|  | 
 Nét hội nhập văn hoá từ Thánh Đường Sơn Quả, Huế  
 Ngôi thánh đường mới giáo xứ Sơn Quả đã thu hút cái nhìn của khách trên  con đường lên xuống vùng đồi núi Tân Sơn, Phong Sơn - Hoà Mỹ, vùng đất có phong  cảnh hữu tình, có suối nước nóng trong lành Thanh Tân, có khe lồ - ồ, có cả núi  Đức Mẹ từ trước năm 1934, mà giáo dân Thanh Tân - Sơn Quả vẫn nhiệt tình vượt  khó lên đó để kính viếng hằng năm sau ngày Lễ kính Đức Mẹ Hồn xác Lên Trời  15.8…
 
 Thánh đường Sơn Quả đã được hoàn thành theo phong cách Á Đông, trong  tinh thần hội nhập văn hoá, nhà thờ nổi bật lên trên vòm trời bao la xanh  thẳm, hài hoà với đồi núi màu xanh lam, xanh xám; phong cảnh tuyệt đẹp; màu xanh  ngọc, xanh non mượt mà của vườn tược ruộng đồng, mang theo hương vị bùi bùi của  mùa đậu xanh, đậu phụng, thật dễ chịu, rất đặc trưng quê hương !
 
 
 Giáo  xứ Sơn Quả đã có từ lâu đời, trong danh sách giáo phận Huế từ năm 1867, một địa  sở đã được nhắc đến với hai giáo xứ Sơn Quả và Sơn Công. Giáo xứ Sơn Quả cách  Huế khoảng 30km về phía Tây Bắc, cách quốc lộ 1A và cầu An lỗ chừng 10 km, giáp  với giáo xứ Thanh Tân và làng Cổ Bi.(1) Sơn Quả ở vào một vị trí rất đẹp, tựa  lưng vào chân dãy Trường Sơn, và có con sông Bồ đầu nguồn chảy qua tưới mát  ruộng vườn, ban tặng không khí trong lành cho con người và muôn vật.
 
 Thánh  đường giáo xứ Sơn Quả, một tác phẩm kiến trúc mới, bằng sự nổ lực của quý Cha  Đôminicô Lê Đình Du, Cha Augustinô Nguyễn văn Dụ và toàn giáo xứ, chắc là anh  chị em giáo dân đã rất vinh dự vì đã góp phần nhỏ của mình vào công trình xây  dựng Nhà Chúa rực rỡ như hôm nay. Toàn cảnh đã mặc lấy một cảnh sắc mới như  thiên đàng trần thế…
 Bước lên chín (9) tầng cấp bằng đá đen, vào cửa chính  điện… chúng ta cảm nghe được sự ấm cúng thân thiện từ lòng nhà thờ, khung cảnh  thanh thoát, trang nghiêm và thánh thiện… theo hướng nhìn lên, đôi mắt của chúng  ta gặp được một hình ảnh thân thương trìu mến: CHA. THIÊN CHÚA CHA, bức tượng ẩn  ẩn, hiện hiện, bên trên bầu trời thế giới, đôi tay Chúa Cha giang rộng như đang  muốn ôm lấy cả loài người.
 
 Ngài thật đang gần bên chúng ta, bàn tay Ngài che  chở, quan phòng cho thế giới nầy đi đúng theo trật tự tốt lành Ngài đã định.  Nhìn thấy hình ảnh nầy tôi khá ngạc nhiên và xem đây là một ý tưởng sáng tạo  được thể hiện bằng nghệ thuật tạo hình hiếm thấy…
 
 Vòm cao cung thánh là bầu  trời, màu vàng sáng rực, CHÚA THÁNH THầN, hình ảnh chim bồ câu trắng, xoè cánh  tung bay, như hình ảnh Chúa Thánh Thần hiển hiện trong ngày Chúa Giêsu chịu phép  rửa tại sông Gio-đan, Thánh Thần chứng thực Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa  Cha, và trọn cuộc đời của Ngài đều được Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần cũng là  Đấng thánh hoá lễ vật trên bàn thờ để dâng lên Chúa Cha. Bên dưới, cây Thánh Giá  CHÚA GIÊSU, ĐẤNG CỨU CHUỘC chúng ta, Đấng Chịu treo trên Thập Giá, được thỉnh  đặt vào vị trí trung tâm và chính diện, trên nền mặt trống đồng, theo quy cách  Trống Đồng Đông Sơn của dân tộc Việt.
 
