|
|
Đức Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa
Khi bàn về Chúa Cha, chúng ta cũng đã nói đến Chúa Con, vì lẽ các Ngài có tương quan với nhau. Mặc khải Chúa Cha và mặc khải Chúa Con xảy ra cùng lúc và có tính hỗ tương: chúng bao hàm trong nhau. Niềm tin vào Ba Ngôi bắt nguồn từ sự nhận biết thần tính của Đức Giêsu và của Chúa Thánh Thần trong tương quan riêng biệt với Chúa Cha. Do đó, ở đây chúng tôi không có tham vọng thực hiện một cuộc đào sâu giáo huấn của Tân Ước liên quan Đức Giêsu, nhưng ít ra chúng ta cũng cần phải bàn đến một vài biểu hiện về thiên tính Ngài.
Khi Tân Ước dùng danh xưng “Thiên Chúa” (ho Theos), thì hầu như danh xưng này đều ám chỉ Chúa Cha. Tuy nhiên, người ta cũng bắt gặp nhiều đoạn Kinh Thánh, trong đó hạn từ “Dieu” được áp dụng cho Chúa Con[1]. Tông đồ Tôma thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 10, 28). Đó là lời tuyên xưng niềm tin Vượt Qua bằng giọng điệu tôn thờ, kết hợp hai danh xưng “Đức Chúa” và “Thiên Chúa”. Cách gọi Đức Giêsu là Thiên Chúa đã trực tiếp thừa nhận Ngài đã phục sinh và cách gọi đó được tìm thấy trong chính lộ của việc tuyên xưng Đức Giêsu trong tư cách là Đức Chúa (Seigneur) [có thể nói, đó là “danh từ riêng” của Thiên Chúa trong Kinh Thánh]. Các Tông đồ đã nhận biết cách đầy đủ rằng, “Chúa Kitô là Thiên Chúa qua tất cả những gì Ngài tỏ cho họ biết trong cuộc khổ nạn và phục sinh của ngài”[2]; chính nhờ “niềm tin vào sự phục sinh” mà các Tông đồ đã “tin cách chắc chắn rằng, Ngài là Thiên Chúa thật”[3].
Việc thư Do thái trưng dẫn Thánh vịnh 45, 7-8 cũng cho thấy một sự tương tự của hạn từ “Thiên Chúa”cho Đức Giêsu, Đấng ở đây được nhận biết như là Chúa Con: “Nhưng về Người Con thì Kinh Thánh nói: lạy Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn kỷ; vương trượng Ngài, vương trượng công minh” (Dt 1, 8). Phải chăng tác giả bức thư Do thái chỉ trưng dẫn Thánh vịnh này trong khi vẫn giữ nguyên hệ thống thuật ngữ của nó mà không hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa theo nghĩa đen hay là muốn nói rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật? Văn cảnh của Thánh vịnh này (sự khác biệt giữa Chúa Con và các Thiên thần) biện hộ có lợi cho việc khẳng định thần tính Đức Giêsu. Ở đây, người ta có thể giữ lại sự giải thích. Sự giải thích này có một biểu hiện thần tính Đức Giêsu với một xác suất lớn. Cuối cùng, câu Phúc Âm đầu tiên theo thánh Gioan; “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở bên Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” không có một sự mơ hồ hay tối nghĩa. Chúng ta có thể dịch vế thứ ba của câu Kinh Thánh này theo cách sau: “Và Thiên Chúa là Ngôi Lời” (hạn từ Thiên Chúa được đặt ngay ở đầu nhằm lôi kéo sự chú ý về nó). Chúa Giêsu phải không chỉ là “Thần linh” hay một “loại thần linh”, nhưng một cách đơn thuần, Ngài là Thiên Chúa.
Ở đây, danh xưng Ngôi Lời mà thánh Gioan liên kết với hạn từ “Thiên Chúa” (Dieu) có thể được xét như là đỉnh cao giáo huấn của Tân Ước liên quan đến Đức Giêsu. Trong khi làm sáng tỏ tính đồng nhất thần linh của Đức Giêsu, danh xưng Ngôi Lời này đặc biệt bày tỏ công trình mặc khải, sáng tạo và cứu độ được thực hiện qua Đức Giêsu. Những hoạt động và lời nói của Đức Giêsu được toàn bộ Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại, đặc biệt những lời “Tôi, tôi Hằng Hữu” (Ga 8, 58; x.Ga 8, 24.28; Ga 13, 19) được phơi bày ra ánh sáng nhờ sự khẳng định Ngôi Lời thần linh và sự tiền hữu đã “trở nên xác phàm” (Ga 1, 14). Danh xưng Ngôi Lời này sẽ tạo nên một chủ đề ưu việt về học thuyết Ba Ngôi, nhất là đang cống hiến điểm tiếp xúc với suy tư triết học. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở Chương V.
