Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #11
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Những Thách Đố Của Lạc Giáo

    Trong chức năng giáo dục của mình, các Kinh Tin Kính quan tâm đến sự ân cần đặc biệt đối với lối diễn tả đúng đắn của đức tin, trong khi loại bỏ những sai lầm bóp méo của đức tin. Những sai lầm này cung cấp cho các Giáo Phụ cơ hội phản ánh cách tỉ mỉ hơn vế Chúa Ba Ngôi, đồng thời đưa Giáo Hội đến chỗ xác định công thức đức tin của mình. Khía cạnh này không chỉ liên quan đến quá khứ mà còn liên quan đến với chúng ta hôm nay nữa. Việc cân nhắc một sai sót cho phép chúng ta khám phá chiều sâu chân lý một cách tốt hơn và nắm bắt chân lý cách sâu xa hơn, hầu phân biệt đâu là nguyên nhân của sự sai sót để rồi kịp thời ngăn chặn nó. Để hiểu biết các thuật ngữ Kinh Tin Kính của Nicée- Constantinople phải xét đến ít là bốn trào lưu không chính thống đã đưa Giáo Hội xác định cách biểu lộ đức tin.
    Thuyết Dưỡng Tử tạo nên hình thức thứ nhất, c?i rễ của việc phủ nhận mầu nhiệm Ba Ngôi. Người ta cho rằng: “ Thuyết Dưỡng Tử” là một tập hợp của những trào lưu không chính thống, theo trào lưu tư tưởng đó, Chúa Giêsu là một con người bình thường được Thiên Chúa nhận làm như một người con. Chúa Giêsu không phải là Con Thiên Chúa theo bản tính nhưng theo dưỡng tử, có thể ví như các thánh mà thôi. Các thánh Giáo Phụ thường trình bày thuyết dưỡng tử theo cách sau đây: đối với những tác giả thuyết dưỡng tử, thì Chúa Giêsu là một con người thuần tuý (psilos anthropos purus homo) được Thiên Chúa ban cho ân sủng đặc biệt thuộc về tử hệ (filiation). Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến cư ngụ nơi con người Giêsu, nhưng ngôi vị Chúa Giêsu không ph?i là Ngôi Lời. Sự phong phú nổi trội của thuyết dưỡng tử cho thấy Chúa Giêsu là một con người giản dị và trong trắng nhờ đời sống đạo đức và nhờ ân huệ Thánh Thần. Do đó, Ngài xứng đáng trở nên “Thiên Chúa” nhờ ân sủng. Như vậy thuyết dưỡng tử đánh mất niềm tin vào Ba Ngôi khi chối bỏ thần tính của Chúa Con.
    Một hình thức biến dạng tinh tế và yêu sách hơn của niềm tin đối với sự hiểu biết được trình bày qua tổng hợp thứ hai của trào lưu dị giáo, đó là người ta có thể tổng hợp lại thuyết dưỡng tử dưới một danh nghĩa khác của “ Thuyết Nhất Tính”. Các người theo trào lưu này khai trừ hay không chấp nhận sự phân biệt thực giữa Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần nơi Thiên Chúa. Họ đã phê phán chỉ trích Kitô giáo chính thống là tuyên xưng tới hai hay ba Thiên Chúa. Họ đã thừa nhận chắc chắn rằng Kinh Thánh sử dụng các danh xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng họ chỉ xem đó như cách thức biểu hiện cùng một thể và duy nhất của Thiên Chúa. Sự giống nhau đó biểu hiện cách đa dạng, khi thì như là Chúa Cha, khi thì như Chúa Con (trong sự nhập thể), khi thì như Chúa Thánh Thần (trong Giáo H?i). Từ đó, lạc thuyết Modalisme (hình thái thuy?t) ra đời, đôi khi nó được gán cho trào lưu này, trào l?u mà người ta cũng còn gọi là (sabellianisme) có tên là Sabelius, một trong những người theo thuyết nhất tính. Bộ ba trong cách trình bày đó, thì Thiên Chúa chỉ là một ??n t? trong chính Ngài