Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Chủ đề: Thánh Đa Minh (Dominico Guzman)

  1. #1
    vũng_nước's Avatar

    Tham gia ngày: Dec 2008
    Tên Thánh: Vincent
    Giới tính: Nam
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 1,339
    Cám ơn
    4,072
    Được cám ơn 4,272 lần trong 1,085 bài viết

    Default Thánh Đa Minh (Dominico Guzman)




    Lm. Đào Quang Chính, OP


    Ngày nay, các linh mục đều là những nhà giảng thuyết, nhưng cách đây hơn 800 năm, chỉ các bậc giám mục trở lên mới có quyền giảng! Nói như vậy để chúng ta hiểu tại sao dòng Đa Minh được gọi là dòng giảng thuyết, và đặc sủng của dòng Đa Minh quả là một cuộc cách mạng to lớn vào thời đó.

    Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ "tuyệt vời và dịu dàng." Bà cố là Joanna d'Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Cũng nên biết rằng, người anh lớn của Đa Minh, linh mục triều, suốt đời làm việc trong nhà thương giúp đỡ người nghèo


    Nhiều dấu lạ xẩy ra khi Đa Minh chào đời. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng.


    Cuộc đời thánh nhân lúc còn nhỏ cũng bình thường như chúng ta. Năm lên bẩy, ngài được gửi đến ở với cậu là linh mục đang coi xứ gần Caleruega. Năm 14 tuổi, chú từ giã gia đình và bố mẹ để lên học tại Palencia, là trường học nổi tiếng nhất tại Tây ban nha lúc bấy giờ. Ngay từ hồi nhỏ, chú đã biết dung hòa việc học hành với đời cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Có những lần chú đã bán các sách học để gíup đỡ người nghèo. Sách vở lúc chưa có nhà in, là những phẩm vật rất quý giá, nhưng người nghèo với chú còn quý giá hơn. Cũng đã hai lần chú muốn bán mình để có tiền chuộc những người bị bắt làm nô lệ. Phải chăng đó là dấu hiệu cho thấy chú sẽ dung hòa đời sống chiêm niệm và hoạt động trong tương lai?

    Hết trung học, chú xin đi tu và có lẽ được truyền chức vào năm 1194. Sau đó, cha Đa Minh xin làm kinh sĩ tại nhà thờ chính tòa Osma. Kinh sĩ có bổn phận chuyên lo đọc kinh thay cho toàn giáo phận, nhất là thay cho các linh mục hoạt động. Hội kinh sĩ theo tinh thần tu luật của thánh Augustine, sống đời ẩn thân. Với lòng đạo đức và khôn ngoan, cha Đa Minh trở nên rường cột cho hội. Vì vậy, chỉ 2 năm sau, cha được chỉ định làm bề trên hội kinh sĩ. Đây là một vinh dự lớn lao cho 1 linh mục trẻ. Kinh sĩ Đa minh thường mang trên tay sách phúc âm theo thánh Matthêu, các thư của thánh Phaolô và sách các giáo phụ.


    CHUẨN BỊ LẬP DÒNG


    Vào năm 1213, đức cha địa phận và Đa Minh được ủy thác sứ mạng thu xếp cuộc hôn nhân của hoàng tử xứ Marches và công chúa Đan mạch. Trên đường đi Đan mạch, hai ngài phải băng qua miền nam nước Pháp. Có lẽ cuộc du hành này đã thay đổi cuộc đời Đa Minh. Tại Toulouse, trong một quán trọ, ngài đã nhận ra rằng, người chủ quán trọ là một người bỏ Công giáo theo nhóm Albigensê. Cũng nên biết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhóm Albigensê đã rất thành công trong việc thuyết phục người khác theo họ. Vào thời đại mà giáo hội miền nam nước Pháp bị tục hóa, khi các giám mục xa cách dân chúng, ăn mặc sang trọng, đi trên xe tứ mã, sống đời xa hoa, thì triết lý của Albigensê, dựa theo tinh thần lạc giáo Manikêu, quả là hấp dẫn với một số người. Gọi họ là Albigensê vì nhóm này khởi nguồn từ một thành phố miền nam Pháp tên là Albi. Họ chủ trương nơi con người có hai thái cực: tốt do Chúa tạo nên, xấu do Satan chiếm đoạt. Để loại trừ Satan, con người cần diệt dục, không nên lấy vợ, lấy chồng, không ăn thịt, cá và chỉ ăn rau cỏ. Cuộc sống càng đơn sơ, càng trở về với thiên nhiên càng tốt. Trong khi các giám mục địa phương, linh mục Cistercien ăn mặc sang trọng, thì giáo sĩ nhóm Albigensê ăn vận đơn sơ, đi chân không, mặc quần áo đơn giản. Do đó, họ có một bề ngoài gần gũi với đức khó nghèo của Thánh Kinh hơn. Điều quan trọng hơn cả là về tín lý họ chối bỏ 3 ngôi Thiên Chúa. Miền nam Pháp, Ý và Tây ban nha bị ảnh hưởng rất mạnh của nhóm này.


