Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 23 trên 23

Chủ đề: Giáo Xứ Trong Giáo Phận Bùi Chu

Threaded View

  1. #2
    yeuthuongvaphucvu_89's Avatar

    Tuổi: 36
    Tham gia ngày: Oct 2008
    Tên Thánh: phero
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Nam Định
    Bài gởi: 126
    Cám ơn
    488
    Được cám ơn 370 lần trong 106 bài viết

    Default

    Quần Cống quê tôi
    Làng tôi có tên gọi là “Làng Quần Cống”. Một cái tên khi còn nhỏ làm tôi thắc mắc ? Có lần còn bị chọc quê có mùi cống rãnh ! Tôi thường tự hỏi : sao quê mình lại có cái tên nghe kỳ cục vậy ! đã Cống, cái tên khi nghe đã thấy không thơm tho gì, lại còn Quần nữa ! mãi khi khôn lớn tìm hiểu mới biết trước đây làng tôi có tên là Làng Đồng Thiện (có sách ghi là Làng Đồng Tiến) được thành lập năm Tân Hợi (1432) về sau con cháu trong làng nhiều người thành đạt về đường công danh : đậu Ông Nghè, Ông Cống nên được vua ban cho tên Quần Cống, ngụ ý : nơi quy tụ nhiều văn nhân, cống sỉ. Từ đó tôi không còn mặc cảm, trái lại còn hãnh diện với tên Quần Cống. Trong giáo phận Bùi Chu, cũng có một số giáo xứ có chữ Quần đứng đầu như : Quần Phương, Quần Lạc, Quần Vinh, Quần Liêu, chắc những nơi đó cũng có một lịch sử vẻ vang, tốt đẹp.

    Nhưng đến năm 1861, Vua Tự Đức ban chiếu chỉ cấm đạo Thiên Chúa, Làng Quần Cống bất tuân, chống lại triều đình, có nhiều người chết vì đạo nên Tổng Đốc Nam Định là Trịnh Quang Khanh dâng sớ xin vua truất phế hai chữ Quần Cống do Lê Triều ban tặng, ông cho rằng không xứng đáng đội hai chữ “Quốc Ân”. Vua Tự Đức sau khi xem tấu đã phế bỏ hai chữ Quần Cống và thay vào hai chữ Thiên Thiện (có nghĩa là rời điều lành vua đã ban) nhưng về mặt tôn giáo vẫn với danh xưng là giáo xứ Quần Cống thuộc giáo phận Bùi Chu.

    Làng tôi cũng như nhiều làng khác Miền Bắc có trồng cây đa, cây đề. Ngay đầu làng có một cây cầu cao, gọi là “Cầu Cống”. Cầu bác qua sông Cát Giang (phụ lưu sông Hồng) sông này chảy ra Cống Cát. Kế mố cầu là một cây đa cổ thụ, nhiều cành vươn dài, lá rậm phủ rợn khu cầu. Cây đa to, nhiều rễ to bằng cổ tay, bắp chân mọc từ cành xuống ôm lấy thân cây làm cây to thêm. Có những rễ như sợi dây thừng dài chừng hai thước mọc tua tủa rũ xuống, trẻ con thường đến đánh đu. Kế cầu là một khu đất rộng để họp chợ, cũng gọi là Chợ Cống. Trong khu chợ có trồng cây đa cây đề, cây lá xum xuê, rợp bóng, thêm mát mẻ. Chợ Cống họp mỗi tháng ba phiên, các ngày khác họp Chợ Trung, Chợ Bắc, Chợ Chà (xã Trà Khê). Ngày họp chợ, ngay từ mờ sáng dân làng và các vùng lân cận đem hàng đến bán. Chợ không có nhà lồng, chỉ có kệ và sạp nhỏ hay bày trên đất. Chợ bán các hàng thổ sản : rau trồng vườn nhà, cá bắt dưới ao hay sông, các hàng ăn uống, những phản thịt lợn tươi nuôi trong nhà. Chợ không lớn lắm nhưng những tiếng chào hỏi, lời mời hàng, kẻ nói qua, người nói lại làm chợ ồn ào náo nhiệt. Mặt tiền chợ là sông Tiền Giang, một nhánh sông Cát Giang, thuyền bè đậu ngổn ngang, nhìn cảnh trên chợ dưới thuyền thật hữu tình. Ông cha ta xưa nhìn cảnh náo nhiệt của chợ đã có hai câu ca dao nói về tình yêu vợ chồng : “ Gái thương chồng đang đông buổi chợ, Trai thương vợ nắng rọi chiều hôm “ Tôi không biết chợ Cống có từ năm nào, sau này ra sao, nhưng tôi còn nhớ ông ngoại tôi nói : “ chắc chợ không được lâu” Khi tôi thắc mắc, ông tôi nói : chợ tồn tại lâu đời là khi đi từ xa đã nghe tiếng lao xao vang vọng”.