Việc xác định Đức Giêsu là Thiên Chúa đã được thánh Ignace d’Antioche vào đầu thế kỷ thứ hai triển khai cho các kitô hữu. Ngài nói về “ý muốn của Chúa Cha và của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Đối với các tín hữu, ngài tuyên bố: “Anh em là những người bắt chước Thiên Chúa, được tái sinh trong máu Thiên Chúa. Như thế, anh em đã hoàn thành cách hoàn hảo công trình phù hợp với bản tính anh em”[4]; “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã được cưu mang trong lòng Đức Maria, theo nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa, Ngài được sinh ra từ dòng dõi Đavít và từ Thánh Thần”[5]; “Xin anh em cho phép chúng tôi nên người bắt chước cuộc khổ nạn của Thiên Chúa chúng ta”[6]. Việc nhận biết Đức Giêsu như là Thiên Chúa được liên kết với sự đón nhận hoạt động cứu độ và ban tặng sự sống của Ngài.
Dù rằng, gọi Đức Giêsu như là “Thiên Chúa” nằm ngay trong Tân Ước, nhưng với sự thận trọng, kín đáo. Thật vậy, việc biểu lộ tính đồng nhất thần linh của Đức Giêsu được Tân Ước thể hiện và diễn tả theo nhiều cách thế khác nhau. Để minh hoạ (rất giới hạn) điều chúng tôi vừa nói, chúng tôi có thể lưu ý đến các hình thức sau đây. Chúng tôi đề nghị nắm bắt các hình thức này không phải theo cách “nguyên tử” (atomiste) hay tách biệt, nhưng trong sự đồng qui của chúng.
1. Đức Giêsu thực hiện những công việc của Thiên Chúa. Ngài tha tội (Mc 2, 7: “vậy ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa ra?”; x.Lc 7, 48). Ngài phục sinh kẻ chết (Mc 5, 35-43; Ga 11), Ngài cứu độ và sẽ thực hiện việc xét xử ngay từ bây giờ (Ga 5). Chính Đức Giêsu đích thân thi hành những hoạt động mà chỉ duy mình Thiên Chúa quyền năng mới có thể thực hiện được mà thôi. Các hoạt động đó mời gọi chúng ta suy tư nhằm dẫn đến chỗ nhìn nhận tính đồng nhất thần linh của Ngài dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thiên tính của Đức Giêsu là đối tượng của niềm tin. Thiên tính đó không được tìm thấy bằng lý trí nhân loại, nhưng nó được chứng thực bằng lời Chúa và bằng các dấu chỉ có ý nghĩa trọn vẹn của nó trong đức tin.
Được Thánh Thần linh ứng, các môn đệ đào sâu cái nhìn đức tin vào Chúa Kitô Giêsu. Các Ngài cho thấy Chúa Kitô hiện hữu trước khi vũ trụ được tạo thành và Ngài dẫn đưa vũ trụ đến cùng đích của nó (Ga 1, 3; 1 Cr 8, 6; Ep 1, 22; Cl 1, 15-20; Cv 22, 13;...).
2. Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến. Trên đây, chúng ta đã làm nổi bật tầm quan trọng của chủ đề sai đi (sứ vụ). Ở đây, chúng ta cần nói thêm rằng, sự sai đi có được một nét nổi bật đặc thù khi nó được liên kết với chủ đề về sự giáng thế của Đức Giêsu: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất” (Lc 12, 49). Theo các thánh sử Phúc Âm, thì các công thức “Thầy đã đến để” được Đức Giêsu loan báo có thể được xét đến như một sự biểu hiện về sự tiền hữu của Ngài. Được hiện hữu bên Chúa Cha ngay từ lúc khởi đầu, Đức Giêsu đã đến trong thế gian và như thế, Ngài chỉ cho chúng ta thấy ý muốn duy nhất giữa Ngài với Chúa Cha là Đấng sai phái Ngài đến[7].
