của Ngài với Chúa Cha: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và Đấng Kitô”. B?o rằng Đức Giêsu là Đức Chúa (kirios), chính là nhận biết phẩm tính của Ngài khả dĩ so sánh với phẩm tính của Thiên Chúa. Danh xưng “ Đức Chúa” này được liên kết với việc tôn thờ mà các Kitơ hữu thể hiện với Đức Kitô và danh xưng này cũng diễn tả niềm tin phục sinh. Với quyền năng tối thượng của mình, Đức Giêsu có các đặc quyền từ Thiên Chúa. Ngài chia sẻ địa vị thần linh của Cha Ngài: “Đức Chúa phán cùng Chúa thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Cv 2,34). Việc trưng dẫn Thánh Vịnh 110, 1 này chứng tỏ Đức Giêsu được tôn vinh và giữ một vị trí duy nhất. Ngài ở với Chúa Cha trong sự thân mật thần linh sâu xa nhất[1]. Còn thánh Phaolô thì diễn tả câu thánh vịnh đó theo cách thức so sánh khi ngài giải thích về việc đón nhận sứ vụ loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa “ liên quan đến” Con của Người, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Xét như một người phàm, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Vua Đavít. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Cv 1, 3-4). Sự phục sinh vinh quang mặc khải Đức Giêsu như là Con Một trong sức mạnh của Thánh Thần. Danh xưng “Con Một” ở đây diễn tả sự hiệp nhất sâu xa của Đức Giêsu với Cha Ngài, một sự hiệp nhất thần linh đúng theo nghĩa đen như sự tôn vinh Đức Giêsu tỏ ra cho mọi người đều biết[1].
    Trong bài giảng đầu tiên vào ngày Lễ Ngũ Tuần của Thánh Phêrô, Chúa Cha được trình bày dưới danh xưng là “ Thiên Chúa”. Chúa Cha đã hoạt động qua Đức Giêsu. Ngài đã giải thoát Đức Giêsu khỏi cái chết và Ngài đã tôn vinh Đức Giêsu ở bên hữu Ngài. Đối với Chúa Thánh Thần, tiêu biểu nhất, Ngài xuất hiện trong đó như hồng ân phục sinh. Thánh Thần được đổ tràn qua việc Đức Giêsu được tôn vinh: ân huệ Thiên Chúa là hoa trái của việc tôn vinh Đức Giêsu[1]. Nói cách khác, việc tán dương vinh quang chứng tỏ Đức Giêsu ở trong thân ph?n của Đấng ban tặng Thánh Thần (Ngài đã đổ tràn Thánh Thần). Trong mức độ đã nhận được sự sung mãn Thánh Thần, Đức Giêsu ở trong tình trạng được tôn vinh, căn cứ vào đó, Ngài ban dồi dào cũng một Thánh Thần này. Và chính trong Thánh Thần vào Lễ Ngũ Tuần mà Thánh Phêrô tuyên xưng sự hiệp nhất của Chúa Con với Chúa Cha.