 Mặt Trống đồng có đường kính 5m, biểu  tượng độc đáo của Nước Việt, niềm tự hào của văn hoá văn minh dân tộc, trên  trống đồng diễn tả được rất nhiều điều, ta tìm hiểu thì sẽ rất thú vị. Ở đây,  tác phẩm nghệ thuật được đưa vào ngay ở gian cung thánh, người chủ công trình đã  giữ lại những nét chính yếu của Trống đồng như: Những tia sáng mặt trời (có  người cũng gọi là ngôi sao), phát xuất từ trung tâm của trống. Những vòng  tròn kế tiếp từ trong ra ngoài: Hình người cách điệu ! có dáng chim, mang trang  phục chim: cánh, mũ, trong một tư thế lanh lẹ, sinh động… Giống nòi Lạc Việt  (Lạc: chim Hạc) người Việt ví mình như chim; một loài chim luôn tung trời tìm tự  do ! Vòng tròn tiếp theo, những cánh hạc tung bay một cách tự tin, vươn cao,  cánh và chân sãi dài mạnh mẽ, tất cả đều có chiều đi ngược kim đồng hồ, nhưng  tất cả đều quay quanh trọng tâm là Mặt Trời: Chúa Giêsu Kitô trung tâm. Ngài  luôn ở lại với Hội Thánh: hai mẫu tự Alpha và Omega, nơi đặt Lời Ngài và Bí Tích  Thánh Thể, biểu tượng Đức Kitô là Đầu hết và Cuối hết của lịch sử. Nét nghệ  thuật tinh tế đầy tính mỹ học và tính thuyết phục thu hút mọi cái nhìn.
 
 Hội  nhập vào đó là những biểu tượng kitô-giáo cho những vòng tiếp theo: những nhánh  lúa no chắc, những trái nho chín mọng chín, là lương thực nuôi sống và rượu nho  làm phấn khởi lòng người. Cuối cùng, vòng ngoài là biểu tượng của Bốn Thánh Sử.  Các đấng đã chứng minh và để lại cho nhân loại chứng tích về Một Con Người-Thiên  Chúa, Đấng đã đến đem ơn Cứu rỗi cho từng mỗi con người và cho toàn thể nhân  loại. Cái làm nên bữa tiệc hân hoan cho nhân loại trong đức tin là “Năm chiếc  bánh và Hai con cá”, tiệc dưới đất và tiệc của thời cánh chung, tất cả mọi  dân nước Đông -Tây được mời vào…Kết nối các vòng tròn nghệ nhân khéo tay tạo  những đường nét hoa văn nhẹ nhàng, đẹp mắt, tính nghệ thuật cao trên cùng một  tổng thể: mặt trống đồng.
 
 Thiết nghĩ: Trống đồng, một hình thức diễn tả nền  văn hoá có tính cách tôn giáo của người Lạc Việt. Trên trống đồng, mọi sinh hoạt  của người xưa đều quay chung quanh mặt trời, sùng bái mặt trời, một hình thức  của tôn giáo tự nhiên mà con người tự cảm nhận trong đời sống… Nét hội nhập  nầy trong tinh thần đem hạt giống Tin Mừng vào trong các nền văn hoá để làm cho  những gì vốn đã tốt đẹp nơi nền văn hoá đó càng thêm tốt đẹp hơn, đông thời cũng  thanh luyện cách tiệm tiến những gì không phù hợp với giáo lý của Đức Kitô  (2). Thánh Giá được đặt ngay trên đó, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ, Ngài phải  được đặt vào trung tâm thế giới, trung tâm của mọi nền văn minh nhân loại.
 
 Một nét hội nhập văn hoá Đông Phương đi liền với lễ đài là Bàn Thánh: ”Trời  tròn - Đất vuông.
 
 ” Hình tròn chỉ thị vĩnh cữu, vô thuỷ vô chung, nói lên  khái niệm về đạo Trời (yêu tố Thiên), về chân lý, không lệ thuộc vào không gian,  thời gian.
 
 Hình vuông: chỉ về bốn phương: Đông-Tây-Nam-Bắc, nói lên khái niêm  không gian (yếu tố Địa)(3) . Bàn Thánh, nơi mỗi ngày Linh mục tiến dâng lễ  tế nhiệm mầu, liên kết những tâm hồn hèn mọn trần gian trong hy tế cao cả của  Con Chúa dâng mình là Con Chúa Trời, nơi giao hoà đất với trời, để con người  biết dâng lên lời ca tụng Chúa và sống đời hoàn thiện mỗi ngày mỗi hơn.
 