Khi quyết định cứu độ nhân loại, là khi Đức Giêsu hoàn thành những lời chép trong Kinh Thánh. Một hình thức biểu hiện đặc thù của sự hoàn thành này hệ tại trong việc áp dụng cho Đức Giêsu những lời liên quan đến Đức Chúa là Thiên Chúa trong Cựu Ước. Việc di nhượng này chứng tỏ rằng, Đức Giêsu chia sẻ địa vị và các đặc quyền của Thiên Chúa. Chẳng hạn, thể thức “Tôi, Tôi Hằng Hữu” là trường hợp của sự biểu hiện tuyệt đối chính Đức Giêsu loan báo (Ga 8, 24.28.58; Ga 13, 19). Cũng vậy, người ta có thể nghĩ đến danh Đức Chúa, Danh mà người ta kêu cầu ơn cứu độ (Rm 10, 13).
3. Đức Giêsu được giới thiệu như là “Con Người”. Nếu tham chiếu Đn 7, 9-14, chúng ta thấy danh xưng “Con Người” này biểu thị tính quyết định thành lập Nước Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Giêsu và Ngài có một phẩm vị cao cả và siêu việt. Nhờ tước hiệu này mà bổn phận thiên sai và việc kinh qua sự yếu đuối và cái chết của Đức Giêsu được xác định, cũng như vinh quang mà ngài sắp được tỏ hiện trong ngày quang lâm[8]. Tước hiệu “Con Người” chứng tỏ rằng Đức Giêsu có ý thức về ngôi vị và sứ vụ của Ngài. Tước hiệu này biểu lộ uy quyền của Đức Giêsu nhưng đồng thời cũng biểu lộ nỗi gian truân đến chết nhục nhã trong cuộc khổ nạn của Ngài.
4. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Trên đây, chúng ta đã gợi lên danh xưng tuyệt đối “Chúa Con” (le Fils), qua đó, Đức Giêsu tự khẳng định về mình (đặc biệt chúng ta xem trong Mc 13, 32 và Mt 24, 36; Mc 12, 1-12 và các bản văn song song: x. Mt 11, 27; Lc 10, 22). Tước hiệu “Con Thiên Chúa” gần với tước hiệu “Chúa Con”. Nó biểu thị tính duy nhất của Đức Giêsu với Cha Ngài, tính duy nhất mà sự phục sinh đã biểu lộ cách trọn vẹn. Đặc biệt việc tuyên xưng Đức Giêsu như là “Con Thiên Chúa” được liên kết với niềm tin Vượt Qua (chẳng hạn xem Rm 1, 4); tuy nhiên, việc tuyên xưng đó không tự giới hạn giữa biến cố phục sinh và sự tán dương vinh quang Đức Giêsu, nhưng nó xác định sự đồng nhất sâu xa và “cội nguồn” của Đức Giêsu khi làm sáng tỏ toàn bộ hoạt động mặc khải và cứu độ của Ngài[9]. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” không phải chỉ được đặt trong tương quan với danh “Chúa Cha” và với sự biểu hiện tuyệt đối “Chúa Con”, mà nó cũng được đặt trong tương quan với hoạt động của Đức Giêsu, với giáo huấn và với lời cầu nguyện của Ngài (Mc 14, 36: Abba! Cha ơi!). việc tuyên xưng tử hệ thần linh của Đức Giêsu được thánh Phêrô trình bày như là một mặc khải (Mt 16, 16-17)[10].
5. Đức Giêsu là đối tượng được tôn thờ. Đức Giêsu được tôn thờ như các kitô hữu thể hiện với Thiên Chúa Cha. Người ta bắt gặp một tấm gương nào đó nằm trong vinh tụng ca đã được công thức hoá trong sách Khải Huyền chương 5, 13: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời”. Vinh quang này cũng được qui về cho Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu kitô. Amen!" (Rm 16, 27); “Chính nhờ Người [Con Thiên Chúa, Đức Kitô Giêsu] mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa” (2Cr 1, 20; x.Dđ 25). Một vài vinh tụng ca trực tiếp thưa với Đức Kitô: “Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời! Amen” (2Pr 3, 18; x. Rm 9, 5; 2Tm 4, 18; Kh 1, 6). Cũng thế, lời cầu xin kitô giáo chủ yếu thưa với Chúa Cha, như cũng có những lời cầu xin được thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (Cv 7, 59). Lời cầu nguyện này của thánh Têphanô áp dụng câu Thánh vịnh 31, 6 cho Đức Giêsu phục sinh, Đấng khẩn cầu Đức Chúa. Đó là tấm gương tuyệt hảo về lời kêu cầu danh Đức Chúa. Trong lời kêu cầu này, điều mà Cựu Ước nói về Đức Chúa được áp dụng cho chính Đức Giêsu. Vả lại, Tân Ước kết thúc bằng lời tung hô thưa lên với Đức Giêsu: “Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 20, 22).
