Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #11
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Các Nguyên Lý Nền Tảng Của Học Thuyết.

    Giáo lý “chín muồi” của các Giáo phụ (khoảng từ những năm 360) có thể được miêu tả qua ba đặc điểm sau: thứ nhất, cách biểu hiện rõ ràng sự phân biệt giữa hạn từ “Ngôi Vị” và “bản tính” (nature), nó bao gồm tất cả những cái đã được qui gán cho bản tính thần linh được nhận biết theo cùng cách thức và đơn thuần đối với mỗi Ngôi Vị thần linh; thứ hai, việc trình bày sự nhiệm sinh của Chúa Con cho thấy cách rõ ràng rằng, sự nhiệm sinh này được thực hiện ngay giữa cung lòng của hữu thể thần linh bất khả tri. Thứ ba, cách biểu hiện rõ ràng hành động không thể chia cách (bất khả phân ly) của các Ngôi Vị thần linh[1]. Thường thì từ ngữ chuyên môn khác nhau được dùng để diễn tả các chủ đề nền tảng cấu thành cái nền của văn hóa thần học về Ba Ngôi. Các chủ đề này không phải bị xếp vào hàng những thứ yếu trong quá khứ. Thật vậy, chúng tạo thành một cái khuôn của sự suy tư Kitô giáo đụng chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba yếu tố đáng lưu ý đặc biệt đó là: tính đơn thuần của Thiên Chúa, hành động duy nhất của Ba Ngôi Vị, cũng như lối suy tư loại suy tự áp đặt việc trình bày niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
    Thiên Chúa Ba Ngôi thì đơn thuần; khẳng định này có nghĩa là Thiên Chúa thì được miễn mọi hình thức hợp thành xác định các thụ tạo: sự hợp thành của hành động và sức mạnh, của yếu tính và hiện hữu, của bản thể và tuỳ thể, của toàn thể và từng phần, của mô thể và chất thể, vân vân. Thiên Chúa không phải là sự pha trộn của cái này với cái kia. Ngài không được cấu thành từ bất cứ cái gì. Khi chỉ ra sự đồng nhất của bản tính Chúa Cha và Chúa Con, thánh Hilaire giải thích: “Thiên Chúa đã không được tạo nên từ những thành phần theo cách thức nhân loại, do đó trong Ngài, điều mà Ngài có thì khác và chính hữu thể mà Ngài có cũng khác. Mọi sự Ngài có chính là sự sống – một bản tính hoàn hảo, độc lập, vô cùng và không được tạo nên từ những yếu tố hư hoại, nhưng nơi Ngài luôn sống động”[1]. Thánh Augustinơ tóm tắt tư tưởng đó trong một công thức rõ ràng: “Ba Ngôi được gọi là đơn thuần, bởi vì Ngài chính là điều mà Ngài có, trừ ra mỗi Ngôi khi được gọi phải đặt trong tương quan với Ngôi khác”[1]. Sự đơn thuần thần linh là một giáo lý về Ba Ngôi. Nó cần thiết cho việc nhận biết sự đồng nhất bản thể của ba Ngôi Vị.
    Tiếp nối giáo huấn này, thánh Thomas d’Aquin giải thích rằng Thiên Chúa là “Đấng hoạt động thuần tuý”. Nơi Ngài, không có sự trộn lẫn hiện thể và tiềm thể như nơi các thụ tạo. Yếu tính của Thiên Chúa, nghĩa là điều mà Thiên Chúa là, chính là sự hiện hữu của Ngài: Thiên Chúa chính là hữu thể tồn hữu (Ipsum esse subsistens). Ngài không chỉ là “điều Ngài có”, như thánh thánh Âutinh đã nói, nhưng Thiên Chúa còn là điều mà Ngài là (yếu tính của Ngài), đó chính là sự hiện hữu của Ngài. Như thế, Thiên Chúa ở “ngoài tất cả mọi loài”: không có phạm trù nào mà trong đó chúng ta có thể sắp xếp thành tập hợp giữa Thiên Chúa và các thụ tạo. Không có bất cứ khái niệm nào có thể bao hàm Thiên Chúa và các thụ tạo[1]. Sự bất khả tri về Thiên Chúa được liên kết với sự đơn thuần (simplécité) của Ngài. Sự bất khả tri đó sẽ buộc nại đến phép loại suy. Sự đơn thuần của Thiên Chúa cũng ngụ ý rằng Thiên Chúa thì bất biến: là hiện thể hoàn toàn và không trộn lẫn (hiện thể thuần tuý). Thiên Chúa vượt mọi sự thay đổi[1].
