|
NÓI KHÔNG ? KHÔNG NÓI ?
1. NGƯỜI VIỆT NAM lựa lời nói rất sớm
Truyền thuyết Thánh Gióng kể :
Vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay ! Ðứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Ðứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói : “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo : “Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.
Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Ðám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Ðến đấy, một người một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn, không biết lấy gì đền đáp, phong là Phù Ðổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả mầu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.
Dân tộc Việt Nam sớm đánh mất “tuổi thơ” của mình vì hoạ ngoại xâm. Lời nói đầu tiên của đứa trẻ lên 3 không phải là “cha”, là “mẹ”, mà là lời xin đi đánh giặc…
Trước thực tại cuộc sống, người Việt Nam không hề ngậm miệng làm thinh.
2. NGƯỜI VIỆT NAM lựa lời nói rất đều
Chính sử chép :
Thượng hoàng (tức vua Trần Thánh Tông) triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói : “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng (Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỉ toàn thư quyển 5).
Trước thực tại cuộc sống, người Việt Nam không hề ngậm miệng làm thinh.
3. NGƯỜI VIỆT NAM lựa lời nói rất hay
Giai thoại rằng :
Trên đường về kinh đô, có một hàng bán nước cho khách, lại là quán trọ cho những kẻ lỡ độ đường. Chiều hôm ấy, có một ông khách vào quán. Khách ăn mặc xoàng xĩnh, chiếc áo the dài đã sờn cũ, quần cháo lòng khâu vài chỗ, trông khách ra vẻ một nho sinh. Tuy nhiên, nếu ai nhìn kỹ khuôn mặt, sẽ thấy ánh lên vẻ uy nghi, ngạo nghễ. Khách bước vào quán nhưng chả ai chú ý đến cả, vì với cách ăn mặc như thế thì rõ ràng là một kẻ nghèo. Ngồi ở bàn bên cạnh khách là một viên quan bản hạt, dáng bệ vệ, miệng nhai trầu tóp tép, cạnh đó có lính hầu đứng quạt cho ông ta. Viên quan nhai xong miếng trầu, nhổ bã đánh toẹt xuống đất. Bỗng anh hàn sĩ kia mon men lại gần, nhặt miếng bã trầu kia lên nhìn với vẻ quan sát rất kỹ. Quan thấy thế khó chịu và kinh ngạc, bèn lớn giọng hỏi một cách khinh bỉ :
- Thằng kia, mày là ai, ở đâu tới ?
Nho sĩ đáp :
- Bẩm ông, tôi là học trò nghèo, đi kiếm chỗ dậy học.
Quan cười mỉa :
- Chà ! Học trò nghèo đến nỗi phải đi nhặt bã trầu à ?
Nho sĩ nọ xoa tay thưa :
- Bẩm quan, tôi thường nhge người ta nói : “Miệng nhà quan có gang có thép”, bởi thế muốn nhặt bã trầu của quan xem thử có đúng không ạ ?
Biết mình bị xỏ, quan quát :
- Hay lắm ! Mày đã tự xưng là học trò, vậy ta truyền cho mày phải đối lại câu mày vừa nói. Đối được thì thôi, bằng không tao, cho một trận dừ đòn !
Nho sĩ ra vẻ sợ hãi, thưa :
- Câu ấy thật khó quá, khó quá...
Quan đắc chí, thét :
- Thế thì lính đâu, đè nó xuống !
Anh nho sĩ kia vội vàng thưa :
- Thôi thì tôi xin mượn tạm một câu cách ngôn dân gian để đối, có được không ạ ?
Quan bảo :
- Muốn mượn cách gì mặc mày, nhưng phải đối cho chỉnh !
Anh kia đứng dậy, hắng giọng đọc :
- Đồ nhà khó vừa nhọ, vừa thâm !
Viên quan trố mắt kinh ngạc, đứng chết lặng cả người, trong lòng không khỏi khâm phục. Sau đó, đổ giận làm vui, bảo lính mở bọc lấy trầu tươi mời anh học trò kia ăn. Lại khẩn khoản mời nho sĩ ngồi chung bàn mà dùng chè, đối ẩm. Qua câu chuyện, quan mới sợ hết hồn khi biết ra mình đang ngồi với quan Trạng triều đình, người mà cả vua quan đều kính nể, e dè, anh nho sĩ ngèo ấy là Cống Quỳnh.