thôi. Vào thế kỷ thứ ba, Tertuliano kể lại cho chúng ta tư tưởng của Praxéas, một thành viên theo trào lưu này: “Ơng ta khẳng định một Thiên Chúa duy nhất, toàn năng và là Đấng tạo thành vũ trụ, đồng thời dựa trên tính chất duy nhất này mà ông ta lập thành một thuyết l?c giáo. Ông bảo rằng, chính Chúa Cha là Đấâng chịu thai trong lòng trinh nữ Maria, chính Ngài đã được sinh ra từ lòng trinh nữ Maria, Ngài đã chịu khổ hình và cuối cùng chính Ngài là Đức Giêsu Kitô”[1]. Từ đó một học thuyết ra đời có tên là “Patripasianisme” (Chúa Cha thụ khổ) đôi khi cũng được qui gán cho trào lưu này. Thuyết Nh?t Tính này là một hình thức của chủ nghĩa duy lý nhằm san bằng kế hoạch cứu độ Ba Ngôi. Thực ra đó chính là một lạc thuyết dựa trên sự duy nhất của Thiên Chúa. Thuyết nhất tính khơng th?a nh?n rằng Thiên Chúa trong chính b?n th? Ngài giống như Ngài tự mặc khải cho chúng ta. Lỗi lầm này đã khiến cho các tiến sĩ giáo hội phải suy xét đến mối tương quan giữa Ba Ngôi và sự duy nhất của Thiên Chúa (Tam vị nhất thể). Hơn nữa, nó cũng buộc các nhà thần học kitô giáo xác định tương quan giữa Ba Ngôi thể hiện trong chương trình cứu độ và Ba Ngôi nội tại (tương quan Ba Ngôi với lịch sử).
    Thực vậy, đối với niềm tin Kitô giáo thì Chúa Con được sinh ra bởi Chúa Cha, không lẫn lộn với Ngài nhưng thực sự phân biệt “theo số”[1]. Cách bố trí của Ba Ngôi biểu lộ trong kế hoạch cứu độ tồn tại trong chính thực tại của Thiên Chúa. Theo như Tertuliano giải thích thì Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chính vì để diễn tả thực tại tha tính này giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà Tertuliano đã triển khai việc sử dụng có tính hệ thống của hạn từ “Ngôi Vị”. Chúa Cha và Chúa Con chính là sự phân biệt “Ngôi vị chứ không phân biệt bản thể”, bởi lẽ bản thể này thì duy nhất[1]. Từ đó hạn từ ngôi vị biểu thị con số Ba ngôi nơi Thiên Chúa, trong khi “bản thể” lại chỉ rõ con số Một nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải biết ơn hình thái thuyết đã có công phục hồi hạn từ Ngôi Vị. Nhờ đó, Giáo hội Công Giáo dùng để xác định rõ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự hiện hữu riêng và phân biệt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Còn bên Đông phương, người ta đã triển khai việc sử dụng hạn từ Hy lạp “bản vị” (Hypostase) dưới sự ảnh hưởng đáng kể của Origène. Có ba “bản vị” (treis hypostaseis): Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[1]. Còn ở đây, sự đối lập với hình thái thuyết (như thể với phái ngộ đạo) đã đóng góp cho sự linh thánh của hạn từ thuộc lãnh vực đức tin này. Chúng ta cần phải xét xem điểm chú thích có tính hửu thể học của “thực tại cụ thể”, của hiện hữu đặc thù và của sự hiện hữu mà hạn từ Hypostase làm nổi bật. Theo nguyên ngữ, thuật ngữ này gợi lại “một vật thể bám chặt vào một vật thể khác cách kiên cố”. Ba Ngôi không phải là một sự việc cụ thể, cũng không phải là một sự tỏ hiện ra bên ngoài để chúng ta có thể quan sát, nhưng đích thực là hữu thể vô hình. Ba Ngôi cũng cùng thực tại liên đới nhau trong công cuộc cứu độ. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở các chương sau khi xét đến các ý nghĩa hạn từ Ngôi Vị.