    Ngày nay, việc nâng cấp một khái niệm đối với chiều kích cụ thể và chiều kích lịch sử mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitơ là mục đích quan trọng, nên không hiếm các nhà thần học dùng khái niệm “biến cố” (événement) để diễn tả thực tại Ba Ngôi Thiên Chúa: “Thiên Chúa là biến cố”. Thỉnh thoảng, một vài tác giả hiểu như thế, nghĩa là thay vì dùng phạm trù bản thể thì dùng phạm trù biến cố. Chắc chắn, khái niệm biến cố gợi lên chính xác rằng hữu thể Thiên Chúa là một sự sống trọn vẹn thực sự. Nhưng mà người ta không thể dùng khái niệm đó để tách biệt khái niệm bản thể, bởi vì “biến cố” có liên quan đến hành động của một thực tại mà nếu không có thực tại này thì nó không có ý nghĩa nữa. Chúng ta cũng cần nhắc lại rằng Thiên Chúa là Đấng đơn thuần tuyệt đối: Ngài là Đấng hoạt động không có sự phức hợp, không biến chuyển, không trở nên. Điều này được sáng tỏ qua khẳng định đặc thù là hiểu biết Thiên Chúa như Đấng hoạt động thuần tuý “Acte pur” và qua khái niệm về biến cố, có lẽ được xét như một phép ẩn dụ gợi lên sự mới lạ vĩnh cửu của hữu thể Thiên Chúa[1], nhưng người ta phải dùng nó cách dè dặt vì sử dụng nó cũng có thể nảy sinh ra nhiều lẫn lộn.
    Sự đơn thuần tuyệt đối tạo nên đặc tính chuyên nhất của Thiên Chúa duy nhất. Nói rằng, Thiên Chúa thì đơn thuần, chính là khẳng định thần tính của Thiên Chúa. Đặc tính này liên quan đến hữu thể Thiên Chúa trong chính Ngài cũng như hoạt động của Ngài trong thế giới (vũ trụ): Thiên Chúa không bước vào sự phức hợp với các thụ tạo, Ngài không trộn lẫn và không tan biến vào các thụ tạo của mình. Quy luật này được toàn quyền xác minh trong sự nhập thể của Chúa Con. Trong cuộc nhập thể, Đấng Tối Cao duy nhất của Thiên Chúa ở với thụ tạo, bản tính Thiên Chúa phân biệt với bản tính nhân loại (tín điều Chalcédoine). Nói cách khác, việc khẳng định sự đơn thuần của Thiên Chúa áp dụng vào hoạt động của Thiên Chúa, và chứng tỏ rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu chuộc với tư cách là Thiên Chúa. Sự đơn thuần của Thiên Chúa Ba Ngôi là một phần niềm tin của Giáo Hội[1]. Việc nhận biết sự đơn thuần của Thiên Chúa và sự bất khả tri của Ngài được coi là yếu tố nền tảng của một nền văn hoá Kitô giáo tôn trọng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều đó đưa chúng ta đến nguyên lý thứ hai: Ba Ngôi Vị hoạt động trong cùng một Đấng và cùng một công việc duy nhất. “Chúa Cha tạo dựng mọi sự nhờ Ngôi Lời trong Thánh Thần và chính như thế mà sự duy nhất của Ba Ngôi được bảo toàn”[1]. Sự đồng nhất hoạt động của Ba Ngôi biểu lộ thần tính duy nhất của ba Ngôi Vị. “Một cách cần thiết, chúng ta đã được hướng dẫn trong việc tìm tòi nghiên cứu bản tính Thiên Chúa qua các công việc của Ngài. […]. Nếu chúng ta quan niệm hành động giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong tư cách là duy nhất, không có sự khác biệt nào, cũng như không một sự đa dạng nào đối với bất cứ gì, thì nhất thiết đi đến kết luật tính đồng nhất của hành động đối với sự duy nhất bản tính […]. Tính đồng nhất của n?ng l?c trong Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tỏ rõ sự giống nhau tuyệt đối về bản tính (phusis)”[1]. Những hiệu quả do Ba Ngôi Vị Thiên Chúa mang lại trong sự sáng tạo và cứu độ chứng tỏ sự duy nhất của hoạt động và khám phá ra sự duy nhất quyền uy của các Ngài đối với căn nguyên của hoạt động. Nhiều bản văn Giáo phụ giải thích tính cách đồng bản thể của các Ngôi Vị thần linh qua sự duy nhất của hoạt động và quyền năng của các Ngài. Đôi khi, sự khẳng định về tính duy nhất của công việc thay thế cho việc tuyên xưng tính duy nhất về yếu tính của Ba Ngôi vị. Giáo huấn này làm nên một mảng chính yếu của thuyết nhất tính về Ba Ngôi trong Kitô giáo.