    Tại Tiểu Bang New Orleans Hoa Kỳ, nơi có đông người VN sinh sống, trong một khu gọi là Làng Versaillees cũng có một ngôi chợ gọi là “Chợ Chồm Hổm”. Chợ họp trong sân nhà thờ, mỗi tuần một lần. Chợ họp từ sáng tinh sương, mãi đến chiều mới tan, cũng bán đủ thứ như chợ quê nhà. Sau thánh lễ, bà con giáo dân ra ăn uống, mua đem về.

    Đã trên 50 năm sống xa quê nhà, nhưng tôi vẫn còn nhớ những tập quán, nhất là những thói quen đạo đức thánh thiện. Mỗi lần xem TV thấy Đức Thánh Cha đứng tại công trường Thánh Phêrô tại Rôma đọc kinh truyền tin, tôi lại nhớ đến quê tôi năm xưa cũng có thói quen đạo đức ấy. Mỗi ngày, lúc 12 giờ trưa chuông nhà thờ xứ đạo tôi điểm 12 tiếng, sau đó giật một hồi, mọi người dù ở đâu, đang làm gì đều ngừng công việc, làm dấu thánh giá đọc kinh truyền tin. Rất tiếc thói quen này ngày nay không còn ! Cái thói quen đạo đức thứ hai mà tôi nhớ là “ Tiếng chuông sầu”. Mỗi khi trong xứ đạo có người qua đời, tiếng chuông sầu trong xứ đạo đánh từng tiếng một, chừng vài phút. Khi nghe tiếng chuông, mọi người trong giáo xứ làm dấu thánh giá đọc kinh vực sâu, hay một lời nguyện cho linh hồn người mới qua đời.

    . Năm xưa nhà thờ xứ đạo tôi không có núi hay đài Đức Mẹ. Một tượng Đức Mẹ hồn xác lên trời, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao, có thiên thần chầu được đặt vào tòa nhỏ. Tòa được đặt sâu vào đầu nhà, nhà này kêu là Hội Quán. Phía trước là sân nhà thờ, kế bên phía Nam là trường học. Sân này về mùa mưa thường đọng nước, chậm tiêu ! về mùa nắng rong rêu bong lên từng mảng ! Một chỗ không được thuận tiện như vậy, nhưng lại là nơi xứ đạo biểu lộ lòng yêu mến Đức Mẹ. Cứ mỗi chiều thứ bảy, sau thánh lễ, giáo dân tụ họp nơi đây đọc kinh chung kính Đức Mẹ thật sốt sắng. Trước khi làm dấu thánh giá ra về cha phó thường xướng ba lần câu : Regina Pacis. Giáo dân thưa : Orapro nobis. Nhiều khi vắng cha tôi cũng phải xướng như vậy mà chẳng hiểu gì !

    Xứ Quần Cống khởi đầu (1737) có đến 17 họ đạo như : Nghiệp Đạt, Khu Tây, Khu Đông, Thổ Thôn, Cát Phú, Lạc Thành, Nẵng Năng, An Phó, Đa Phúc, Nghiệp Đoài, Nam Điền, Hiệt Củ, Hành Nha, Sa Châu, Ngưỡng Nhân, Đại Đồng, Đồng Thiện (nay là Thiện Giáo). Sau này, mỗi ngày số giáo dân đông thêm nên nhiều họ đạo được tách ra trở thành giáo xứ, mới đây Họ Khu Tây thành xứ Thánh Thể; Họ Nghiệp Thổ thành xứ Thánh Mẫu. Xứ Quần Cống hiện nay chỉ còn 5 họ đạo : Họ Nhà Xứ, Họ Nghiệp Đạt, Họ Khu Đông, Họ Đa Phúc, Họ Nghiệp Đoài. Cha chánh xứ hiện nay (2007) là cha Gioankim Nguyễn Hữu Văn.

    Sau biến cố 30-4-1975, tôi về thăm quê thấy nhiều nhà thờ xuống cấp. Một xứ đạo có 5 họ đạo, có 5 cái nhà thờ, nhà thờ này kế cận nhà thờ kia không biết ranh giới chỗ nào ! có họ đạo không quá 100 gia đình. Miền Bắc là miền hay bão táp, mỗi lần có bão là mỗi lần hư hao phải sửa chữa ! Chỉ nghĩ đến bảo táp, sửa chữa cũng phải thán phục công sức và sự chịu đựng của bà con tại quê nhà. Vài thập niên trở lại đây, nhờ sự yểm trợ tài chánh từ bên ngoài; nhờ công sức giáo dân nên các nhà thờ đã được xây cất, sửa sang khang trang hơn.