 Bốn  cột trụ đỡ lấy vòm cung thánh, vững chắc, tạo nên một đài quang rất ấn tượng,  những hoa văn mềm mại uốn theo thân cột, những lá hoa của vòng hoa dành cho  người chiến thắng Hy Lạp, chúng chạy tiếp mãi để đan thành dàn hoa văn trang trí  lễ đài, nét thiên nhiên gần gũi với con người “thiên địa vạn vật nhất thể”.  Lễ đài rất trang trọng cho việc cử hành các nghi lễ. Nhìn những lá hoa quấn  quanh cột, ta không thể không liên tưởng đến “Cây Nho: Thầy là cây nho, chúng  con là cành nho”(Ga, 15) mà Chúa Giêsu đã nói đến.
 
 Bên trên các cây cột là các  vị thiên thần thánh thiện chuyển lời kinh, nối kết thiên đàng - trần gian…Và bên  dưới cây cột phía phải của lễ đài có khắc tên hai vị đáng kính: Đức Hồng Y  Phanxicô Xavier Nguyễn văn Thuận và Mongsignore Umberto Crozzolin, điều nầy thể  hiện lòng tưởng nhớ và biết ơn các ân nhân, là đức tính cao đẹp của người  Việt…
 
 Còn rất nhiều nét đẹp văn hoá - nghệ thuật Đông-Tây của ngôi Thánh  đường mới nầy, như các bàn thờ phụ được thực hiện theo lối Tây Phương chắc chắn  chúng ta sẽ có dịp trở lại để khám phá, chiêm ngắm và tri ân Thiên Chúa vì những  kỳ công Chúa ban cho con người làm nên… (Xin tìm đọc: Cha Augustinô Nguyễn  văn Dụ, tờ buớm giới thiệu “Giáo xứ Sơn Quả” đầy đủ và giải thích về ý nghĩa của  các biểu tượng kiến tạo nhà thờ mới Sơn Quả nầy)
 
 Tôi vui cái vui với các  thành phần dân Chúa trong giáo xứ Sơn Quả, tôi mừng với cái mừng chân chất của  những con tim rộn rã lòng biết ơn, vì Thiên Chúa đã luôn ban tặng một nhu cầu  thiết thực cho con cái là đoàn chiên luôn được Ngài săn sóc. Chúa đã cho thành  toàn ước mơ thánh thiện của đoàn con bao ngày mong chờ. Tôi xin hát khúc thánh  ca với cộng đồng Dân Chúa giáo xứ Sơn Quả: “Tôi vui mừng khi người ta bảo  tôi: Chúng ta hãy lên đền Thiên Chúa. Đây Salem thành đô, chúng ta hãy dừng  chân”(Tv 121).
 
 Ngày cung hiến đền thờ Giáo xứ Sơn Quả, niềm vui lớn đối  với giáo xứ cũng như toàn giáo phận, chúng ta lại có dịp lắng nghe lời kinh  nguyện khi thánh hiến nhà thờ và bàn thờ:”Xin Chúa dùng quyền năng mà thánh  hoá bàn thờ và nhà thờ nầy… để nhờ dấu hiệu hữu hình chúng diễn tả Đức Kitô và  Hội Thánh”. Và lời Mẹ Hội Thánh nhắn nhủ : ” Anh em là đền thờ của Thiên  Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em. Đền thờ Thiên Chúa là nơi  thánh. Và đền thờ ấy chính là anh em”. (1Cor 3, 16-17).
 
 Xin được như vậy.  Amen
 
 
 Nữ tu Maria Nguyễn Thị TuyệtGhi  chú: (1) Lịch sử các giáo xứ, Giáo phận Huế.
 (2)  Giáo xứ Sơn Quả: Lm A. Nguyễn văn Dụ (tờ giới thiệu)
 (3) Lê Minh Tuấn:  Công giáo và Đức Kitô, Kinh Thánh qua cái nhìn từ Đông Phương,
 Trang  1175, Nhà Xb Tôn giáo, Hà nội 2003.
 
 
 http://gpnt.net/diendan/showthread.php?t=13604
 
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |