|
Có lẽ tôi luôn mang tâm trạng như người chết khát trên sa mạc hoặc suốt đời độc hành cô đơn trên đường xa vạn dặm, cho nên chỉ cần vớ được một chai nước mát hoặc có được một người cùng đi chung với mình trên một quãng ngắn, là tâm hồn đã dạt dào sướng vui...
Hơn nữa, như vô số lần phân trần : Tôi tin rằng Thánh Thần Chúa sẽ chỉ bảo cho ta qua những người khác, cho nên nếu tôi phát biểu những gì trong một đề tài thuộc về Giáo Lý Đức Tin, mà được người khác chỉ cho thấy những phát biểu ấy là sai lầm với Giáo Lý Tín Lý, tôi sẵn sàng thực hiện như lời tiên tri Samuel:" Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe...".
Đọc thoáng qua bài trả lời của bạn Dom NTP, tôi đã cảm giác : bạn ấy cho rằng tôi chưa hiểu đúng ý của tác giả Thomas, và có thể đã cho rằng tôi phê phán ông Thomas hơi vội vàng...
Trong tất cả những cuộc tranh luận, các bên tham gia sẽ luôn luôn bảo vệ lập trường của mình cho đến cùng, cho đến khi điều đúng nhất được sáng tỏ. Thế thì điều đúng nhất trong các cuộc tranh luận về Giáo lý Đức Tin, đó là đã chứng minh được Thiên Chúa là Chân Lý, những lời Người phán trong Kinh Thánh là chân thực.
Đoạn Kinh Thánh Tân Ước khó hiểu trong đề tài này là do Kinh Thánh chép:" “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”(Mc13:32).
Nghĩa của câu Kinh Thánh trên siêu rõ ràng khi khẳng định: Các loài thụ tạo đến như thần thánh hay thiên sứ cũng không biết, thậm chí Chúa Con cũng không biết gì về ngày giờ tận thế chỉ riêng Chúa Cha biết mà thôi.
Đã có vô số người không đồng ý với câu Kinh Thánh trên khi họ lý luận rằng: Ba Ngôi cùng một bản tính Thiên Chúa và một uy quyền như nhau. Tại sao Chúa Cha biết mà Chúa Con lại không? Và tuy không chính thức, nhưng họ có thể cho rằng đã có một sự phiên dịch Kinh Thánh sai sai nào đó!
Nếu mà căn cứ vào tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi, thì rõ ràng ngày giờ tận thế không những Chúa Cha biết, Chúa Con cũng biết mà Chúa Thánh Thần cũng quá biết. Thế thì để câu Kinh Thánh Mc13:32 không bị cho là có gì đó sai sai hoặc gây khó hiểu và rất chính xác như lời Chúa phán, thì buộc phải nhớ rằng Ngôi Hai Thiên Chúa tức Chúa Con có hai bản tính : Thiên Chúa và loài người.
Trường hợp Chúa Con không biết ngày giờ nào tận thế, chúng ta rất dễ dàng suy luận ra lúc ấy Chúa Con đang ở trong bản tính loài người. Theo kiểu bạn Dom NTP đã từng diễn giải: "Chúa Jesus mang hai bản tính Thiên Chúa và loài người, hai bản tính này không tách rời nhưng hiệp nhất với nhau nhờ mầu nhiệm Nhập Thể nơi Chúa Jesus..."Nhưng ở đây vẫn có thể suy luận ra rằng lúc ấy Chúa Con chưa muốn hoặc chưa cần hiệp nhất với bản tính Thiên Chúa. Để khỏi bị cho rằng những suy luận này lung tung không hợp với thần học nào đó, tôi xin hỏi mọi người rằng khi chịu vô số những đau đớn cực kỳ khủng khiếp về thể xác và tâm hồn trong cuộc khổ nạn trên thập giá, Chúa Giê su đã dùng bản tính nào?___ Tất nhiên câu trả lời chỉ có thể là Chúa đã dùng bản tính loài người, thể xác và tâm hồn của một con người trên thế gian chứ không dùng bản tính của Thiên Chúa được! Và để chứng minh thêm cho sự chỉ dùng bản tính loài người trong cuộc khổ nạn thập giá của Chúa Con, chúng ta hãy nhớ lấy lời Chúa Giê su kêu lên trước khi Người hấp hối: " Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Người bỏ rơi con... Mattheu 27: 46".