    Khó khăn thứ ba áp đặt lên Giáo hội chính là do tư tưởng của Arius, nhất là do sự phát triển cách hỗn tạp của vài điểm giáo lý mà ông ta trình bày. Vào những năm 318-320, tại Alexandria, Arius quả quyết từ chối Hình thái thuyết và bị trục xuất khỏi xứ sở, có thể nói là vì tội chống đối. Ông ta không thể chấp nhận rằng, Chúa Con được Chúa Cha “sinh ra từ đời đời” cũng như không chấp nhận Chúa Con “đồng bản thể” với Chúa Cha. Thiên Chúa thì độc nhất vô nhị, “không được sinh ra” và vĩnh cửu. Bởi vì Chúa Con đã được sinh ra, nên Ngài không thể là vô thuỷ được. Vậy, Ngài không thể mang tính vĩnh cửu như Thiên Chúa được. Theo quan điểm của Arius, Chúa Con đồng vĩnh cửu với Thiên Chúa và ông ta lại trở về với khẳng định rằng Chúa Con đã không được sinh ra như Thiên Chúa, điều không thể có. Mặt khác, Chúa Con hay Ngôi Lời đã được sinh ra từ bản thể của Thiên Chúa, tức bản thể Thiên Chúa bị chia sẻ. Arius xem đó như là một quan niệm có tính vật chất của Thiên Chúa và một sự đổi thay trong Thiên Chúa. Hơn nữa, Arius không chấp nhận linh hồn nhân loại nơi Chúa Giêsu: các dục vọng có tính cảm xúc của Chúa Ki tô đã chịu (buồn, đau khổ) mà Kinh Thánh kể lại đã được qui gán cho bản tính của Ngôi Lời với tư cách như thế. Hoặc những dục vọng đó không phù hợp với sự bất biến của Thiên tính. Vì vậy, Arius phủ nhận tính vĩnh cửu của Ngôi Lời hay của Chúa Con: “có một lúc nào đó, Ngài không hiện hữu và Ngài hiện hữu trước khi được sinh ra, nghĩa là Ngài không có hiện hữu khởi đầu”[1]. Arius nhầm lẫn giữa sự kiện hiện hữu “không có khởi đầu” và sự kiện hiện hữu “không có nguyên lý” (theo đức tin công giáo, Chúa Con đích thực có nguyên lý là Chúa Cha, nhưng Chúa Con lại hiện hữu từ đời đời, nghĩa là không có khởi đầu). Vậy, Arius chủ trương rằng, Chúa Con là một thụ tạo (con người) được sinh ra từ hư vô do ý muốn của Thiên Chúa: Ngài là thụ tạo cao nhất (trỗi vượt) trong các thụ tạo. Vì vậy, Chúa Con không ngang hàng và cũng không đồng bản thể với Chúa Cha, nhưng Ngài đã qui phục sự đổi thay. Còn về Chúa Thánh Thần, thì chỉ ngang bằng một thụ tạo. Arius xem Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như ba bản vị không ngang nhau, một loại Ba Ngôi bị giáng cấp.
    Rút cuộc, Chúa Kitô của Arius không phải là Thiên Chúa thực cũng không phải là người thực. Theo phán đoán của trào lưu chính thống, thì Chúa Kitô được Arius trình bày không có khả năng mang lại sự cứu độ. Ngược lại, Arius đặt danh “Chúa Cha” ở bình diện thứ hai. Đối với ông, Thiên Chúa bất thụ sinh chỉ trở nên Chúa Cha khi sinh ra Chúa Con: “có một lúc nào đó, Thiên Chúa chỉ có một mình và không còn phải là Chúa Cha”. Giáo hội đã rơi vào sai lầm khi đánh giá rằng giáo lí này không còn là giáo lý Ki tô giáo nữa. Sau khi Công đồng Nicée (325) đã tố cáo giáo lý của Arius, các cuộc tranh cãi vẫn chưa tới hồi kết thúc. Vài nhà thần học đã tán thành sự “lệ thuộc” của Chúa Con đối với Chúa Cha, như thế có nghĩa là chắc chắn không có sự ngang hàng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Riêng đối với thánh Athanase d’Alexandre, lúc bấy giờ ngài đưa ra một chân dung người máy độc ác của bè lạc giáo. Lạc giáo này đã rửa tội cho “Arianisme”[1]. Các nhà thần học khác chấp nhận sự giống nhau giữa Chúa Con và Chúa Cha. Tuy nhiên, họ không đi đến chỗ nhìn nhận tính đồng nhất bản thể.