Trước thực tại cuộc sống, người Việt Nam không hề ngậm miệng làm thinh.
4. NGƯỜI VIỆT NAM lựa lời nói rất thật
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995), trong Lời mẹ dặn, từng viết :
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi :
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất ?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời :
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không ! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
5. THIÊN CHÚA chọn ngôn sứ để nói thay dân
ĐỨC CHÚA phán : “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta ; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai Cập. Bây giờ, ngươi hãy đi ! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập.”
Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa : “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập ?” Người phán : “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi : khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.” (Xh 3,7-12)
Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA : “Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.” ĐỨC CHÚA phán : “Ai cho con người có mồm có miệng ? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng hay phải mù loà ? Há chẳng phải là Ta, ĐỨC CHÚA, đó sao ? Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì.” Ông thưa : “Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai.” ĐỨC CHÚA nổi giận với ông Mô-sê ; Người phán : “Nào chẳng có A-ha-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao ? Ta biết : nó ăn nói được lắm ; hơn nữa, kìa nó ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỉ. Ngươi sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi và nơi miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm. Chính anh ngươi sẽ thay ngươi mà nói với dân. Chính nó sẽ là miệng của ngươi ; còn ngươi, ngươi sẽ là một vị thần đối với nó. Cây gậy này, ngươi hãy cầm lấy trong tay ; ngươi sẽ dùng nó mà làm các dấu lạ.” (Xh 4, 10-17)
Ngôn sứ của Thiên Chúa không được không nói và không nói không được.
6. THIÊN CHÚA chọn ngôn sứ để nói cho dân
Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi (ngôn sứ Giê-rê-mi-a) rằng :
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi,
Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
Nhưng tôi thưa :
“Ôi ! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói !”
ĐỨC CHÚA phán với tôi :
“Đừng nói ngươi còn trẻ !
Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi ;
Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói.
Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”,
- sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Rồi ĐỨC CHÚA giơ tay chạm vào miệng tôi và phán :
“Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi.
Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước,
để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng.”
Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy trỗi dậy ! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn. Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ : từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr 1, 4-10.17-19)
Ngôn sứ của Thiên Chúa không được không nói và không nói không được.
7. THIÊN CHÚA chọn ngôn sứ để nói vì Sự Thật
Số là vua Hê-rô-đê đã bắt trói ông Gio-an và tống ngục vì bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. Ông Gio-an có nói với vua: “Ngài không được phép lấy bà ấy.” Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng : “Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su. (Mt 14, 3-12)
Ngôn sứ của Thiên Chúa không được không nói và không nói không được.
8. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM đã nói