    Đa Minh để cả đêm nói truyện với người lạc giáo. Ngài nhận thấy ông chủ quán là người có lòng thành nhưng bị nghe tuyên truyền sai lạc. Đến sáng, sau khi cầu nguyện hồi lâu thì bỗng dưng người chủ quán đổi lòng. Ông xin trở lại Công giáo. Việc trở lại này đã trở thành động lực lớn thúc đẩy Đa Minh lập dòng tu chuyên lo truyền giáo. Truyền thống kể lại rằng chính tại nhà này, Đa Minh đã cầu nguyện bằng phương cách sắp xếp những ý tưởng Thánh Kinh thành một chuỗi giúp cho ngay cả người đơn sơ cũng có thể lãnh hội được. Đây là bước khởi nguồn của tràng hạt Mân Côi sau này.

    Chuyến đi của đức giám mục và của Đa Minh thành công tốt đẹp. Hai vị trở về báo Tin Mừng cho nhà vua và chuẩn bị hôn lễ. Nhà vua lại cử đức giám mục và Đa Minh lên đường đón công chúa cho hoàng tử của mình, nhưng lần du hành thứ hai này mang nhiều nét buồn. Hai vị đến hoàng cung đúng lúc nghe tin công chúa mới lìa đời. Sau đó hai vị cùng sang Roma thăm giáo đô. Cũng nên biết, giám mục địa phận Osma, đức cha Diego, là một nhân vật đạo đức và đặc biệt. Ngài đã làm trưởng hội kinh sĩ tiền nhiệm của Đa Minh. Nhận thấy có nhiều người lạc giáo, khi triều kiến đức giáo hoàng, ngài xin từ nhiệm giám mục để có thêm thời giờ chuyên lo truyền giáo. Tấm gương sáng càng khiến Đa Minh hăng hái hơn thi hành ước mộng. Tuy nhiên, đức giáo hoàng Innocent III không đồng ý. Ngược lại ngài ủy thác hai vị sang miền Languedoc, hợp lực cùng với các tu sĩ Cistercien chống lại nhóm Albigensê. Đức cha Diego, ngay khi nhận nhiệm vụ mới, ra lệnh cho các tu sĩ Cistercien phải sống đời khó nghèo. Kết quả trông thấy thực rõ rệt. Số người xin trở lại Công giáo tăng lên rất nhanh. Riêng Đa Minh thì còn dành nhiều thời giờ để tranh luận với nhóm lạc giáo. Không cãi nổi với nền thần học chắc chắn, sự thông thái và lý luận sâu sắc của Đa Minh, những người lạc giáo đe dọa giết ngài. Không sợ, Đa Minh tiếp tục rao giảng Tin Mừng cách can đảm. Ngài chọn Prouille làm trụ sở chính rồi từ đó đi đến các miền Fanjeaux, Montpellier, Servian, Beziers, và Carcassonne. Chính tại Prouille vào năm 1206 mà thánh nhân đã lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên. Ngài biết có nhiều phụ nữ nhiệt thành nhưng vì lầm lạc đã theo nhóm Albi. Họ cần được nâng đỡ. Sau khi trở lại, các phụ nữ này đã xây nhà dòng và chuyên giáo dục các trẻ Công giáo. Đây là cơ sở đầu tiên của dòng nhì Đa Minh trên thế giới.


    Năm 1208 đáng được coi là năm "bản lề" của Đa Minh. Vào ngày 15 tháng 1, cha Pierre de Castelnau, vị tông tòa dòng Cistercien bị ám sát chết. Thánh Simon de Montfort quyết định mở cuộc thánh chiến chống lại nhóm Albigensê. Riêng Đa Minh thì thương xót những người lạc giáo hơn là ghét bỏ họ. Ngài cũng quyết định mở cuộc thánh chiến nhưng không trên mặt trận võ khí mà trên mặt trận truyền giáo. Chính ngài đã gặp thánh Simon và hai người trở thành bạn thân đến mãn đời.