Đặc biệt, chiều kích tôn thờ tập trung vào danh Đức Chúa (kurios) mà các kẻ tin qui gán cho Đức Giêsu: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 10-11). Danh xưng này diễn tả vinh quang siêu việt, phẩm vị và quyền năng tốt lành của Đức Giêsu phục sinh (Cv 2, 36; Ga 20, 28; Rm 10, 9: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và nếu lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”;...). Điều đó có nghĩa là Đức Giêsu chia sẻ những đặc quyền của chính Thiên Chúa trong vinh quang của Ngài (Pl 2, 10-11; x.Is 45, 23-24). Tuy nhiên, dẫu rằng danh xưng Đức Chúa diễn tả sự tán dương vinh quang Đức Giêsu theo nghĩa rộng, thì Tân Ước cho thấy rằng, phẩm tính chủ tể này chỉ rõ con người Đức Giêsu trong hữu thể sâu xa ngay từ cội nguồn. Ngay ở đầu Phúc Âm theo thánh Luca, bà Élisabeth gọi Đức Maria là “thân mẫu Chúa tôi” (Lc 1, 43). Từ đó, danh xưng Đức Chúa trở nên cách gọi đặc trưng của các kitô hữu dành cho Đức Giêsu. Cách gọi này cũng được tìm thấy trong văn cảnh về Ba Ngôi: một Thần Khí, một Chúa, một Thiên Chúa (1Cr 12, 4-6).
Tóm lại, việc tôn thờ của Kitô giáo, các vinh tụng ca, các lời cầu nguyện cũng như các lời chúc phúc đều tạo nên sự biểu hiện trung tâm của phẩm tính thần linh của Đức Giêsu. Đặc biệt ngay từ những buổi đầu, đặc tính riêng biệt của niềm tin Kitô giáo được diễn tả trong việc tuyên xưng đức tin và trong việc tôn thờ là hai “vị trí” nền tảng của niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ trở lại khía cạnh này ở chương sau, khi đối chiếu tư tưởng thần học của thánh Basile de Césarée và với Kinh Tin Kính của Công Đồng Constantinople.
[1] Aux témoignages que nous indiquons ici, on peut ajouter Rm 9, 5. D'autres passages sont sujets à discussion : Jn 1, 18 ; Tt 2, 13 ; 2 P 1, 1 ; 1 Jn 5, 20. Sur le nom « Dieu » appliqué à Jésus, voir notamment Raymond E. Brown, Jésus dans les quatre évangiles, Paris, 1996, p. 237-273 ; Murray J. Harris, Jésus as God : The New Testament Use of Theos in Référence to Jésus, Grand Rapids, 1992.
[2] Saint Thomas d'Aquin, Commentaire sur saint Jean, 2, 22 (n° 414).
[3] Saint Thomas d'Aquin, Commentaire sur saint Jean, 16, 25 (n° 2151).
[4] Saint Ignace d'Antioche, Aux Éphésiens, Salutation et 1,1 (SC, 10 bis, p. 56-59).
[5] Saint Ignace d'Antioche, Aux Éphésiens, XVIII, 2 (SC, 10 bis, p. 72-75).
[6] Saint Ignace d'Antioche, AuxRomains, VI, 3 (SC, 10 bis, p. 114-115). C'est nous qui soulignons.
[7] Simon I. Gathercole, The Préexistent Son : Recovering the Christologies of Matthew, Mark, and Luke, Grand Rapids et Cambridge, 2006.
[8] Voir Jacques Schlosser, Jésus de Nazareth, Paris, 1999, p. 241-258 ; Charles Perrot, Jésus et l'histoire, Paris, 21995, p. 207-232.
[9] Il faut distinguer et réunir : 1° l'éclatante manifestation de Jésus comme « Fils de Dieu » par la nouveauté qu'apporte son exaltation glorieuse ; 2° la réalité impliquée dans cette filiation divine, qui concerne l'être profond et « originel » de Jésus depuis toujours.
[10] Voir Gerald O'Collins, The Tripersonal God : Understanding and lnterpreting the Trinity, Londres, 1999, p. 42-46.
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|