Trải hơn 400 năm hiện diện, Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam đã nói những gì ? Nguyễn Trường Tộ (1828-1871), một giáo dân Công giáo, đã nói bằng cả con tim, khối óc của mình với khát vọng chấn hưng đất nước (tìm hiểu thêm về Nguyễn Trường Tộ). Jean Cassaigne (1895-1973), một Giám mục nước ngoài nhưng đã chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai, để cùng sống và chết với những bệnh nhân phong Việt Nam (tìm hiểu thêm về Jean Cassaigne). Vâng, Hội Thánh Công giáo tại Việt Nam không ngừng lên tiếng, có khi nói bằng lời, có lúc nói bằng hành động. Sau biến cố 1975, Hội Thánh Công giáo Việt Nam có vẻ “kiệm lời” hơn. Tạ ơn Chúa, vì trong khoảng thời gian này, một tiếng nói Hi Vọng được âm thầm cất lên, và ngày nay, nhờ Ơn Chúa, tiếp tục “vang đến tận cùng trái đất”. Đó chính là tiếng nói Hi Vọng của Tôi tớ Chúa : Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (rất nên đọc tác phẩm Đường Hi Vọng của Ngài ; xem thêm Thông báo Án lệnh thu thập tài liệu phong Chân phước và phong Thánh cho Tôi tớ Chúa, Hồng y P.X Nguyễn Văn Thuận). 1986, đánh dấu thời điểm đất nước bắt đầu mở cửa. Cửa mở, đồng nghĩa với gió lành lẫn gió độc ùa vào. Hội Thánh Công giáo Việt Nam đã nói gì vào thời điểm đó ? Hội đồng Giám mục Việt Nam, đại diện chính thức của cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam, đã nói những gì ? Đúng là các Ngài vẫn nói đều đặn qua các Thư chung hằng năm, sau mỗi kì họp Hội đồng Giám mục, nhưng tiếc thay, đó lại là những Thư chung…chung ! Mỗi năm cộng đồng dân Chúa háo hức chờ đợi để rồi tiếp tục đợi chờ một bức Thư chung…nhịp với cuộc sống đất nước thời mở cửa với bao vấn nạn : tham nhũng, bất công, gian dối,… Năm 2002, một tia hi vọng loé lên, khi tin “bên lề” cho hay : Hội đồng Giám mục Việt Nam có gửi một Thư ngỏ tới Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp. Nhưng khi tra cứu lại thì người viết lấy làm lạ là trang web của Hội đồng Giám mục Việt Nam không lưu trữ văn bản quan trọng này. Văn bản, mà theo người viết, có giá trị nhất trong các văn kiện của Hội đồng Giám mục Việt Nam từ sau năm 1975 (tham khảo thêm mục Văn kiện HĐGMVN). Còn nhớ khi đọc Thư ngỏ 2002, cộng đồng dân Chúa vui mừng khôn xiết. Cứ tưởng, với thông lệ này, Hội Thánh Công giáo Việt Nam sẽ đồng hành (đúng nghĩa) với dân tộc, nhưng rất tiếc, mọi sự lại trôi vào im lặng ! Những bức Thư năm sau lại tiếp tục rơi vào lối mòn chung chung, tuy có đề cập tới một vài vấn đề nóng bỏng (như giáo dục), nhưng thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài (Tv 94, 11b). Năm 2008, 2009 gần đây, đất nước chuyển mình mạnh mẽ hơn trong công cuộc hội nhập quốc tế, người dân cũng ý thức hơn về vai trò và tiếng nói của mình trong vận hội mới của đất nước. Nhiều tiếng nói đã cất lên, từ cá nhân cho tới tập thể. Thế mà, thật tiếc, Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn đứng ngoài cuộc. Vấn đề Toà Khâm sứ, Thái Hà, Tam Toà, Loan Lí,…, Hội đồng Giám mục thận trọng từng lời ăn tiếng nói, theo tôi cũng có nguyên nhân của nó, có lẽ các Ngài vẫn còn “ngại” “dư luận” : “đạo Công giáo tiếp tay cho giặc Pháp xâm lược Việt Nam, nên sau đó Pháp tạo nhiều thuận lợi cho Công giáo…” (lắm lúc, “dư luận” là “luận dư”, và chưa chắc “dư luận”đã đúng). Như vấn đề như khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, toàn xã hội đều quan tâm, thế mà Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn “im re”. Một khoảng thời gian “hơi lâu” sau đó, cộng đồng dân Chúa mới nghe Đức Hồng y Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn lên tiếng qua Thư Mục tử về Môi trường. Tuy là tín hiệu vui nhưng nhiều người vẫn đặt câu hỏi về tính kịp thời của lá thư (hơi trễ) và đồng thời của các Đấng lãnh đạo Hội Thánh Công giáo Việt Nam. Tại sao chỉ có một vị (trên tổng số mấy mươi vị) lên tiếng ? Tại sao không là cả Hội đồng Giám mục mà chỉ có một vị Hồng y Tổng Giám mục lên tiếng ?
9. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM đang nói
Trong những ngày gần đây, Bài chia sẻ của Đức cha Phao-lô Bùi Văn Đọc tại Đền thờ thánh Phao-lô ngoại thành (trong chuyến Ad limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam, tháng 06 năm 2009) đang gây một “xì-căng-đan” trong cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam cũng như hải ngoại sau hai bài “cảm nhận cảm động” chỉ cách nhau ba ngày của hai Linh mục dòng Phan-xi-cô (“Lạy Chúa, chúng con không biết ăn nói !” của Linh mục Nguyễn Hồng Giáo, OFM và "Cứ phải nói dù không biết nói" của Linh mục Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM)
Trong bài viết này, tôi chỉ xin “cảm nhận” về hai câu trong bài chia sẻ của Đức cha Phaolô (sau khi đã đọc toàn văn bài chia sẻ). Hai câu đó là : “Chúa chỉ đòi hỏi chúng tôi 'can đảm nói sự thật khi cần', dù phải trả giá bằng mạng sống. Chúng tôi không thể vừa căm ghét người khác, vừa rao giảng tin mừng Tình Yêu cho họ, vì như thế là tự mâu thuẫn”.