Có cần phải tranh cãi gì thêm về lời Chúa Giê su đã kêu lên trước khi hấp hối trên thập giá nữa không? ___ Xin khẳng định là không cần , bởi vì như thế đã quá dư đủ để cho thấy rằng không phải Thiên Chúa bỏ rơi không đoái hoài gì đến Chúa Giê su, nhưng rõ ràng trong khi hoàn thành sự hy sinh trên thập giá, Chúa Con cần phải dùng bản tính loài người, thân xác yếu đuối của loài người để chịu đựng những sự tra tấn, đóng đinh đến chết mà người Do Thái đã gây ra cho Chúa. Chứ không dùng bản tính Thiên Chúa hô biến những sự đau đớn kinh khủng nhất thế gian ấy trở thành sự khoan khoái dễ chịu! Từ câu than thở trước khi hấp hối của Chúa Con, có thể thấy rõ từ đầu cuộc khổ nạn ấy cho đến phút cuối sinh ly tử biệt, chỉ có đơn độc Ngôi Hai Thiên Chúa với bản tính loài người đã thực hiện trọn vẹn cuộc hành trình. Hay có thể nói khác hơn một chút: bản tính Thiên Chúa đã tách rời, không có hiệp nhất với Chúa Con trong cuộc chịu nạn. Chính vì thế Chúa Con (trong bản tính loài người) không còn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa nữa, nên Người cảm thấy cô đơn cùng cực như đã bị bỏ rơi...
Để trả lời một câu hỏi hay diễn tả một vấn đề gì phức tạp, không thể chỉ dùng năm ba từ cụt ngủn rồi hết sức tự phụ tự hào rằng đã trả lời một cách súc tích ngắn gọn thâm thúy ngụ ý hàm ý...! Ngụ ngôn thầy bói mù xem voi vẫn còn đó! Nhưng cũng không thể chấp nhận nổi khi mà lẽ ra chỉ cần một hai câu ngắn gọn có thể giải quyết dứt điểm vấn đề, nhưng lại nói loanh quanh dài dòng chẳng ra đâu vào đâu để rồi kết quả là Thiên Chúa, Kinh Thánh vẫn bị hiểu sai hay nghi ngờ!
Để trả lời cho sự khó hiểu :"Chúa Con không biết ngày nào giờ nào tận thế, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi..." mà nói ngắn gọn rằng: "Do Chúa Con có bản tính loài người, nên một khi dùng đơn độc bản tính loài người Chúa Con chẳng biết ráo trọi gì về ngày tận thế cả!" Như thế liệu đã đủ chưa? Tất nhiên sẽ có kẻ vặn vẹo, chúng ta tiếp thêm: Nếu dùng bản tính Thiên Chúa, thì Ba Ngôi đồng một bản tính và cùng một uy quyền , thì không những Chúa Con phải biết, Chúa Thánh Thần cũng quá biết. Nhưng Chúa Con là Ngôi Hai Nhập thể, có bản tính loài người. Khi dùng đơn độc bản tính loài người ấy tất nhiên Chúa không thể biết ngày nào giờ nào tận thế.