    Người ta có thể nắm bắt giáo huấn này theo cách thức sau đây. Đó là chính Thiên Chúa tràn đổ Thần Khí. Việc đổ tràn Thần Khí là một đặc quyền thần linh. Thế nhưng, Thiên Chúa thì ở trên trời, vì vậy, để đổ tràn Thánh Thần thì phải ở nơi Thiên Chúa ở, và đó chính là việc tán dương sự phục sinh mang lại cho nhân tính của Đức Giêsu: Đức Giêsu được tôn vinh ở trên trời và trong nhân tính được tôn vinh của mình bên hữu Chúa Cha, Ngài thực hiện quyền linh này hệ tại việc tràn đổ Thánh Thần[1]. Sự kiện thăng thiên của Chúa Kitô biểu lộ thần tính trong tư cách làm con và ban cho nhân tính trở về với ngai toà mà thần tính đã không bao giờ lìa bỏ, và từ đó, bây giờ Thánh Thần được tuôn đổ dồi dào. Sự tôn vinh Chúa Ki Tơ mang lại ơn cứu độ cho chúng ta trong tư cách là “được đặt trên ngai các tầng trời, trong phẩm vị Thiên Chúa và chủ tể của Ngài, từ đó, Ngài trao gửi các ân huệ thần linh cho con người[1]. Điều đó giúp chúng ta khám phá một đặc tính chủ yếu của Đức Giêsu trong tư cách là Chúa Kitô, Đức Chúa, Con Thiên Chúa, đó là Ngài tràn đổ Thánh Thần. Trong đó, chúng ta bắt gặp một hình ảnh như trong thị kiến mà thánh Stephanô đã nhận được trong lúc ngài tử đạo: “ Được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7, 56). Như thế, sự phục sinh vinh quang của Đức Giêsu mặc khải Thiên Chúa Ba Ngôi. Nó chứng tỏ sự gắn bó mật thiết và sự phân biệt của Ba Ngôi trong hoạt động cứu độ. Sau khi được phục sinh ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu trao ban Thánh Thần. Và trong Thánh Thần, những k? tin được dẫn đến chiêm ngắm Chúa Con đã được tôn vinh bên Cha Ngài.


    Như thế, biến cố Lễ Vượt Qua (tử nạn, phục sinh, thăng thiên và hiện xuống) mang lại một ánh sáng nền tảng để nắm bắt tính đồng nhất sâu xa của Đức Giêsu và để khám phá mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong Đức Giêsu. Dưới khía cạnh này, sự tôn vinh Đức Giêsu và ân huệ phục sinh trào tràn của Thánh Thần tạo nên trung tâm của sự mặc khải Ba Ngôi. “Sứ vụ của Ngôi Vị Thánh Thần sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh mặc khải một cách đầy đủ Ba Ngôi chí thánh[1].
    Trong việc tiếp cận đầu tiên này, chúng ta đã chú ý về Cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu. Nhưng Tân Ước cũng tỏ ra rằng, Chúa Thánh Thần hiện diện cách dồi dào trong Đức Giêsu ngay từ đầu. Cách riêng, cả bốn Tin Mừng mặc khải sự hiện diện năng động của Chúa Thánh Thần khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự trên Người (Ga1, 32) và có tiếng Chúa Cha phán rằng, Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” của Ngài (Mt1,11; 3, 17). Tuy các chứng cứ Tin Mừng trình bày một số điều khác nhau về phép rửa của Đức Giêsu nhưng chúng tập trung vào trong một khẳng định nền tảng: vương quốc Thiên Chúa đến qua Đức Giêsu và trong Đức Giêsu căn cứ vào tương quan tử hệ mà Đức Giêsu duy trì với Thiên Chúa, Cha Ngài, trong sức mạnh của Thiên Chúa. Một cách sâu xa, phép rửa Đức Giêsu gợi hứng khoa ảnh tượng Kitô giáo và là một mặc khải về Chúa Ba Ngôi. Nhưng, từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, đoạn Kinh Thánh về phép rửa đã gợi lên cho một vị độc giả dại dột rằng: Đức Giêsu đã trở nên Thiên Chúa trong lúc ngài chịu phép rửa hay Ngài chỉ nhận được Thánh Thần khi Thánh Thần ngự xuống trên Ngài “Như chim bồ câu”[1]. Vì vậy, truyền thống tốt nhất của thần học được giải thích để chứng minh rằng, nhân tính Đức Giêsu hoàn toàn được tràn đầy Thánh Thần từ giây phút đầu tiên Ngài được thụ thai[1]. Điều đó được giáo huấn của Hội thánh xác định: “Ngay từ lúc được thụ thai, nhân tính Đức Giêsu đã tràn đầy Thần Khí, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Ngài vô ngần vô hạn (Ga 3, 34)[1].