    Chính vì Ba Ngôi đã hoàn thành mọi hoạt động […] không do một hoạt động cách biệt theo như cả ba Ngôi Vị, nhưng đến nỗi chỉ có một kiến nghị và một thiên hướùng duy nhất về ý muốn tốt lành được thông đạt bởi Chúa Cha ngang qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Như thế, không thể nói là ba Thiên Chúa sử dụng quyền năng và hoạt động thần linh và siêu việt nhưng là Ba Ngôi Vị liên kết và không tách rời nhau qua hoạt động hỗ tương của mình[1].
    Trong đoạn văn này, người ta quan sát thấy sự giải thích mà thánh Grégoire de Nysse đưa ra, nhấn mạnh đến: việc khẳng định về sự duy nhất quyền năng và hoạt động được xác định rõ ràng qua thứ tự phân biệt của các Ngôi Vị Thiên Chúa. Chúa Cha không thực hiện điều gì khác với Chúa Con cũng như Chúa Con không thực hiện điều gì khác với Chúa Thánh Thần, nhưng Chúa Cha đã thông chuyển cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng một quyền năng hoạt động. Bên Tây phương, thánh Âutinh tuyên xưng giáo huấn tương tự như thế: “Cũng như Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thì không thể chia cách, các Ngài không chia cách trong hoạt động”[1]. “Hoạt động của Chúa Cha và của Chúa Con không thể phân chia, nhưng Chúa Con nắm giữ hoạt động của Đấng mà Ngài nắm giữ hữu thể, tức là Chúa Cha”[1]. Thánh Thomas d’Aquin lặp lại điều đó cách sáng sủa: “Quyền năng hoạt động thì chung cho cả Ba Ngôi”[1], theo thứ tự sau: “Chúa Cha hành động qua Chúa Con, bởi vì Chúa Con là nguyên nhân của cái đã được hoàn thành căn cứ vào cùng một hành động và một quyền năng không thể phân chia, quyền năng mà Chúa Con có chung với Chúa Cha”[1]. Giáo huấn này tạo nên bộ phận của giáo lý đức tin Giáo Hội Công giáo: “Cũng như Ba Ngôi cùng chỉ có một bản tính, Ba Ngôi cũng chỉ có cùng một hoạt động”[1]. Nếu chúng ta tách lìa qui luật này, nó sẽ quay lại phá tan niềm tin Ba Ngôi.
    Cuối cùng, việc diễn tả đức tin Công giáo về mầu nhiệm bất khả tri của Chúa Ba Ngôi h?a h?n một phương cách suy tư được hướng dẫn bởi phép loại suy. Đó chính là quy luật cốt yếu thứ ba. Phép loại suy phân biệt sự đồng nghĩa và dị nghĩa . Có sự đồng nghĩa đó là khi có một sự hoàn hảo hay một thuật ngữ được qui gán cho những thực tại trong cùng một nội dung. Chẳng hạn danh từ “animal” (loài vật) được áp dụng cách đồng nghĩa đối với con bò và với con ngựa. Thế nhưng, do sự siêu việt và tính đơn thuần của mình, Thiên Chúa không ở trong cùng một chủng loại như các thụ tạo. Vì vậy, cần loại trừ tính đồng nghĩa. Ngược lại, có tính dị nghĩa khi một hạn từ được áp dụng cho những thực tại theo một ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, khi người ta dùng để biểu thị con vật nuôi bốn chân và chòm sao ở Nam cực, thì người ta dùng chính trường hợp của hạn từ “con chó”. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần loại trừ những danh từ dùng để chỉ Thiên Chúa và các thụ tạo là hoàn toàn dị nghĩa; điều đó diễn tả rằng chúng ta có thể hiểu biết bất cứ điều gì về Thiên Chúa (vì nếu chúng ta hiểu biết Thiên Chúa chính là khởi đi từ tạo vật): những từ ngữ nhân loại chúng ta và những từ ngữ Kinh Thánh thì hoàn toàn trống rỗng đối với trí tuệ chúng ta khi áp dụng cho Thiên Chúa.