    PHỔ BIẾN KINH MÂN CÔI


    Trận thánh chiến rất thành công cho quân đội Công giáo. Các sử gia nói rằng nơi những trận chiến này kinh Mân côi được đọc lần đầu tiên, kinh Mân côi trở thành khí giới thiêng liêng bảo vệ đạo. Cuộc đời và sự thánh thiện của thánh nhân nổi bật đến độ ba giáo phận xin ngài làm giám mục: năm 1212, địa phận Bezier; rồi địa phận St. Lizier, cuối cùng vào năm 1215 là địa phận Navarre. Nhưng Đa Minh tuyệt đối xin từ chối những vinh dự trên. Tấm gương của đức giám mục địa phận Osma là Diego vẫn còn in đậm trong tâm trí. Ngài nói nếu bị ép làm giám mục, ngài sẽ trốn đi ngay dù trong đêm tối! Tuy nhiên, không phải lúc nào Đa Minh cũng rao giảng thành công đâu. Vào những năm 1213 và 1214 lịch sử ghi lại ngài truyền giáo tại miền Carcassonne, nhưng rất ít người trở lại và ngược lại bị nhiều chống đối.


    DÒNG TU MỚI


    Đến năm 1214 ngài trở về Toulouse, Pháp quốc. Tại nơi đây ngài thực hành quyết định thành lập dòng tu chuyên lo giảng thuyết. Nổi tiếng đạo đức và khôn ngoan nên nhiều thanh niên ngưỡng mộ tìm đến với ngài. Sau khi đức cha Toulouse cho phép, Đa Minh tập họp những môn đệ đó thành một cộng đoàn. Đến năm 1215, ngài chính thức theo giáo luật thành lập nhà dòng trong giáo phận Toulouse với mục đích truyền bá đức tin và luân lý chân chính. Cũng trong năm này ông Pierre Seilan, một người giầu có miền Toulouse, đi theo thánh Đa Minh. Pierre dâng tặng cho thánh nhân nhiều sở hữu. Nhờ vậy ngày 25 tháng 4 năm 1215, tu viện đầu tiên của dòng được thành lập.


    Thoạt đầu, dòng chỉ mang tính cách là "dòng địa phận". Đa Minh mong muốn dòng mới sẽ đi truyền bá Tin Mừng khắp thế giới. May mắn thay, vào tháng 11 năm 1215, công đồng chung tại Roma được triệu tập nhằm mục đích "sửa chữa những đồi phong bại tục, dẹp tan lạc giáo và củng cố đức tin chân chính." Điều khoản giáo luật số X của công đồng còn khiển trách cách mạnh mẽ một số giám mục đã quên lãng bổn phận rao giảng, và khuyến khích việc ủy thác cho một số vị có khả năng rao giảng lời Chúa. Những lời tuyên bố đó đúng với tôn chỉ dòng Đa Minh. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, khi công đồng đề nghị "một số vị có khả năng" không có nghĩa là nói đến các linh mục, hoặc cụ thể hơn, các linh mục dòng Đa Minh, một dòng tu còn non trẻ.


    Trong khi chân trời mới mở rộng cho Đa Minh, thì một biến cố khác không vui xẩy ra: Công đồng chung cấm việc lập thêm dòng tu mới! Không nản lòng, Đa Minh triệu tập các anh em, thông báo quyết định của đại công đồng. Các tu sĩ Đa minh, cùng đồng ý là, thay vì dùng tu luật mới, thì sẽ theo tu luật thánh Augustino. Cho đến nay, tu luật thánh Augustinô vẫn là tu luật nền tảng của dòng, và các tu sĩ Đa Minh vẫn phải học tu luật thánh Augustinô trước khi học hiến pháp dòng. Tháng 8 năm 1216, Đa Minh xin phép gặp đức giáo hoàng, và ngày 22 tháng 12 cùng năm, đức giáo hoàng chính thức chuẩn y dòng tu có tên hiệu "Dòng giảng thuyết". Cũng nên nhắc nơi đây câu truyện rất thú vị. Một hôm, đức giáo hoàng trong giấc mơ, thấy đền thờ Latêranô bị nghiêng, thì có hai thanh niên bước đến kề vai nâng đỡ. Buổi sáng cùng ngày, ngài có hẹn gặp hai tu sĩ tên là Đa Minh và Phanxicô. Nhớ lại giấc mơ, nhìn lại khuôn mặt, ngài biết ngay rằng đây là dấu hiệu mà Chúa báo trước cho ngài: hai tu sĩ trẻ này sẽ là người nâng đỡ giáo hội. Vào thế kỷ 13, đền thờ Lateranô chính là biểu tượng của giáo hội như đền thờ thánh Phêrô thời nay. Trong thời gian ngắn ở tại Roma, đức giáo hoàng cũng nhờ thánh Đa Minh đi giúp tái lập truyền thống nghiêm ngặt nơi các nhà dòng nữ. Đa Minh đã làm cho đức giáo hoàng rất hài lòng trong việc giúp thăng tiến đời sống tinh thần tại các nhà dòng này.