    Dưới ánh sáng của giáo huấn này, chúng ta phải hiểu rằng sự tràn đầy Thánh Thần được tỏ bày khi Đức Giêsu chịu phép rửa trong chừng mực mà khởi đi từ đó, Chúa Thánh Thần bắt đầu làm cho ân sủng của Ngài lan sang những người khác[1]do sứ vụ cứu độ của Ngài. Nói khác đi, Chúa Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu khi chịu phép rửa là “ vì chúng ta và để cứu độ chúng ta”, nghĩa là chứng tỏ rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến cho chúng ta trong tư cách là Đấng Cứu Độ[1]. Phép rửa của Đức Giêsu là bước khởi đầu sứ vụ của Ngài. Phép rửa đó mặc khải nhân tính Đức Giêsu được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lúc thụ thai. Như thế, lời Chúa Cha phán và dấu chỉ Thánh Thần chứng tỏ Đức Giêsu như là Đấng Messia ngay từ bước đầu của hoạt động công khai của Ngài. Phép rửa Đức Giêsu là một mặc khải, một cuộc hiển linh. Phụng vụ Giáo Hội biểu thị rất rõ điều đó khi kết hợp phép rửa Đức Giêsu với sự kiện hiển linh của Ngài và với dấu lạ tại Cana: “Chúng ta cử hành cả ba mầu nhiệm. Hôm nay, ngôi sao lạ dẫn đường các nhà chiêm tinh đến hang đá; hôm nay, tại tiệc cưới Cana, nước lã biến thành rượu ngon, hôm nay, Chúa Kitô Đấng cứu độ chúng ta được thánh Gioan làm phép rửa (tiền xướng thánh ca Tin Mừng, Kinh Chiều II, Lễ Hiển Linh[1]). Và theo cùng một nguyên lý của đời sống nhân tính Chúa Giêsu, hoạt động của Chúa Thánh Thần (Ngài tạo nên thân xác Chúa Kitô trong lòng trinh nữ Maria) mặc khải Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thật đã đến mặc lấy nhân tính như nhân tính của chúng ta: “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Việc Đức Giêsu thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứng tỏ rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thật”[1].

    Các chứng cứ Tân Ước khởi đi từ thiên tính trong tư cách làm con của Đức Giêsu và sự tiền hữu của Ngài cống hiến cho ta một “cổng vào” thứ hai để nắm bắt mặc khải Ba Ngôi Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô, Đấng sống trong thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ mình vì chúng ta trong cuộc Nhập Thể và vâng phục cho đến chết. Thánh Gioan xác định Chúa Kitô Giêsu trong tư cách là Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và là Thiên Chúa “từ khởi thuỷ” (Ga 1, 1-2), “Con Một Thiên Chúa, Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha” (Ga 1,18) và “Đấng được Chúa Cha sai đến trong Thế Gian” (Ga 3,17; .v.v…). Đức Giêsu “đến” trong thế gian, Ngài được Chúa Cha sai đến trong thế gian. Chủ đề “đến” và “sai đi” xác định sự tiềân hữu của Đức Giêsu từ trời đến. “Trước khi có Abraham, thì tôi, tôi hằng hữu” (Ga 8, 58). Đức Giêsu đi vào trong thế gian do một hành động mà Ngài tự nguyện thực hiện với Chúa Cha. Theo như “cổng vào” thứ hai này, Tân Ước cho thấy rằng, thần tính Đức Giêsu không thể cách biệt với Thánh Thần, điều này được tìm thấy điểm khởi đầu của tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và đã nói. Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ đáng kính phục, nhưng Ngài là Con Một Thiên Chúa nhập thể được Chúa Cha sai đến. Chính trong Ngài và nhờ Ngài mà Thánh Thần được đổ tràn. Chúa Ba Ngôi không phải chỉ xuất hiện lúc Đức Giêsu phục sinh. Bởi vì, ngay từ đầu Ngài là nguồn mạch làm sáng tỏ nguồn gốc đời sống nhân loại Đức Giêsu, rồi đến sứ vụ của Ngài, tức là cuộc khổ nạn cứu độ và sự phục sinh vinh quang của Ngài. Mầu nhiệm về tính đồng nhất thần linh của Đức Giêsu trong tương quan cội nguồn của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thành Thần mạc khải ý nghĩa sâu xa nơi biến cố Giáng Sinh và cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu. Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần, đó là Con Thiên Chúa đích th?c. Đấng chết trên cây thập giá làm lễ vật dâng lên Chúa Cha, chính là Con Thiên Chúa đã đến cứu độ nhân loại. Từ mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitôâ, nghĩa là sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Con với Cha Ngài đã ban Chúa Thánh Thần, Đấng được đổ tràn trong Giáo Hội.