    Quê tôi người dân hiền lành, cần cù, nghề chính là nông nghiệp, nhưng đất đai lại chật hẹp ! Theo sách ghi, cả công tư điền thổ có 400 mẫu ! đa số đồng cao, về mùa nắng đất khô nứt nẻ, đút lọt bàn tay ! một số ruộng thấp nước đọng sũng bùn quanh năm ! Vì là làng toàn tòng nên ưu đãi cho nhà thờ, làng cấp cho nhà xứ 7 mẫu công điền để cày cấy thu hoạch chi tiêu hằng năm. Mùa cày có trâu bò của giáo dân vào cày giúp, mùa gặt có giáo dân vào gặt ủng hộ. Để điều hành công việc họ, mỗi họ đạo có một vị Trùm và Ban Hành Giáo, đặc biệt làng nhận Đức Bà Rosa làm bổn mạng, nên có một vị Trùm Làng gọi là Chánh Trùm Rosa, ông ngoại tôi đã được bầu vào chức này. Làng còn cấp cho một mẫu ruộng để chi phí hằng năm. Thửa ruộng làng vuông vức, đẹp đẽ kế đường đi Láng Cát. Hai đầu ruộng, một đầu trồng cây đa, một đầu trồng cây đề, cánh đồng này gọi là Đồng Thổ, giáp ranh Xã Trà Đông và Xã Vạn Lộc. Khu Nhất Đỗi Đồng Thổ này có một khu đất cao gọi là Mả Màn, nơi an nghỉ của các Cụ Tổ, người dân khi chết được an táng nơi cánh đồng Đông Biên. Khu nhất đỗi đồng thổ này, nhất là khu cánh đồng Thượng Tiến tôi thấy lác đác những gò đống, ụ đất cái thì to, cái thì nhỏ. Có lần bố tôi nói ụ đất do “Giặc Ba Vành” để lại, cũng có người nói “ Giặc Cờ Đen” mãi sau biến cố 30-4-1975, tôi thấy nhà nước xã hội chủ nghĩa dậy học sinh : Ông Phan Bá Vành làm cách mạng, tôi nghĩ ụ đất làng tôi là di tích lịch sử, có liên quan đến Ông Phan Bá Vành nên tôi tìm đọc cuốn lịch sử VN của Ông Nguyễn Phan Quang và Ông Võ Xuân Đài, xuất bản tại Saigon sau năm 1975 thấy có ghi : Thời Vua Gia Long mới lên ngôi (1802) nhiều cuộc khởi nghĩa của quân cờ vàng, cờ đen, cờ trắng. Cuộc nổi dậy của các Ông Vũ Đình Lục, Đặng Trần Siêu (1824) bị dập tắt. Khoảng giữa năm 1825 cuộc khởi nghĩa của Ông Phan Bá Vành tại Hải Dương, ông thắng nhiều trận ở Cồn Tiên, Cổ Trai, Liêu Đông Phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình, sau khi thất trận ông về đóng tại Trà Lũ Phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Có sách ghi, ông người Làng Trà Lũ, nên cuộc khởi nghĩa có nhiều người Trà Lũ theo ông. Từ Trà Lũ đến ụ đất Làng Quần Cống chừng hai cây số.

    Xã tôi cũng như nhiều xã khác có các viên chức đứng đầu xã để điều hành công việc chung. Theo sách ghi : thời Nhà Trần, người đứng đầu xã trông coi về hành chánh kêu là Xã Quan. Đến năm Bính Tý (1516) đời vua Lê Chiêu Tông, đổi là Xã Trưởng, song song với xã trưởng có Hội Đồng Kỳ Hào để thi hành hương ước. Đến năm Nhâm Ngọ (1522), đời vua Lê Cung Hoàng, người đứng đầu xã kêu là Hương Trưởng trông coi về hành chánh. Hương Trưởng duy trì và thi hành hương ước, nhưng sau đó được bãi bỏ mà gọi là Tiên Chỉ. Đời vua Khải Định (1921) chức Tiên Chỉ được bãi bỏ thay

    thế bằng Hội Đồng Tộc Biểu do các chi tộc trực tiếp bầu ra để đại diện dân trước chính quyền và thi hành hương ước, tức thi hành luật lệ. Ông ngoại tôi cũng đã được bầu vào chức này, bà con dân làng thường gọi là Ông Chánh Hội Chí, vài thập niên sau còn thấy mấy vị Tộc Biểu như Ông Biểu Chấp, Ông Biểu Quy. Đến năm 1944, thời chính phủ Trần Trọng Kim, hội đồng tộc biểu được bãi bỏ mà đặt một vị làm Tiên Chỉ, chức này dành cho cựu quân nhân (thời thuộc địa Pháp). Năm 1945, thời Việt Minh, người đứng đầu xã là Chủ Tịch. Đến năm 1949 là thời kỳ Bùi Chu Phát Diệm tự trị (2 năm 4 tháng) người đứng đầu xã gọi là Xã Trưởng.