    Vì vậy, con đường hiểu biết Thiên Chúa phải ngang qua phép loại suy. Ở đây, thuật ngữ (danh xưng, sự hoàn hảo) được gán cho những thực tại theo nghĩa một phần giống nhau và một phần khác nhau. Chẳng hạn, giữa thức ăn được coi là “lành mạnh” và người “lành mạnh”, ấy là phép loại suy về tính cân xứng. Thức ăn được gọi là tốt bởi nó mang lại sức khoẻ cho người dùng nó. Phép loại suy giữa Thiên Chúa và thụ tạo dựa trên hoạt động của Thiên Chúa là Đấng thông ban cho thụ tạo tham dự vào sự hoàn hảo của Ngài. Các đặc tính cao quý mà người ta quan sát được nơi thụ tạo do Thiên Chúa là Đấng tạo nên những sự hoàn hảo tồn tại theo cách thức ưu việt và siêu việt. Như thế, Thiên Chúa được gọi là “tốt lành” và thụ tạo cũng được gọi là “tốt”, nhưng sự tốt lành của Thiên Chúa và của thụ tạo không cĩ cùng một bình diện. Thiên Chúa là nguồn mạch siêu việt tốt lành của các thụ tạo. Thiên Chúa chính là sự tốt lành do yếu tính (sự tốt lành của Thiên Chúa chính là hữu thể Ngài), trong khi thụ tạo cũng tốt lành nhưng với tư cách là chúng được tham dự vào sự tốt lành của Thiên Chúa theo cách hữu hạn tận căn.
    Để minh hoạ sự quan trọng của giáo lý này là giáo lý vượt trên những khác biệt tín điều, đây là sự giải thích của Karl Barth. Karl Barth, thần học gia Tin Lành không chấp nhận giáo lý Công Giáo về “phép loại suy về hữu thể” (phép loại suy cho phép chúng ta hiểu biết Thiên Chúa nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí nhân loại), nhưng ông ta đã chỉ ra sự quan trọng của phép loại suy trước tiên giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa trong mạc khải của Ngài.
    Khi bàn về Thiên Chúa, chúng ta diễn tả thế giới mà Ngài đã tạo nên bằng cách nghĩ đến cái đẹp và sự hoàn hảo của Ngài. Nhưng thụ tạo thì chẳng đẹp, cũng chẳng tốt và chúng không theo cùng cách thức như Chúa, Đấng sáng tạo chúng mà khi được so sách, chúng không đẹp, cũng không tốt và không là gì hết (thánh Augustin) […]. Khi chúng ta áp dụng một thuật ngữ nào đó, khi thì vào thụ tạo, khi thì vào Thiên Chúa thì phải chăng chúng ta cần phải hiểu rằng, trong hai đối tượng đó có hai sự tương đương nhau về ý nghĩa và về nội dung ? […] Điều đó đã được loại trừ? […] Phải chăng, cần phải đi qua thái cực khác và nói rằng, khi chúng ta áp dụng từ ngữ nào đó khi thì cho thụ tạo và khi thì cho Thiên Chúa mà không có hai sự tương đương về ý nghĩa và về nội dung […], nhưng có một ý nghĩa hoàn toàn khác biệt […]? […] Ở đây, khi đề cập về việc không có hai sự tương đương, tức muốn nói rằng chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa cách chắc chắn. Bởi vì, nếu chúng ta biết Ngài thì chính là nhờ các phương tiện mà chúng ta có; nói cách khác đi, chúng ta hoàn toàn không biết Ngài […] Thần học trước đây đã phải giải quyết sự khó khăn khi dùng đến khái niệm loại suy nhằm xác định sự hiệp thông được thiết lập giữa chủ thể có lý trí và đối tượng; qua đó, thần học ấy đạt đến việc đồng thời tránh khỏi và tách biệt luận đề về sự tương đương và về luận đề không có sự tương đương […]. Cho nên, có thể lấy lại khái niệm này trong sự tương hợp khái niệm cho thấy cách thích đáng […]. Sự chân thực của Thiên Chúa trong mặc khải của Ngài buộc chúng ta trình bày tất cả những gì chúng ta cần phải nói theo khía cạnh loại suy, ngoài ra không cho chúng ta bất cứ khả năng nào[1].