    Một trong những người gây ra khủng hoảng là Eunome, ông ta chủ trương rằng, về việc đồng bản thể thì một cách triệt để, Chúa Con khác Thiên Chúa ở chỗ là không được sinh ra[thông thường người ta xác định giáo lý này bởi thuật ngữ “anomeisme” (thuyết dị đồng). Trong một tác phẩm hộ giáo được biên soạn vào năm 360, Eunome giải thích rằng, việc bất thụ sinh hoàn toàn xác định chính bản thể của Thiên Chúa, điều mà Thiên Chúa là. Ông ta còn thêm rằng Thiên Chúa bất thụ sinh và bất biến thì không thể sinh ra Chúa Con, Đấng ngang hàng với Ngài được. Vì vậy, ông ta cho rằng Chúa Con như thể là công trình đến từ hoạt động của Thiên Chúa và do đó bản thể Chúa Con thì khác với bản thể Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng được sinh ra là một thụ tạo của Thiên Chúa và là Đấng sáng tạo Thánh Thần[1]. Chúng tôi sẽ đi xa hơn đối với những trở ngại suy tư được đặt ra do lạc thuyết của Eunome, vì chúng là một va chạm lớn trong việc tu chỉnh giáo huấn về Ba Ngôi của Giáo hội. Quả thực, Eunome de Cyzique đã ép buộc các tiến sĩ Ki tô giáo phải triển khai một giáo thuyết Ba Ngôi chân thật, một đòi hỏi ngoạn mục.
    Giữa các điểm giáo lý không chính thống đã đưa giáo hội đến chỗ xác định niềm tin của mình vào Ba Ngôi và điểm thứ tư chúng ta cần phải nêu lên đó là sự phủ định thiên tính của Thánh Thần do những kẻ tin, trái lại họ nhìn nhận thiên tính Chúa Con. Nhóm thứ nhất cho chúng ta biết nhờ các lá thứ của Athanase d’Alexandrie gửi cho Sépapion (được viết ít lâu trước hoặc trong vòng những ngày đầu năm 360). Đó là những thích nghi được gọi là “chí tuyến” do thánh Athanase đã vận dụng cách khéo léo những bản văn Kinh Thánh đã viện dẫn nhằm ích lợi cho thiên tính của Chúa Thánh Thần. Vì những bản văn đó làm sáng tỏ những thích nghi như những nét đặc trưng của các từ ngữ hoặc những cách nói (trong tiếng Hy lạp là tropoi). Theo thánh Athanase thì giáo lý của họ như sau “Chúa Con là Thiên Chúa nhưng Chúa Thánh Thần là một thụ tạo; Ngài chỉ là một thiên thần siêu đẳng trên các thiên thần khác mà thôi. Vậy Ngài là “một bản thể khác” với Chúa Cha và Chúa Con. Như thế, không còn là Chúa Ba Ngôi nữa, nhưng là một hình thức “nhị nguyên” (Dualite; Duas)”[1]. Sự khó khăn gặp phải những người phủ nhận thiên tính của Thánh Thần không phải là không quan trọng. Khái niệm “nhiệm sinh” cho phép chúng ta giải thích rằng: Chúa Con được sinh ra bởi Chúa Cha hoặc Chúa Thánh Thần đã không được sinh ra. Như thế thì làm sao gọi là Thiên Chúa được? Phải chăng người ta có thể khẳng định sự hiện hữu của một ngôi vị thần linh được sinh ra (Chúa Con) cũng như không được sinh ra (Chúa Cha)?