    Trước thời Bùi Chu tự trị, từ 1945 đến 1949 thời Việt Minh nắm chính quyền. Thời gian chỉ vỏn vẹn có 4 năm, nhưng xã tôi đã có một phiên tòa, gọi là tòa án nhân dân, mấy ông viên chức nhỏ xử một ông trước đó có chức tước lớn hơn. Gọi là tòa án nhân dân nhưng số người dân tham dự thưa thớt như kẻ bàng quan. Tôi còn nhớ, phiên tòa được đặt tại sân đình làng. Ngay chính giữa là bàn Trưởng Ban Tư Pháp, phía bên phải là bàn thư ký, đối diện bàn thư ký kê một hàng ghế cho các viên chức. Bắt đầu phiên xử, Trưởng Ban Tư Pháp ngồi ghế chánh án, tay cầm quạt, vừa quạt vừa ho, mặt đỏ gay ! Một người được gọi là tội nhân qùy trước tòa là một ông những năm về trước có địa vị lớn trong xã, họ cùng làm việc với nhau, họ thường gặp nhau chỗ này chỗ kia, họ cũng gặp nhau trong nhà thờ ! Mới chỉ có mấy năm mà xẩy ra như vậy, chả trách gì những năn cải cách ruộng đất người dân bị kích động, bị ép buộc, vì sợ hãi hay được hứa hẹn hưởng quyền này lợi kia nên một số đứng ra tố cáo, vu khống ! Điều may mắn là phiên tòa đến rồi qua đi, không gây đau khổ, phiền hà gì nhiều.

    Một câu truyện trong Kinh Thánh nhiều người biết, cả những người không công giáo : Một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật đạo cũ, tội này phải ném đá ! Dân Do Thái đem bà ấy đến trước Chúa Giêsu để hỏi Chúa phải xử thế nào ? Một lời nói của Chúa Giêsu làm bài học cho muôn thế hệ : “ Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá ném trước đi “

    Tai hải ngoại mấy năm gần đây, trên các đài phát thanh thường phát ra bài hát : “ Truyện người đàn bà hai ngàn năm trước..” Tác giả bài hát đã lấy ý từ đoạn Kinh Thánh trên để nhắc nhớ mọi người.

    Làng tôi là làng toàn tòng, có Ba Thánh Tử Đạo. Ba Vị cùng một gia đình nên được xưng tụng là : “ Nhất Gia Tam Thánh “. Quần Cống khi xưa nơi nẩy sinh Văn Nhân Cống Sĩ, thế hệ sau nhờ dòng máu Tử Đạo của cha ông sinh nhiều hạt giống Ơn Gọi. Một giáo xứ có nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ vào bậc nhất của giáo phận Bùi Chu. Giáo xứ Quần Cống đã cống hiến cho giáo hội : 1 Giám Mục, 1 Tổng Giám Mục và 1 Đan Viện Phụ, về Linh mục xin kể trường hợp đặc biệt : ba gia đình có 2 người làm linh mục; một gia đình có 4 người làm linh mục. Số người muốn dâng mình cho chúa mỗi ngày mỗi gia tăng.

    Trên 5 thập niên sống xa quê nhà ! Nhìn lại thấy bao vui buồn lẫn lộn ! Buồn cái mất mát, vất vả, thiếu thốn của bao người nhiều thập niên ! Vui vì thành quả kiến thiết giáo xứ : Thánh đường nguy nga; Trung Tâm Mục Vụ, Nhà Xứ khang trang; Đài Đức Mẹ tại hồ nhà thờ, một ước mong của giáo xứ nhiều thập niên nay đã hoàn thành tốt đẹp. Dự án xây đền kính Tam Thánh quê hương trong khuôn viên thánh dường đã được khởi công.
    Chữ ký của yeuthuongvaphucvu_89
    Da đen, tóc xoăn, nhưng tấm lòng ngay thẳng:NhacSi:

  2. Có 8 người cám ơn yeuthuongvaphucvu_89 vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com