“Can đảm nói sự thật khi cần”. Sự thật mà chúng con muốn quý Đức cha lên tiếng không phải là những điều cần phải được giữ bí mật, mà chúng con chỉ xin quý Đức cha lên tiếng về những sự thật đang được phơi bày trước bàn dân thiên hạ mà không ai dám lến tiếng, hoặc thiếu một tiếng nói có “kí” và có “lí”. Hội đồng Giám mục, đúng là một tổ chức không phải lập nên để làm chính trị hoặc lật đổ chính quyền, nhưng cũng không phải là một tổ chức đứng ngoài và đứng xa những vấn nạn của xã hội và con người. Như vấn đề phá thai, nước Việt Nam phá thai có “hạng” trên thế giới, tại sao Hội đồng Giám mục không có một tuyên bố chính thức với chính quyền và người dân về lập trường dứt khoát của Hội Thánh Công giáo là chống phá thai ? Dân oan khiếu kiện lâu ngày mà chẳng “quan” nào chịu giải quyết thấu tình đạt lí cho họ, tại sao Hội đồng Giám mục Việt Nam không lên tiếng báo động về tình trạng công lí, sự thật bị uốn cong, thậm chí bị bẻ gãy tại Việt Nam ?
“Can đảm nói sự thật khi cần”, theo con, không chính xác mà nên thay là “can đảm nói sự thật vì cần nói”. “Chúng tôi không thể vừa căm ghét người khác, vừa rao giảng tin mừng Tình Yêu cho họ, vì như thế là tự mâu thuẫn.” Đọc riêng một câu này thì có vẻ hợp lí nhưng nếu đặt trong văn mạch của toàn văn bản thì hoàn toàn không phù hợp. “Nói sự thật” và “căm ghét người khác” là hai việc hoàn toàn khác nhau. “Nói sự thật” không phải là “căm ghét người khác”. Còn nếu “căm ghét người khác” mà tôi nói thì lời tôi không phải là lời ngay chính. Bởi hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Cho nên, cần phải nói lên sự thật vì sự thật là sự thật, và nói hoàn toàn không phải vì “căm ghét người khác” mà do “yêu thương người khác”. Sự thật trên hết mọi sự thật là Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,27) nên những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và đáng bảo vệ (những lập luận kiểu như : nhân quyền tại Việt Nam khác nhân quyền tại Mĩ…, là hoàn toàn nguỵ biện).
10. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO VIỆT NAM sẽ nói
Chỉ còn vài mươi ngày nữa là Hội Thánh Công giáo Việt Nam bước vào Năm Thánh 2010 với sự kiện là một Đại hội dân Chúa sẽ được tổ chức.
Tôi thiết tha xin nhiều người khoan “phong” cho Đại hội này là “công đồng Vatican II của Việt Nam” bởi đã thấy kết quả thực tế của Đại hội này đâu mà lại vội đánh trống thổi kèn.
Tôi ước ao mọi thành phần dân Chúa hết lòng đóng góp cho Đại hội này, không chỉ về vật chất mà còn cả bằng lời cầu nguyện, những góp ý chân thành, thẳng thắn, xây dựng và yêu thương (nên xem Đề cương Giáo hội tại Việt Nam : Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ).
Con hết lòng mong Hội đồng Giám mục Việt Nam, trước, trong, và sau Đại hội dân Chúa 2010 luôn luôn “can đảm nói sự thật vì cần nói”.
Và cuối cùng, xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17), để tất cả nên một (Ga 17,21a).
Ngợi khen Chúa Giêsu và Đức Bà Maria !
Bây giờ và đời đời. Amen.
Phi An
(source: dcctvn.net)
|
|