|
Học Thuyết Về Chúa Ba Ngôi Của Các Giáo Phụ Capadocia
Chúng ta đã nhắc lại lạc thuyết của Eunome de Cyzique. Lập trường căn cốt của ông ta là đã xác định ý tưởng “không được sinh ra” với việc đồng bản thể của Thiên Chúa; Thiên Chúa “tự bản thể Ngài đã không được sinh ra” (ousia agennestos)[1]. Sau nữa đối với Eunome Thiên Chúa không thể tự chia sẻ bản tính riêng của Ngài qua sự sản sinh. Giữa Đấng không được sinh ra và Đấng được sinh ra không có chung bản thể, bằng không đã có hai Đấng không được sinh ra. Vì vậy cần phải loại bỏ mọi tư tưởng về sự giống nhau. Cách gọi “được sinh ra” xác định bản thể Chúa Con, Đấng đã tạo ra trong khi bản thể trước kia đã không hiện hữu. Đối với danh từ Cha, ông ta xác định một năng lực của Đấng không được sinh ra, khác với bản thể của Ngài. Một cách tự nhiên lập luận này đã loại trừ mọi khả năng của việc sản sinh nơi Thiên Chúa. Điều này khiến thánh Basile de Césarée phải tu chỉnh giáo lý biện giải đầu tiên liên hệ với thần học về Chúa Ba Ngôi. Giáo lý này cung cấp một chú ý quan trọng đối với ngôn ngữ của chúng ta[1].
Một đàng, giữa các danh từ mà chúng ta dùng, có một số danh từ diễn tả những sự vật thì “màu trắng”, “con ngựa”, trong khi những danh từ khác thì phủ định và chỉ định bao nhiêu sự vật không phải như thế. Danh xưng “Đấng không được sinh ra” dự phần vào phạm trùø thứ hai này: danh hiệu đó không có nghĩa là bản thể Thiên Chúa, nhưng nó có nghĩa là Thiên Chúa Cha, Đấng đã “không được sinh ra” (non engendré). Vì vậy, thánh Basile rút ra thuật ngữ “Đấng không được sinh ra” là đặc quyền tuyệt đối mà Eunome đã đưa ra cho ngài.
Đàng khác, giữa các danh từ mà chúng ta dùng, một số có ý nghĩa Bản thể, nghĩa là những thực tại tự chúng hiện hữu, trong khi những danh từ khác có ý nghĩa tương quan. Cũng thế, chẳng hạn danh từ “người” biểu thị một thực tại của ngôi vị nhân loại, nhưng danh xưng “bạn” lại được hiểu dưới khía cạnh người này tương quan với người khác. Trong ngôn ngữ của chúng ta về Thiên Chúa, hạn từ “bản thể” (substance, ousia) phụ thuộc vào phạm trù thứ nhất. Nó chỉ ï yếu tính của Thiên Chúa, tức bản thể của Ngài. Còn về những danh xưng “Chúa Cha và Chúa Con” (Père et Fils) thì thuộc về phạm trù thứ hai; chúng biểu thị mối tương quan với người khác, nghĩa là cách thức hiện hữu có tương quan: chúng là những danh từ tương quan. Khi gọi một người nào đó là Cha (Père), điều đó có nghĩa người đó như là cha của một người nào đó; cũng thế khi chỉ định Chúa Kitô bằng một danh xưng là Chúa Con, nghĩa là ám chỉ đến tương quan của Ngài đối với Chúa Cha của Ngài. Như thế, thánh Basile de Césareé giải thích rằng, Chúa Cha và Chúa Con (Père et Fils) “chỉ diễn tả tương quan giữa hai Đấng với nhau. Đấng ban nguyên lý của hữu thể mình cho một đấng khác cùng bản tính với mình là Chúa Cha; Đấng đón nhận nguyên lý từ người khác qua sự nhiệm sinh hữu thể mình là Chúa[1]. Việc sử dụng khái niệm tương quan cũng cho phép chứng minh rằng, sự nhiệm sinh của Chúa Con và sự nhiệm xuất Chúa Thánh Thần không đưa đến bất cứ một thay đổi nào trong bản tính thiêng liêng của Thiên Chúa.