Nghe có vẻ như bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người không tách rời nhau nơi Chúa Con, qua mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giê su,cũng như một số ý kiến của các nhà thần học về vấn đề Chúa Con Biết hay Không biết việc Tận thế này... Tôi không dám tranh luận về điều này vì chẳng biết căn cứ vào đâu để nhất trí hay bất đồng với quan điểm ấy, cũng như chưa thấy cần thiết phải nghiên cứu hay bàn luận! Nhưng để chứng minh rằng đoạn Kinh Thánh Tân ước : Chúa Biết ở đầu đề tài chẳng có gì khó hiểu mà ngược lại còn rất dễ hiểu, tôi đã căn cứ vào việc Chúa Con có hai bản tính.Rồi để giải thích cho sự đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn đến tột cùng của Chúa Giê su trên thập giá và trước lúc hấp hối, tôi đã viện đến câu :" Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Người bỏ rơi con... Mattheu 27: 46". để chứng minh rằng Ngôi Hai Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng đơn lẻ bản tính loài người để hoàn thành công cuộc cứu chuộc của Người.
Có không ít những khoảng cách giữa những người có trách nhiệm rao giảng Giáo Lý Đức Tin và những người cần được chỉ bảo về Giáo Lý Đức Tin, nhất là giới trẻ! Có nghĩa là người rao giảng, chỉ dạy Giáo Lý Đức Tin với những vốn kiến thức về thần học được cho là rộng lớn, đúng bài bản quy trình thường viết ra không ít những điều nói về niềm Tin Công Giáo cho mọi người. Tuy vậy, thật khó mà nói rằng: việc chứng minh Thiên Chúa là Chân Lý đã thu hoạch được những kết quả to lớn, nhất là nơi giới trẻ!
Không ít những điều được cho là khó hiểu và gây ra nghi ngờ niềm Tin Công Giáo mà giới trẻ hay những người thắc mắc hoài nghi nêu ra với những đấng bậc có trách nhiệm rao giảng chỉ dạy Đức Tin, thì phần nhiều là những câu trả lời chung chung không rõ rệt! Số còn lại không ít những câu giải đáp loanh quanh đi đến chỗ tắc tị !
Quay trở lại đề tài : 5 đoạn Kinh Thánh khó hiểu của tác giả Thomas, tôi đã từng hỏi rằng thông điệp của tác giả mang ý nghĩa gì?
Bởi vì với lối giải thích nhăng nhít nhi nhô chẳng đâu vào đâu, mục đích tốt của tác giả là làm cho người ta vững tin Thiên Chúa là Chân Lý đã không những chẳng mang lại kết quả mà còn phản tác dụng!
Không phải bây giờ, mà ngay từ xa xưa người ta đã nhận thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước khác hẳn với Thiên Chúa trong Tân Ước. Nghĩa là Cựu ước đã cho thấy một Thiên Chúa dữ dằn ghê sợ khi ra lệnh dân Do Thái phải tru hiến (tiêu diệt tận gốc không chừa phụ nữ trẻ em cũng như súc vật) mỗi khi xâm chiếm và tiêu diệt một dân tộc ngoại bang nào đó. Hoặc chỉ cần vô tình trái lệnh của đấng Gia vê một chút cũng khiến cả họ hàng thân thuộc cùng bị trừng trị thảm khốc!
Những kẻ chống đạo hoặc là tay sai thần dữ thì khỏi phải nói! Việc chính đấng Gia vê truyền phải tiêu diệt không chừa bất cứ thứ gì khi cướp phá thành trì các giống dân ngoại bang đã được bọn chống đạo biến thành những quả tên lửa ICBM hạng nặng để tổng công kích vào niềm tin Thiên Chúa là đấng nhân từ và thương xót!
Một khi đã chẳng minh chứng được Thiên Chúa là đấng nhân từ và hay thương xót trước những cáo buộc ghê gớm của kẻ nghịch cũng như người hoài nghi, mà lại viết hoa rồi nhấn mạnh câu: Thiên Chúa Cựu ước cũng như Tân Ước chỉ là Một", thì có khác nào trong một phiên tòa, vị luật sư được trông đợi đã không hề có, mà lại thêm vào một công tố viên đắc lực mới được bổ sung tăng thêm quân số!