    Như thế, nhờ Con Thiên Chúa nhập thể, chết và được tôn vinh trong sự trào tràn Thánh Thần, những người tin được đi vào trong sự hiệp thông với Chúa Cha. Đó là niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng cho phép chúng ta nắm bắt ý nghĩa về các biến cố của Tân Ước: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một mình đến (trong thế gian)” (Ga 4, 4); “Thiên Chúa đã sai Con Một mình đến trong lòng chúng ta mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Gl 4, 6).
    Dù cách tiếp cận niềm tin vào Ba Ngôi nào đi nữa thì ân huệ cũng cung ứng cho chúng ta cách tiếp cận đó một chìa khoá. Thật vậy, chính Thánh Thần là Đấng ban cho con người đi vào trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa và Cha Ngài. Đặc biệt, thánh Phaolô là người làm nổi bật kinh nghiệm về ân huệ Thánh thần. Chính người trình bày đời sống kitô hữu như là một sự tham dự vào Chúa Kitô, một đời sống với Chúa Kitô. Qua phép rửa tội, các kẻ tin được “mai táng” với Chúa Kitô để được sống với Ngài trong đời sống mới “như Chúa Kitô đã phục sinh kẻ chết nhờ vinh quang của Chúa Cha” (x. Rm 6, 1-11). Sự hiệp nhất này với Chúa Kitô chết và phục sinh được Chúa Thánh Thần mang lại: khi đón nhận Thánh Thần này, là Thánh Thần của Chúa Kitô, các kẻ tin được thuộc về Chúa Kitô và được đồng hình đồng dạng với Người. Đời sống mới “trong Chúa Kitô” là một đời sống “trong Thánh Thần” và “bởi Thánh Thần” (x. Rm 8,1-17): “Anh em hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 1, 18). Chúa Thánh Thần liên kết những kẻ tin với Chúa Kitô khi ban cho họ được trở nên con cái Thiên Chúa và như thế, Ngài dẫn đưa họ đến với Chúa Cha: “Anh em hãy nhận lấy Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Abba! Cha ơi!”. “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 15-16). Ở đây, chúng ta gặp lại con đường sống của các kẻ đã được thanh tẩy mà chúng ta đã có dịp phác hoạ tư tưởng của Thánh Irénée và thánh Basile de Césasée trên đây. Ân huệ của Thánh Thần đem lại sự hiệp nhất với Chúa Con và dẫn đưa con người đến với Chúa Cha. “Nhờ Thần Khí, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2, 18). Chính ở trong Chúa Thánh Thần mà chúng ta tiến vào Chúa Ba Ngôi và cùng trong Thánh Thần mà đức tin này khuôn đúc nên đời sống Kitô hữu.
    Chúng ta hãy tóm tắt các yếu tố đầu tiên này. Một bên, theo ngôn từ về đời sống dương thế của Chúa Giêsu Kitô, thì những biến cố Vượt Qua mặc khải Chúa Ba Ngôi theo cách thức huyền nhiệm. Trong việc Thánh Thần được đổ tràn bởi Đức Giêsu phục sinh, những người tin tuyên xưng vinh quang thần linh của Con Thiên Chúa cùng với Cha Ngài. Đàng khác, ngay từ đầu, chính niềm tin vào Ba Ngôi cho phép chúng ta nắm bắt ý nghĩa sâu xa về mầu nhiệm nhập thể, rồi đến mầu nhiệm vượt qua và biến cố ngũ tuần: Chúa Cha sai Con Một và Thánh Thần vào trong thế gian. Giữa hai lối tiếp cận đó không có một sự ngắt quảng nhưng có sự liên tục: chúng tạo nên như một vòng tròn. Giáo hu?n có thế giá nhất về Chúa Ba Ngôi nhận được ánh sáng đức tin nơi biến cố phục sinh của Đức Giêsu và đến lượt mình, niềm tin vào Ba Ngôi làm sáng tỏ tính đồng nhất của Đức Giêsu, đời sống của Ngài giữa nhân loại, cái chết và sự phục sinh của Ngài cũng như hoạt động mà Đức Giêsu tiếp tục thực hiện hôm nay trong Giáo hội.