    Trong câu trả lời của mình, thánh Athanase gọi Bí Tích Thánh Tẩy là Bí tích tuyên xưng Ba Ngôi (tam vị nhất thể)[1]. Athanase đưa ra luận chứng mà ngài đã áp dụng vào Chúa Con trong cuộc tranh luận chống bè rối Arius: Chúa Thánh Thần đem lại sự sống thần linh, Ngài thánh hoá và “thần thánh hoá” những kẻ tin. Trong khi đó, không có bất cứ thụ tạo nào làm được như thế. Chỉ có Thiên Chúa có khả năng thần thánh hoá. Vì vậy, sự hoạt động của Chúa Thánh Thần (cũng như hoạt động của Chúa Con) cho thấy rằng Ngài là Thiên Chúa thực[1]. Thánh Athanase cũng lưu ý rằng sự phản đối thiên tính của Chúa Thánh Thần rốt cuộc đưa đến việc phủ nhận thiên tính của Chúa Con. Bởi vì, “so với Chúa Con, Chúa Thánh Thần cũng ngang hàng và cùng bản tính với Chúa Cha”[1]. Thánh Athanase cho thấy rằng việc tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tạo thành một toàn thể bất khả phân ly. “Điều kiện đặc thù mà chúng ta đã nhìn nhận như là điều kiện đặc thù của Chúa Con đối với Chúa Cha. Chúng ta biết rằng, Đó cũng chính là điều kiện đặc thù của Chúa Thánh Thần đối với Chúa Con như có lần Đức Giêsu đã quả quyết: mọi sự của Cha đều là của Thầy (Ga 16, 15), cũng như chúng ta cũng sẽ biết rằng, qua Chúa Con, Chúa Thánh Thần cũng có tất cả những điều đó”[1].
    Gần như thánh Athanase, thánh Basile cũng gặp phải một vấn đề tương tự. Số là ở Césarée khi cử hành phụng vụ, thánh Basile kết thúc vinh tụng ca Ba Ngôi theo một cách thức kép như sau: khi thì ngài tán dương Chúa Cha “với” (meta) Chúa Con, cùng với (sun) Chúa Thánh Thần. Khi thì ngài tôn dương Chúa Cha qua (dia) Chúa Con, trong (en) Chúa Thánh Thần”. Giữa những người tham dự, có một số người phê phán việc sử dụng công thức thứ nhất “với Chúa Thánh Thần”[1]và họ không chấp nhận công thức đó. Trong lịch sử các tín điều, người ta gọi là “pneumatomaques” nghĩa là những đối thủ của Chúa Thánh Thần (sự biểu hiện này bắt gặp nơi thánh Basille), họ không muốn chấp nhận rằng Chúa Thánh Thần có cùng quyền năng và thiên tính như Chúa Cha và Chúa con cũng như không chấp nhận Chúa Thánh Thần có cùng vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con. Vì vậy, thánh Basile có thể áp dụng cho thấy rằng công thức “avec le Fils” (với Chúa Con) diễn tả niềm tin cách đặc thu vào phẩm tính của Chúa Con và áp dụng thành ngữ “avec le Saint-Esprit” là điều chính xác, phù hợp hoàn toàn với Kinh Thánh và truyền thống[1]. Basile qui tập nhiều bản văn Kinh Thánh cho thấy rằng Chúa Thánh Thần thực hiện các hoạt động thần linh cách đặc thù: Ngài tạo dựng, mặc khải, thánh hoá; trong nghi lễ thánh tẩy, Chúa Thánh Thần thánh hoá thụ nhân. Công thức “avec le Saint-Esprit” mặc khải rằng Chúa Thánh Thần có cùng quyền năng và phẩm tính như Chúa Cha và Chúa Con. Dó đó, Ngài cũng có cùng vinh quang như hai Ngôi Vị kia.
