Giáo lý về niềm tin Ba Ngôi chung cho cả Giáo hội Công Giáo lẫn các Giáo hội Chính Thống có lẽ được tóm tắt qua Tuyên Ngôn sau đây của Công Đồng Constantinople II, Năm 553:
Nếu người nào không tuyên xưng một bản tính (phusis, natura) hay bản thể (ousia, substantia) duy nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, một quyền năng (dunamis, virtus), một chức phận –(exousia, potestas), một Chúa Ba Ngôi, đồng bản thể (homoousios, consubstantialis), một thần tính được tôn thờ trong ba Bản Vị (hupostaseis, subsistentiae), hoặc Ba Ngôi Vị (prosôpa, personae), thì người đó sẽ bị tuyệt thông. Bởi vì, chỉ có một Thiên Chúa và Chúa Cha là Đấng làm nên mọi sự; một Chúa Kitô, nhờ Ngài mọi sự hiện hữu; một Chúa Thánh Thần, trong Người mọi sự được tạo thành[1].
Câu thứ nhất của bản văn này tuyên bố đức tin trong các thuật ngữ được ấn định do các Giáo phụ Capadocia. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa duy nhất. Bản thể hay yếu tính của các Ngài, cũng như quyền năng các Ngài là duy nhất. Chúa Ba Ngôi được các kitô hữu tôn thờ thì “đồng bản thể”. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt thực sự; các Ngài là ba Bản Vị hay ba Ngôi Vị; mỗi Ngôi hiện hữu hay tồn tại theo cách riêng. Câu thứ hai, đưa vào liên từ “vì” (car), nghĩa là công thức tín lý này diễn tả niềm tin Kinh Thánh (x. 1Co 8, 6). Câu thứ hai này cũng nhắc lại mục đích của việc diễn tả tín lý đức tin: Nhằm bảo đảm sự hiểu biết đúng đắn (chính xác) mặc khải Kinh Thánh. Cơng trình sáng tạo và ân sủng được hoàn thành nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Chúa Con và Chúa Thánh Thần mang lại đời sống thần linh và các Ngài dẫn đến Chúa Cha vì các Ngài hiện hữu cách phân biệt trong mối tương quan đồng bản thể với Chúa Cha.
Cách diễn tả đức tin này là do Công Đồng chung thứ V thừa hưởng sự cố gắng nghiền ngẫm giáo lý lâu dài và kiên nhẫn của các Giáo Phụ. Sự đóng góp đặc biệt quan trọng trong số các Tiến Sĩ mà đặc biệt là các giáo phụ miền Capadocia; đó là thánh Basile de Césarée, thánh Grégoire de Nazianze và thánh Grégoire de Nyssée.