Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Threaded View

  1. #11
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Một loạt loại suy về danh xưng “Cha”.

    Danh từ Cha biểu thị tương quan phụ hệ. Thế nhưng chúng ta cần phải nhận biết nhiều tương quan, trong đó, Thiên Chúa được được gọi là Cha: 10.Cha của Con Duy Nhất , 20.Cha của chúng ta qua Chúa Con; 30.Cha của mọi người; 40.Cha của thế giới. Trong trường hợp này người ta không đặt danh từ “Cha” trong một nội dung có tính đồng nhất, nhưng có tính loại suy. Danh từ “Cha” được áp dụng cho Thiên Chúa bởi phép loại suy để trước hết biểu thị tương quan của Ngài với Chúa Con vĩnh cửu. Thứ hai, biểu thị tương quan của Ngài với những người công chính sống trong ân sủng. Thứ ba, biểu thị tương quan giữa Đấng sáng tạo và quan phòng đối với tất cả hữu thể nhân loại và trường hợp thứ tư biểu thị tương quan của Ngài đối với toàn thể thụ tạo.
    Với ý nghĩa đặc thù nhất cũng là ý nghĩa chủ yếu nhất đó là danh từ “Cha” chỉ Ngôi vị Chúa Cha trong tương quan đời đời với Chúa Con duy nhất của Ngài. Bởi vì, “chính trong Chúa Cha và Chúa Con có cùng bản tính và vinh quang[1]. “Là Cha” có nghĩa là ban sự sống cho một hữu thể khác (Chúa Con) trong cùng một bản tính. Việc thực thi quyền tối thượng của phụ hệ được tuân thủ trong ân huệ trọn vẹn của bản tính Thiên Chúa đối với Chúa Con, trong sự duy nhất của thần tính. Phụ hệ hiện hữu theo cách thế hoàn hảo nhất trong tương quan đời đời của Chúa Cha đối với Con duy nhất của Ngài. Vì thế, khi nói về Chúa Cha thì chẳng phải trước tiên đề cập đến tương quan của Thiên Chúa đối với các loài thụ tạo, nhưng trên hết chính là biểu thị tương quan của Thiên Chúa Cha đối với Con duy nhất. Tính chất đồng bản thể giữa phụ hệ của Cha đối với Con là điều tuyệt đối trên hết.
    Chúa Thánh Thần luơn hiện diện trong tương quan phụ hệ và tương quan tử hệ là những tương quan “cấu thành” Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần hiện diện trong chính hành động của sự nhiệm xu?t từ đời đời của Chúa Con nhưng Chúa Thánh Thần không phải là nguyên lý của sự nhiệm sinh này (điều này làm hỏng đi trật tự các Ngôi Vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa, gây nên sự lộn xộn), nhưng bởi vì trong khi sinh Chúa Con, Chúa Cha ban cho Chúa Con để đồng thời cùng với Chúa Cha “thổi” hoặc “xuy” ra Chúa Thánh Thần. Với tư cách là Cha, Ngài ban cho Chúa Con cùng với Ngài xuy ra Chúa Thánh Thần và với tư cách là Con, Chúa Con đón nhận từ Chúa Cha tính năng (quyền năng hoạt động) để cùng với Ngài xuy ra Chúa Thánh Thần. Tính năng nhiệm xuy Chúa Thánh Thần bao gồm cả trong sự nhiệm sinh của Chúa Con: qua sự nhiệm sinh của mình, Chúa Con đón nhận hữu thể từ Cha và cùng với Chúa Cha, Chúa Con là nguyên lý của Chúa Thánh Thần. Nói khác đi, sự nhiệm xuất Chúa Thánh Thần thì in sâu trong tương quan hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Điều này có nghĩa là sự nhiệm xuất Chúa Thánh Thần tự nó được hướng vào sự sinh ra của Chúa Con do bởi Chúa Cha.