    Theo giáo lý Công Giáo, phép loại suy không chỉ dựa vào mặc khải của Thiên Chúa, nhưng trước hết dựa vào sự sáng tạo. Thế giới được tạo nên tham dự vào bản tính Thiên Chúa đến nỗi vũ trụ được dựng nên là một sự biểu lộ trước tiên và trường kỳ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo hoá là nguyên nhân “tác thành” và là “kiểu mẫu” của thế giới được tạo nên. Qua sự sáng tạo, thế giới có trong mình những “tương tự” với Thiên Chúa. “Nhờ loại suy”, sự tương tự đó cho phép hướng đến với việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Do đó, theo đức tin Công Giáo, nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, hữu thể nhân loại có thể biết được sự hiện hữu của Thiên Chúa cũng như những thuộc tính nhất thiết có nơi Thiên Chúa với tư cách Ngài là nguyên lý của thụ tạo. Hơn nữa, đối với bình diện cao nhất của niềm tin vào Chúa Ba Ngôi (mà chỉ biết được nhờ mặc khải), lý trí kẻ tin cũng có thể khám phá trong thế giới được tạo nên những nét “tương tự?” với Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo lý Giáo Hội Công Giáo giải thích như sau:
    Mọi thụ tạo đều có một nét nào đó giống Thiên Chúa, đặc biệt là con người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Nhiều điều hoàn hảo của các thụ tạo (tính chân, thiện, mỹ của chúng) phản chiếu sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa! Do đó, chúng ta có thể nói về Thiên Chúa từ những sự hoàn hảo nơi các thụ tạo của Ngài, “vì các thụ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo Thành” (St 13, 5)[1].
    Điều đó cung cấp một nền tảng vững chắc để biết chính Thiên Chúa[1]. Nhưng mà, sự đơn thuần siêu việt của Thiên Chúa đòi buộc một sự quan trọng giới hạn, bởi vì, Thiên Chúa ở bên kia tất cả mọi sự miêu tả được tạo ra. “Sự tương tự” lớn lao đến nỗi mà người ta thấy được giữa Tạo Hoá và thụ tạo. Đồng thời người ta còn phải lưu ý đến một sự khác nhau lớn lao hơn nữa giữa Tạo Hoá và thụ tạo”[1].
    Con đường hiểu biết Thiên Chúa của chúng ta qua phép loại suy bao gồm ba thì. Thứ nhất là thì khẳng định, căn cứ vào nguyên nhân tác thành và nguyên mẫu của Thiên Chúa (sự sáng tạo và sự tham dự). Chúng ta biết Thiên Chúa khởi đi từ thụ tạo. Chúng ta hãy lấy lại ví dụ của thánh Augustinơ trên đây: Thiên Chúa là sự thiện. Thứ hai là thì phủ định, Thiên Chúa không phải là sự thiện theo cùng cách thức như thụ tạo. Thứ ba là thì ưu việt. Sự tốt lành của Thiên Chúa vượt trên mọi sự thiện: Thiên Chúa thực sự tốt lành, tối cao và siêu việt, Đấng vô hạn vượt quá điều chúng ta có thể hiểu.