Vì vậy, có hai loại danh xưng được dùng để chỉ Thiên Chúa, đó là danh xưng thuộc bản thể và những danh xưng thuộc tương quan. Thánh Basile de Césarée giải thích rằng sự hiểu biết của chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được thể hiện qua nhờ “sự phối hợp” của hai khía cạnh sau: Thứ nhất, đó là điều gì Chúa Cha có, thì Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng có (công việc, quyền năng, bản tính, yếu tính (hiện hữu, thần tính); thứ hai, đó là những gì riêng của mỗi Ngôi theo cách phân biệt đặc tính riêng giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nó liên quan đến cách hiện hữu tương quan!)[1]. Đặc tính riêng xác định tư cách làm Cha của Chúa Cha với xác quyết này: Chúa Cha thì không có nguyên lý (Chúa Cha đã không được sinh ra). Đặc tính riêng biệt của Chúa Con là tử hệ (được sinh ra). Và theo như thánh Grégoire de Nazianze giải thích đoạn văn sau thì đặc tính cá biệt của Chúa Thánh Thần là nhiệm xuất. “Chúa Cha là Cha và Ngài không có nguyên lý (anarchos), vì Ngài không xuất thân từ một Ngôi Vị nào. Chúa Con là Con và Ngài không phải không có nguyên lý (tức có nguyên lý), vì Ngài đến từ Chúa Cha […]. Chúa Thánh Thần thực sự là Thần Khí đến từ Chúa Cha, không qua mối tử hệ, vì không phải bởi sự sinh sản, nhưng bởi sự nhiệm xuy (ekporeutos)”[1]. Những đặc tính riêng biệt đó cho phép hiểu biết các bản vị, nghĩa là các Ngôi Vị lập hữu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa duy nhất. Việc “lặp đi lặp lại” của ngôn ngữ về niềm tin Ba Ngôi kết hợp nội dung của “bản thể” và nội dung của các “đặc tính riêng” để diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm đó được sáng tỏ qua đoạn trích sau của thánh Grégoire de Nazianze:
Khi con nói: Lạy Chúa, xin Chúa hãy kinh ngạc vì một tia chớp của một luồng ánh sáng duy nhất và của ba luồng ánh sáng: ba luồng sáng liên quan đến các đặc tính hay còn gọi là các bản vị – Nếu người ta muốn nói như thế hay các Ngôi Vị (Porosôpa)[…]; nhưng luồng sáng này chỉ là một, nếu người ta nói về bản thể (Ousia) hoặc về thần tính[1].
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là những Đấng khác nhau “autres” theo nghĩa khác biệt cá vị: Chúa Cha là “một Đấng khác” (allos) với Chúa Con và Chúa Thánh Thần; nhưng các Ngài không phải là “điều khác” (allo), “vì do thần tính, cả ba chỉ có một điều và chỉ một điều thôi”[1]. Các giải thích này của thánh Grégore de Naziauze được tìm thấy bên Đông Phương, nơi thánh Augustin: “Chúa Thánh Thần thì khác với Chúa Cha và Chúa Con, vì Ngài không phải là Chúa Cha và cũng không là Chúa Con. Nhưng tôi đã nói “khác” (alius) chứ không phải là “điều khác” (aliud), vì Chúa Thánh Thần cũng là Đấng Tốt Lành đơn thuần, bất biến và hoán toàn vĩnh cửu[1]cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Đứng trước thách đố do các lạc giáo đặt ra – cách riêng do lạc giáo của Eunome de Cyzique – việc soạn thảo giáo lý này cho phép chúng ta minh định rằng, việc phủ định “không phải là Chúa Cha” không thể làm mất đi tính thần linh nơi Chúa Con và nơi Chúa Thánh Thần, vì danh xưng Cha không diễn tả bản thể của thần tính, nhưng diễn tả một tương quan của Cha với Chúa Con là Đấng mà Chúa Cha đã sinh ra. “Tất cả những gì Cha có, Con cũng có trừ hữu thể không được sinh ra, và tất cả cái gì của Chúa Con cũng là Chúa Thánh Thần trừ tương quan tử hệ”[1].
Các đặc tính riêng của các Ngôi Vị Thần Linh bao hàm một sự “đối lập”: Chúa Cha không phải là Chúa Con, Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. “Khi chúng ta nghe nói về một luồng ánh sáng không được sinh ra, thì chúng ta nghĩ ngay đến Chúa Cha và khi chúng ta nghe nói về một luồng sáng được sinh ra, thì chúng ta nghĩ đến khái niệm Chúa Con. Với tư cách là ánh sáng bởi ánh sáng thì giữa chúng không có gì là tương phản, nhưng với tư cách là được sinh ra và không được sinh ra thì chúng ta cần xét chúng dưới khía cạnh phản đề (antithesis) của chúng[1]. Truyền thống Công giáo đã nói về hạn từ “đối lập tương quan” hay về “các tương quan đối lập” để chỉ sự phân biệt giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa nhờ các đặc tính tương quan nào đó. Hơn nữa, các đặc tính phân biệt của các Ngôi Vị thần linh liên quan đến nguồn gốc, nghĩa là sự sinh ra và nhiệm xuất. Chính trong ý nghĩa này mà người ta bàn về “các tương quan nguồn gốc”, “các tương quan đối lập nguồn gốc”; “Ba Ngôi phân biệt nhau qua các tương quan về nguồn gốc: Chúa Cha là Đấng sinh thành, Chúa Con là Đấng được sinh ra và Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát”[1]. Nói cách khác, sự phân biệt Ba Ngôi Vị Thần Linh đến từ sự kiện là Ngôi Vị này là nguyên lý của Ngôi Vị kia. Giáo Hội chính thống Đông phương ưa dùng thuật ngữ “nguyên nhân” (aitia) đã được áp dụng vào Chúa Cha nhằm minh định mối tương quan về nguyên lý mà một Ngôi Vị thần linh này duy trì đối với Ngôi Vị kia.