    Tương quan phụ hệ của Thiên Chúa đối với con người không bị loại bỏ nhưng nó được nhận biết ở vị trí thứ hai, phát xuất từ vị trí thứ nhất và phụ thuộc vào trong vị trí này. Phụ hệ trong Thiên Chúa trước hết liên quan đến mối quan hệ giữa Ngôi Vị Thiên Chúa với Ngôi Vị Thiên Chúa, sau nữa mối quan hệ Chúa Thiên Chúa Cha với các Thiên Thần và con người là những thụ tạo tiếp nhận sự tham dự vào đới sống thần linh. Sự tham dự đó nói lên rằng Chúa Cha không phải là Cha của chúng ta theo cùng cách thế như Ngài là Cha của Con duy nhất. Ngài là Cha của Chúa Con do bản tính, trong khi Ngài là Cha chúng ta do ân sủng: Ngài ban cho con người được tham dự vào mối tử hệ của Chúa Con duy nhất khi làm cho họ trở nên “con cái Thiên Chúa”. Mối tử hệ thuộc nghĩa tử này được hoàn thành bởi Chúa Thánh Thần ghi khắc trong những kẻ tin một sự “đồng hình đồng dạng” với Chúa Con. Trong khi làm cho họ đồng hình đồng dạng với Chúa Con, Chúa Thánh Thần ban cho họ trở nên con cái Thiên Chúa trong Chúa Con và sống một cuộc sống nghĩa tử đối với Thiên Chúa Cha, bắt chước Chúa Kitô.
    Chúng ta cần phải trưng dẫn ra đây một sự giải thích rõ ràng. Mỗi tử hệ thuộc dưỡng tử nghĩa là bản thân làm con của những người con mà Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử (dưỡng tử) có thể được xét bên dưới hai khía cạnh. Nếu chúng ta xét “t? cách làm con” dưới khía cạnh “hữu thể học” nghĩa là như một hiệu quả được sáng tạo trong mối tương quan với nguyên nhân của nó, thì chúng ta cần nhận biết rằng nhờ ân sủng, con người là con cái của cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều là nguyên nhân của mọi kết quả được sáng tạo, với ý nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng Chúa Ba Ngôi là Cha chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cứu xét “tư cách làm con” dưới khía cạnh “ý hướng” của nó, nghĩa là theo năng động của các tặng phẩm của ân sủng để cho con người đạt được Thiên Chúa trong đức tin và đức ái nhờ sự đồng hình đồng dạng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần, tư cách làm con qui chiếu chúng ta đến với Ngôi Cha trong sự phân biệt về Ngôi Vị của nó.
    Chúng ta hãy quan sát thành ngữ “Cha chúng con”. Một đàng, người ta hiểu rằng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều là cha của chúng ta dưới khía cạnh mà chúng ta gọi là “hữu thể học”. Cũng như đôi khi, chính các nhà thần học Kinh Viện thời Trung Cổ đã giải thích thành ngữ “Notre père” (Kinh Lạy Cha). Bánh hằng ngày, sự tha thứ, sự thoát khỏi cám dỗ, và cứu khởi sự dữ là những thứ cả Ba Ngôi Thiên Chúa ban cho chúng ta. Những điều chúng ta xin trong lời cầu nguyện của Kinh Lạy Cha đều được ban cho bởi Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Cả ba Ngôi đều thực hiện một công việc chung duy nhất. Thiên Chúa Ba Ngôi đều là nguyên nhân của tử hệ chúng ta và những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Nếu chúng ta nhìn tử hệ chúng ta dưới khía cạnh tương quan với nguyên nhân của nó thì nó qui hướng chúng ta đến với cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
    Tuy nhiên, khi cầu nguyện với Cha “của chúng con”, là đích thân chúng ta nhắm đến Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta[1]. Chính trong Chúa Con và qua Chúa Con mà những kẻ tin thưa với Thiên Chúa như là người cha. Qua đó, người cha được được gọi là Cha của Chúa Con. Việc gọi tên Thiên Chúa là Cha (Père) với ý nghĩa phân biệt Ngôi Vị của niềm tin thuộc Ba Ngôi, chính là việc luôn gọi Ngài như là Cha (Père) của Chúa Con duy nhất. Bởi vì chính trong tương quan vĩnh cửu với Chúa Con mà đính thân Chúa Cha (Père) phân biệt với cha nhân loại. Khi tương quan Ba Ngôi của phụ hệ này kéo dài cho đến chúng ta bởi tính năng động của tư chất ân sủng hợp nhất chúng ta với Chúa Cha qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, thì tương quan giữa Chúa Cha với Chúa Con vĩnh cửu hãy còn nằm ở bình diện trước hết. Dưới khía cạnh này, lời cầu nguyện phân biệt rõ Ngôi Cha, qua đó, lời cầu nguyện chỉ rõ tương quan của Ngài với Chúa Con và qua Chúa Con, tương quan nhờ đó, các con cái hiệp nhất với Chúa Cha. Chúng ta hãy lấy lại cách vắn tắt các giải thích này. Một đàng Chúa Cha xuất hiện trong sự phân biệt Ngôi Vị của Ngài khi chúng ta nhìn nhận trật tự các Ngôi vị là nguồn gốc tử hệ của chúng ta: Chúa Cha làm cho chúng ta trở nên con cái Ngài qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Không có sự tiếp xúc gần gũi với Ngôi Cha ngoài tương quan vĩnh cửu giữa Chúa Cha với Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần mà Chúa Cha đỗ tràn trề ân sủng trong đời sống của người công chính. Đàng khác, sự cầu nguyện Kitô giáo phân biệt Ngôi Vị Chúa Cha dưới khía cạnh năng động hay “chủ ý” mà chúng ta đã phác hoạ trên đây. Qua Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con cái Thiên Chúa được hiệp nhất với Chúa Cha, Đấng mà họ chiêm ngưỡng trong đức tin và yêu mến trong đức ái. Khía cạnh này không chỉ nhìn nhận Thiên Chúa Ba Ngôi như là nguyên nhân hay nguồn gốc của ân huệ chúng ta nhận được, nhưng nó có nghĩa là qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, những kẻ tin ở trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
    Thứ ba, danh xưng Cha có thể chi mối tương quan mà Thiên Chúa thiết lập nơi mọi hữu thể nhân loại mà Ngài đã sáng tạo theo hình ảnh của Ngài nhờ Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nghĩa là tương quan mà Thiên Chúa thiết lập với mọi người chiếu theo sự sáng tạo. Ngay khi con người không đón nhận ân sủng, Thiên Chúa vẫn tồn tại với tư cách là Cha của họ. Tuy nhiên, theo một ý nghĩa thấp kém hơn đối với ý nghĩa trước. Đồng thời ngay khi hình ảnh Thiên Chúa bị lu mờ do tội lỗi, tư cách làm con do sự sáng tạo vẫn tồn tại. Bởi vì, ân huệ làm Cha của đời sống nhân loại do sự sáng tạo vẫn tồn tại và bản tính nhân loại cũng vẫn tồn tại, nhưng nó vượt qua chính nó cho đến khi hoàn thành trong Thiên Chúa.
    Với một phương diện khác còn phổ quát hơn, đó là tư cách làm Cha của Thiên Chúa có thể được lan rộng đến các thụ tạo thuần vật chất. Trong trường hợp này, dưới danh xưng Chúa Cha, chúng ta đặt gán cho danh xưng đó ý nghĩa của Đấng sáng tạo thế giới và Đấng quan phòng mọi sự. Trong mọi trường hợp, khi chúng ta nghiên cứu danh Chúa Cha , chúng ta phải tìm cách phân biệt tương quan đã được biểu thị bởi danh xưng này và những kết quả mà chúng ta xét đến trong tương quan về tư cách làm cha (đời sống ân sủng, đời sống theo bản tính nhân loại, sự hiện diện của các sự vật). Danh xưng Chúa Cha có tính loại xuy: nó chỉ nhiều tương quan khác nhau, mà tương quan trước hết, từ tương quan này tất cả các tương quan khác phát sinh qua sự tham dự, là tương quan đời đời của Chúa Cha đối với Chúa Con duy nhất. Tư cách làm cha của Chúa Cha đối với Chúa Con là nguồn mạch của tất cả tặng phẩm xuống từ “Cha Sự Sáng” (Père des lumièrs) (Ga 1,17). Tư cách làm cha đó là cội nguồn mọi gia đình nhân loại, mọi tặng phẩm của đời sống: “Vì lí do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha là nguồn mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,14). Cũng thế, đối với tư cách làm cha và làm mẹ thiêng liêng, chăm lo giúp đỡ đời sống con cái hầu làm phát triển chúng trong sự thật và sự thiện: Chúng ta khám phá ở đó một sự tham dự phụ tính của Thiên Chúa là Cha. Tất cả ân huệ chân thực cũng như các hành động sản sinh đều qui về phụ tính của Chúa Cha, Đấng Siêu Việt và Mầu Nhiệm Nguyên Mẫu.
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 6 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com