    Đồng thời, giáo huấn Kinh Thánh liên quan đến Ba Ngôi thì hoàn toàn đơn thuần và yêu sách. Đơn thuần vì nó cho thấy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự duy nhất và trong các tương quan mà nó mạc khải hoạt động cứu độ của các Ngài vì lợi ích cho con người. Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm hiệp thông. “Bạn thấy Chúa Ba Ngôi khi bạn thấy đức ái”[1]. Thế nhưng giáo huấn này cũng là một yêu sách. Nó đòi hỏi một sự chăm chú lắng nghe và đồng thời, nó kêu gọi một sự hiểu biết trong đức tin. Nó mời gọi đi đến một sự chiêm ngưỡng Ba Ngôi, một sự chiêm ngưỡng vượt qua những gì mà chúng ta có thể hiểu được. Thánh Âutinh lưu ý đề tài Kinh Thánh như sau.
    Cách nói của Kinh Thánh thì mọi người dễ chấp nhận, nhưng ít người có thể thấu hiểu ý nghĩa sâu xa của nó[…]. Kinh Thánh mời gọi tất cả chúng ta bằng lời nói khiêm cung, không chỉ để dưỡng nuôi chúng ta bằng chân lý hiển nhiên mà còn thanh luyện chúng ta bằng chân lý bí ẩn. Chân lý này được chứa đựng trong những nơi sáng tỏ cũng như trong những nơi tối tăm. Nhưng sợ rằng, những điều sáng tỏ lại trở nên dịp khinh thường. Chúng cũng tạo nên sự khát khao. Sự khát khao này có thể nói là đem lại cho chúng ta những điều mới mẻ và chúng ta đi vào trong những điều mới mẻ đó với cách thú vị hơn. May mắn thay, những điều mới mẻ đó điều chỉnh những tinh thần sai lạc, đồng thời nuôi dưỡng những tinh thần nhỏ bé và làm hài lòng những tinh thần cao thượng hơn[1].
    Cách nói của Kinh Thánh thì gần gũi với mọi người, vì Kinh Thánh không phải là chủ nghĩa bí truyền. Thế nhưng sự hiểu biết Kinh Thánh cách sâu xa lại là điều khó khăn. Thánh Âutinh lưu ý đến hai khía cạnh. Một đàng, Kinh Thánh “giáo dục” đức tin của mọi kẻ tin qua những lời trong đó mầu nhiệm được diễn tả cách rõ ràng và hiển nhiên. Đàng khác, nhờ những lời mầu nhiệm đó, Kinh Thánh “rèn luyện” lý trí những kẻ tin được tiến bộ hơn, đồng thời nó thanh luyện trí khôn của họ trong sự tìm kiếm chân lý. Chúng ta cần phải xác định thêm rằng: mọi điều thiết yếu cho ơn cứu độ được diễn tả cách rõ ràng và hiển nhiên trong một vài đoạn sách nào đó. Trong mọi trường hợp, mầu nhiệm vẫn tồn tại ở bên kia lý trí chúng ta: nó vạch ra một sự chiêm ngưỡng được thực hành trong sự hèn mọn. Thần học về Ba Ngôi là một sự thực hành thiêng liêng.


    [1] Catéchisme de l'Eglise catholique, n° 504.
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 8 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com