Cũng như Chúa Con đã liên kết với Chúa Cha và đón nhận hữu thể từ Cha, xét về hiện hữu, Ngài không có sau Chúa Cha. Cũng vậy, tới lượt của mình, Chúa Thánh Thần cũng có tương quan với Con duy nhất “Monogène”, Đấng đã chiêm ngắm trước Ngôi Vị Thánh Thần với lý do duy nhất mang tính nhân quả (aitia), mà không những khoảng thời gian vào trong cuộc sống vĩnh cửu này. Như thế, nếu người ta chấp nhận lý do nhân quả, thì trong Ba Ngôi không hàm chứa bất cứ sự phân biệt nào[1].
Giáo hội Công Giáo đã triển khai giáo huấn này dưới hình thức của luật được công thức hoá, nhất là đối với Công Đồng Florence, năm 1442 (việc giải thích luật này đối với sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần đặt ra một vấn đề khó khăn chung mà chúng ta sẽ bàn đến xa hơn): “Ba Ngôi vị đó chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, chứ không phải là ba Thiên Chúa, bởi vì Ba Ngôi Vị chỉ có một bản thể, một yếu tính, một bản tính, một thần tính, một sự vô biên, một sự vĩnh cửu và mọi sự chỉ là một, khi không nói đến sự đối lập tương quan”[1]. Công Đồng cũng xác định rằng: “Vì sự duy nhất đó, Chúa Cha hoàn toàn ở trong Chúa Con, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần; Chúa Con hoàn toàn ở trong Chúa Cha, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần; Chúa Thánh Thần hoàn toàn ở trong Chúa Chavà hoàn toàn ở trong Chúa Con”[1].
Giáo huấn này nhấn mạnh tính chất “đồng nội tại” (Co-immanence) của Ba Ngôi Vị thần linh do tính đồng bản thể của chúng. Người ta có thể thêm rằng, tính cùng nội tại này cũng được sáng tỏ nhờ sự cứu xét các tương quan xác định các Ngôi Vị. Mỗi tương quan bao hàm một Ngôi Vị tương ứng với nó, đến nỗi khái niệm của Ngôi Vị này được tìm thấy trong Ngôi Vị kia. Khái niệm về “Chúa Con” (Fils) bao gồm trong khái niệm về “Chúa Cha” (Père) trong mức độ mà chính qua tương quan của Chúa Cha với Chúa Con mà Chúa Cha là Chúa Cha. Cũng thế, việc cùng nội tại của các Ngôi Vị được sáng tỏ nhờ sự xem xét kỹ về nguồn gốc của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, nghĩa là qua việc sinh ra và nhiệm xuất. Thật vậy, Chúa Con đã không được sinh ra “từ bên ngoài” của Chúa Cha nhưng Ngài đã được sinh ra trong cung lòng của Chúa Cha và Ngài ở trong Chúa Cha. Chúa Giêsu nói :“Tôi ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Tôi” (Ga 14, 10 và Ga 14, 11). Sự nhiệm xuy của Chúa Thánh Thần cũng thế. Sau thánh Grégoire de Nazianzen là người đã dùng động từ Hylạp Perichôrein để chỉ sự thâm nhập của bản tính thần linh và bản tính nhân loại trong Đức Giêsu. Thánh Jean Damasène gọi sự thâm nhập hỗ tương này là “tương tại” (Perichôrèsis) và sự hỗ tương của các Ngôi Vị đó là “hiện hữu trong nhau”. Mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa thì trong trong các Ngôi Vị khác[1]. Hơn nữa, chúng ta cần nhận biết rằng, mỗi Ngôi Vị ở trong các Ngôi Vị ở trong nó. Khía cạnh mà người ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm Ba Ngôi, dù khía cạnh nào đi nữa thì vấn đề cùng nội tại của các Ngôi Vị Thiên Chúa tỏ ra sự phân biệt Ngôi Vị trong sự duy nhất sâu xa nhất. |
|