    Trên đây, chúng ta đã lưu ý đến giá trị của các giới từ trong các vinh tụng ca. Phụng vụ là nơi hết sức thuận tiện cho việc rao giảng đức tin. Khi Giáo hội cử hành các Bí Tích là khi Giáo hội tuyên xưng đức tin thừa kề các Tông Đồ. Đó là sáng suốt áp dụng nguyên tắc: lex orandi, lex credendi (luật cầu nguyện là luật đức tin[1]).
    Để diễn tả thần tính Chúa Thánh Thần, thánh Basile đã chọn cách nói về “sự bình đẳng danh dự” giữa Chúa Thánh Thần với Chúa Cha và Chúa Con. Giới từ “với” được sử dụng trong vinh tụng ca Ba Ngôi biểu lộ cách chính xác sự “bình đẳng danh dự” này. Đó là cách thức cụ thể của việc tuyên xưng tính đồng bản thể giữa Chúa Thánh Thần với Chúa Cha và Chúa Con. Đặc biệt, thánh Basile dựa trên công thức nghi lễ Thánh Tẩy: “Chúa Thánh thần được tìm thấy với danh xưng là Thiên Chúa theo cùng một cách thức như Chúa Cha và Chúa Con. Bởi vì, danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đã được công bố cùng một cách thức. Như thế, phải chăng Chúa Thánh Thần có mối tương quan với Chúa Con cũng như Chúa Con tương quan với Chúa Cha theo như thứ tự của các từ được truyền đọc khi c? hành Bí Tích Thánh Tẩy”[1]. Trước hết, những gì đã hướng dẫn chúng ta tôn vinh Chúa Thánh Thần, đó là vinh dự (timè) mà Chúa Giêsu đem đến cho Ngài khi liên kết Ngài với chính Chúa Giêsu và với Chúa Cha trong phép thánh tẩy; thứ đến, đó chính là sự kiện mà mỗi người chúng ta được đẫn vào trong sự nhận biết Thiên Chúa qua việc khai tâm (initation) theo cùng một kiểu mẫu”[1]. Giới từ “avec” được thay thế trong vinh tụng ca tương hợp với liên từ phối hợp “et” trong công thức rửa tội. Vì vậy, có một sự tương hợp chặt chẽ giữa ba điều cơ bản này:
    1- công thức rửa tội;
    2- Kinh Tin Kính về Chúa Ba Ngôi;
    3- vinh tụng ca.
    Chúng tôi muốn giải thích thêm ngoài phạm vi chủ đề này đòi hỏi, để cho ăn khớp với ý tưởng Kinh Thánh, bởi vì, chúng ta tin trong tư cách là chúng ta đã được rửa tội và chúng ta tôn vinh trong tư cách chúng ta tin. Do đó, chính vì phép Thánh Tẩy đã được ban cho chúng ta nhờ Đấng Cứu Độ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nên chúng ta bày tỏ một đức tin hoàn hảo sao cho phù hợp với bí tích này và thể hiện việc tôn vinh cho phù hợp với niềm tin này khi tôn vinh Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Bởi vì chúng tôi tin chắc rằng, Phép Thánh Tẩy không xa lạ với bản tính thần linh. Thực vậy, cái gì xa lạ theo bản tính thì không thể tham dự vào cùng những danh dự[1].
    Ở đây, thánh Basile đưa ra một tiêu chuẩn mà ngày hôm nay hãy còn có một giá trị quyết định. Những lời giải thích của ngài được hướng dẫn bởi sự mạch lạc của đức tin Ki tô giáo trong các biểu hiện của nĩ (phép thánh tẩy, Kinh Tin Kính, việc ca ngợi Thiên Chúa). Có một sự nhất quán chặt chẽ giữa các Bí Tích, việc tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi và việc ca ngợi Thiên Chúa của Giáo hội.
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 7 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com