    Người ta phân biệt việc qui gán cho Thiên Chúa một sự hoàn hảo nhờ phép loại suy bao gồm hai điều. Một đàng, đó chính là sự hoàn hảo được biểu thị (như sự tốt lành) và đàng khác, đó là cách biểu thị sự hoàn hảo này. Dưới khía cạnh thứ nhất, đó là khi những danh từ chỉ những đặc tính xứng đáng mà chúng ta dùng để áp dụng riêng cho Thiên Chúa. Sự hoàn hảo được biểu thị sự hiện hữu nơi Thiên Chúa: Thiên Chúa thì tốt lành. Hơn nữa, sự tốt lành nơi Thiên Chúa thích đáng hơn nơi các thụ tạo: “Chỉ một mình Thiên Chúa là tốt lành” (Lc 18, 19). Nhưng dưới khía cạnh thứ hai, “cách hiểu biết” của chúng ta liên kết với cách chúng ta hiểu biết các thụ tạo; đồng thời nó được qui gán với cách thức sau đây đó là sự hoàn hảo trong các thụ tạo. Thế nhưng, một cách tận căn, cách thức này được sáng tỏ nhờ sự cấu thành và sự bất toàn. Vì vậy, dưới khía cạnh thứ hai này, các từ ngữ của chúng ta không được áp dụng thích đáng với Thiên Chúa. Như thế, sự xa cách của việc đóng khung Thiên Chúa trong các khái niệm của chúng ta, phép loại suy đặt để thực tại Thiên Chúa ngoài mọi giới hạn, vượt tầm hiểu biết của chúng ta[1]. Với cách thế này, phép loại suy cung cấp một sự hiểu biết chân thực và đồng thời nó tôn trọng cách sâu xa sự bất khả tri về Thiên Chúa. Có lẽ, Thiên Chúa chỉ được biết như “trong một bức gương” (1Cr 13, 12) chứ chúng ta không thể biết Ngài như chính Ngài. “Chúng ta nói về Thiên Chúa: nếu bạn không hiểu thì có gì lạ lùng đâu? Bởi vì nếu bạn hiểu thì bấy giờ Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa nữa”[1].
    Do đó, việc suy tư tín điều về sự nhiệm sinh của Chúa Con và về sự nhiệm xuy của Chúa Thánh Thần cũng như về các Ngôi Vị Thiên Chúa và các đặc tính Ngôi Vị loại trừ mọi tham vọng “hiểu biết” Thiên Chúa Ba Ngôi. Lý trí nhân loại không thể chứng minh cũng như không thể giải thích mầu nhiệm bằng những túc lý. Vì thế, tốt hơn đó là cần có một sự kiếm tìm trong chiêm niệm “để luyện tập và để nâng đỡ những kẻ tin”[1]. Việc tìm kiếm này luôn luôn trở về với mặc khải của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và là Đấng ban phát Thánh Thần. Việc tìm kiếm đó chỉ đạt tới được nhờ sự hy vọng gặp thấy Thiên Chúa diện đối diện trong Giáo Hội Thiên Quốc. Trong sự hy vọng này, nhà thần học tìm cách trình bày đức tin, đồng thời biểu lộ chút ít mầu nhiệm Ba Ngôi cho tâm trí những kẻ tin, khởi đi từ cái mà chúng ta biết rõ hơn “sự tương tự”. “Và một sự tìm kiếm như thế không phải là vô ích, vì nhờ đó tâm trí được mạc khải để hiểu biết vài điều về chân lý và sự tìm kiếm đó cũng đủ để khai trừ những sai lầm”[1].
    Với quyết tâm này, chúng ta cần thiết phải nhờ đến phép loại suy vì chúng ta biết được Thiên Chúa qua thụ tạo. Ngay cả những danh từ trong Kinh Thánh và trong lãnh vực đức tin (Chúa Cha, Chúa Con, Đấng yêu thương cũng giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa qua kinh nghiệm của chúng ta về thế giới. Chính vì thế mà chúng ta không thể khẳng định chắc chắn rằng Thiên Chúa là “Cha”, nhưng điều đó cũng để lại nơi tâm trí chúng ta sự trống rỗng hoàn toàn! Cũng thế, những danh từ áp dụng cách riêng cho Thiên Chúa là những danh từ biểu thị những sự hoàn hảo chung đối với cả Ba Ngôi Thiên Chúa (sự khôn ngoan, sự tốt lành, tình yêu, quyền năng), và đó cũng là những danh từ biểu thị mỗi Ngôi riêng biệt theo đặc tính (Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần). Chúng ta sẽ tuân giữ đặc tính đó trong khi xem xét danh từ “Ngôi Vị” (Personne).
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 7 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com