Khi chúng ta suy tư về Ngôi Cha, trí khôn chúng ta phải trải qua một công việc thanh lọc quan trọng. Đứng trước các trào lưu không chấp nhận giáo huấn của Công Đồng Nicée, các tiến sĩ Kitô giáo thế kỷ IV đã chỉ ra rằng niềm tin Công Giáo vào Chúa Cha phi bác sự nhiệm sinh của thân xác, sự thay đổi và sự nối ngôi theo thế tục, sự khác nhau về giới tính.v.v. Đúng như mặc khải, Ngôi Cha cần phải được hiểu theo lối phù hợp với bản tính thiêng liêng của Ngài[1]. Trong công việc thanh lọc này là việc tách rời những đặc tính không tương hợp với sự hoàn hảo của Chúa Cha, theo đức tin của Giáo hội, chúng ta cần phải giữ lại điều gì? Có hai đặc tính chủ yếu cần biết đến. Thứ nhất, Chúa Cha là Cha của Chúa Con vì Ngài sinh ra Con: đó chính là “đặc tính tương quan Ngôi Vị” của phụ hệ. Với việc nhiệm sinh Chúa Con, Chúa Cha cũng là nguyên lý của Chúa Thánh Thần. Nhưng chính vì khía cạnh đó mà Chúa Cha có chung đặc tính với Chúa Con ( đặc tính mà Ngài thông chuyển cho Chúa Con). Truyền thống thần học Công giáo không coi đó như là “đặc tính ngôi định” (propniété personnelle) của Chúa Cha nhưng như là một đặc tính chung, đặc tính này giúp chúng ta nhận biết được Chúa Cha và Chúa Con: đó là “khái niệm” về sự nhiệm xuy (từ ngữ “khái niệm” chỉ đặc trưng giúp ta nắm bắt được Ngôi Vị Thiên Chúa và từ ngữ “spiration” liên quan đến sự kiện “ thổi hơi ban Thánh Thần”). Thứ hai, Chúa Cha không có nguồn gốc. Ngài bất thụ sinh, nghĩa là không có nguyên khởi. Đó chính là đặc tính bất thụ sinh (từ ngữ “innascrible” biểu thị “sự bất thụ sinh”). Như vậy, theo giáo lý công giáo truyền thống, chúng ta biết được Ngôi Cha cách rõ ràng trong chừng mực mà trí khôn chúng ta cho phép nhờ hai đặc tính về phụ hệ và về việc bất khả thụ sinh đó với “khái niệm chung” về sự nhiệm xuy.