Như đã từng phân trần trong đề tài: "Không thể nói ngắn gọn nhưng có thể giải quyết dứt điểm vấn đề",việc chứng minh Thiên Chúa là đấng thương xót và vô cùng nhân từ không thể chỉ một vài câu ngắn gọn thiếu đầu hụt đuôi vô nghĩa lý mà đã tự hào tự phụ rằng mình đã minh chứng được cho Chân lý! Nhất là trước vô số những luận điệu ghê gớm đầy uy lực của thần dữ và tay sai. Nhưng vẫn có thể giải quyết dứt điểm vấn đề với vũ khí zero + Vô Cực.
Một nguyên tắc để phê phán lịch sử mà bất kỳ ai muốn làm một phê bình gia đều phải thuộc như cháo chan và phải căn cứ vào nguyên tắc ấy trước tiên mỗi khi lớn giọng phê phán. Đó là muốn nhận xét ai đó là anh hùng hay là giặc, người tốt hay người xấu phải căn cứ vào đạo đức, luân lý, pháp luật của thời nhân vật ấy đang sống chứ không thể lấy đạo đức luân lý pháp luật của thế kỷ thứ 20, 21 này rồi phê phán thời các vua nhà Trần nhà Lê!
Có thể diễn tả gì về thời Cựu ước, thời kỳ mà dân Israel mới lập quốc do tổ phụ Abraham, cũng như các sắc dân ngoại bang sống chung quanh dân Do Thái lúc đó?
Xin được nói ngắn gọn rằng: Lúc đó loài người trên thế gian vẫn đang nằm dưới ách thống trị của quỷ dữ, bị hậu quả nặng nề của tội nguyên tổ. Sự nhân đạo bác ái nhân bản tha thứ .... hiện diện trong những thế kỷ thứ 19 ,20,21 hiện nay không hề có bóng dáng trong thời kỳ ấy vì đó chỉ là tương lai của vài ngàn năm sau! Lúc ấy loài người từ dân Do Thái cho đến các giống dân ngoại bang thờ bụt thần chỉ biết lấy những thành tích chiến tranh làm vinh quang cho cá nhân tập thể cũng như dân tộc của họ. Những đền đài lăng tẩm cũng như kim tự tháp của nhiều dân tộc trên trái đất vẫn còn những hình ảnh, phù điêu ghi tạc lại các "vinh quang" ấy cho đến ngày nay!
Chúng ta không thể dùng lời nói tử tế, chân tình cũng như mềm mỏng để giáo dục hay cảm hóa một người mất ý thức hoặc bị tâm thần. Thế thì Thiên Chúa khi tôn trọng triệt để quyền Tự do của loài người cũng không thể ép buộc loài người làm theo những điều Chân Thiện Hảo khi mà họ đã không hiểu không biết cũng như không muốn làm những điều tốt đẹp ấy!
Đã nhận định Thiên Chúa là Đấng Thấu suốt quá khứ hiện tại và tương lai như một, thì phải hiểu rằng Thiên Chúa Gia vê sẽ thấy siêu rõ nếu không ra lệnh cho dân Israel tiêu diệt tuyệt tộc một thành trì của quân địch A hay B nào đó, thì có rất nhiều hậu quả xấu gấp nhiều lần :
___Dân Israel vốn đã quá nổi tiếng về sự vô ơn, bất trung đối với Thiên Chúa Gia ve mặc dù Người đã luôn luôn phù hộ giúp đỡ họ trên mọi nẻo đường, trong khi đó các bụt thần, vua chúa của dân ngoại bang chỉ là những thứ vô tích sự với thần dân của họ, vậy mà họ vẫn tôn sùng! Nếu Thiên Chúa Gia vê mà không nghiêm minh trong luật lệ luật pháp khi trừng phạt những kẻ trái lệnh Chúa truyền, có thể là hầu hết dân Do Thái sẽ không còn ai sợ hãi mà tôn thờ, vâng lời đấng Gia vê nữa!
___ Dù là trẻ em , hay là phụ nữ đi nữa, với ánh mắt thấu suốt, Thiên Chúa Gia vê sẽ thấy trước rằng khi trẻ em bên quân địch lớn lên, vô số chi tộc Israel sẽ bị xóa sổ bởi những kẻ nội ứng ghê gớm này. Còn phụ nữ chân yếu tay mềm để cho họ sống hầu hạ người Israel ư? Thế thì gương vua Salamon vẫn còn đó! Một vị vua uy quyền , giàu có khôn ngoan uy phong ghê gớm như thế nhưng vẫn bị những bà vợ ngoại bang làm chủ, đến nỗi Salamon cũng bỏ Chúa để theo bụt thần, xây đền thờ cho bụt thần! Huống chi những nam nhân Israel mà được ban tặng cho một mỹ nữ ngoại bang, giả sử cha mẹ của họ có thể bán được, họ cũng sẽ bán lấy tiền để cung phụng chiều lòng người đẹp! Trong vụ Po-Ơ mà Kinh Thánh ghi lại, đã có 24 ngàn người nam nhân Do Thái bị giết chết khi họ đã theo các phụ nữ ngoại thờ tà thần bụt thần rồi bỏ Chúa! Vậy nếu những binh sĩ Do Thái mỗi khi chiếm được thành trì của địch, lại không tuân lệnh lời Chúa truyền, nhưng cố gắng chiếm lấy một hay nhiều phụ nữ bên địch làm nô lệ hay nàng hầu, có lẽ chỉ một thời gian ngắn không còn được bao nhiêu người Do thái tôn thờ đấng Gia vê nữa do đại đa số đã bị lôi kéo bỏ đạo!
___ Như đã nói : Thiên Chúa là đấng tạo dựng muôn vật muôn loài hữu hình và vô hình nên Chúa có toàn quyền Sinh Tử trên mọi loài. Chính vì thế không ai có quyền hạch hỏi tại sao Chúa lại để người này sống mà người kia phải chết! Tuy vậy, muôn đời Thiên Chúa vẫn luôn luôn là đấng Nhân từ, Công bằng và thương xót. Bởi vì như đã phân tích trong các bài viết trước: Nếu Thiên Chúa cất đi quyền sống trên cõi hữu hình của một người nào đó, thì Chúa sẽ đền bù cho họ một cuộc sống vĩnh cửu ở cõi đời sau nếu họ thuộc type A. Tội lỗi là những điều làm trái lại những luật lệ, lời Chúa dạy bảo nhưng sự thương xót và nhân từ vô cùng của Thiên Chúa được thể hiện rõ nét ở chỗ Thiên Chúa sẽ luôn tha thứ cho những ai vô tình xúc phạm đến Người. Có thể nay mai trên cõi vĩnh hằng đời sau, chúng ta sẽ gặp lại những con người mà khi còn sống ở trần gian, 200% chúng ta cho rằng họ đang chìm sâu trong hỏa ngục! Khi gặp những trường hợp như vậy, chúng ta có thể dám chắc rằng vì họ Không biết Thiên Chúa là Chân Lý, nên đã xúc phạm chống lại đạo của Người. Nhưng họ sống rất tốt và tuân theo những điều mà họ cho rằng đó là Chân Lý. Và do lòng nhân từ và thương xót vô cùng, Chúa đã cho họ hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cứ thế mà suy ra: những binh lính ngoại bang, những trẻ em, những phụ nữ ngoại bang từng bị tàn sát tuyệt tộc không tha từ già đến trẻ theo lời đấng Gia vê truyền trong các cuộc giao tranh giữa dân Israel và dân ngoại xưa kia, chắc chắn nay mai chúng ta sẽ gặp lại họ đang tồn tại vĩnh cửu trên thiên quốc, bởi vì Thiên Chúa Gia vê đã lau khô những giọt lệ trên mi mắt của họ. Trước kia thì họ không biết Chúa nhưng khi chết đi rồi, họ đã nhận ra Chúa là Thiên Chúa đích thực.
|
|