    ĐẶC SỦNG CỦA DÒNG


    Đến ngày 15 tháng 8 năm 1217, Đa Minh trở về Prouille thông báo Tin Mừng cho các anh em. Ngay sau đó, Đa Minh đưa ra một quyết định được coi là táo bạo: Ngài sai 17 môn đệ đi truyền giáo toàn miền Âu châu và nhất là giảng thuyết tại các trường đại học. Tuy có một số người phản đối, cho rằng các tu sĩ còn quá non trẻ, nhưng thời gian đã cho thấy quyết định của Đa Minh hoàn toàn đúng. Thứ nhất, ngài tin tưởng các môn đệ của mình; thứ hai Chúa Thánh linh đã không ngừng làm việc nơi 17 tu sĩ Đa Minh đầu tiên, đến nỗi chỉ một năm sau, vào ngày 3 tháng 12 năm 1218, đức giáo hoàng Honorio III viết tông thư giới thiệu dòng cho toàn thể các giám mục, viện phụ, bề trên tu viện, xin các vị nâng đỡ và cùng làm việc chung với anh em trong dòng. Truyền giáo nơi các trường đại học trở thành một đặc sủng của dòng. Đa Minh muốn các tu sĩ có một trình độ cao về học vấn. Có lẽ hướng đi đó do kết quả thánh nhân thâu thập được khi làm việc tại trường đại học Palencia. Cho đến nay, đây vẫn là một trong những đặc điểm của dòng. Trong thời ban sơ, đa số tu viện đều được thành lập chung quanh trường đại học, vừa để dễ làm việc mục vụ, vừa để dễ cho các anh em đi học. Các trường đại học Paris (Pháp quốc) và Bologna (Tây ban nha) đã là những nơi "thử lửa" đầu tiên của dòng.


    Tại Roma, đức giáo hòang Honoriô, thích thú trước những thành công của anh em thuyết giáo, dành tu viện Santa Sabina cho dòng Đa Minh chịu trách nhiệm. Ngày nay Santa Sabina là nhà Mẹ của toàn dòng. Đến năm 1218, trong văn thư ngày 2 tháng 12, đức giáo hoàng còn ủy thác đền thờ Saint Sixtus dưới quyền cai quản của dòng và dành cho Đa Minh chức nghiêm sư thánh điện, tức là nhà thần học của đức giáo hoàng. Dòng Đa Minh giữ chức vụ này cho đến ngày nay.

    Vẫn ôm giấc mộng truyền giáo, Đa Minh không muốn vì công việc điều hành mà quên mộng ước. Cuối năm 1218, ngài chỉ định cha Reginal de Orleans làm tổng đại diện, còn mình thì cùng với nhiều anh em đi sang các thành phố khác. Các tu viện đầu tiên của dòng được thành lập tại Bologna, Prouille, Toulouse, Fanjeaux, sau đó tới Lyons, Segovia, Limoges, Barcelona và nhiều thành phố bên Ý... Tháng 2 năm 1219, đan viện nữ Đa minh, tức là dòng nhì được thành lập tại Madrid, Tây ban nha. Cũng trong năm đó, đức giáo hoàng Honoriô đã ban cho ngài tước hiệu "Bề trên tổng quyền" hoặc bề trên cả (Master General), là danh xưng mà các vị thừa kế giữ cho đến nay. Qua năm 1219, nhân đại hội dòng lần đầu ở Bologna, Đa Minh từ chức bề trên tổng quyền để có nhiều thời giờ đi truyền giáo. Đương nhiên, đơn xin bị từ chối. Tuy nhiên, không gì có thể cản trở Đa Minh truyền giáo. Cùng với các anh em dòng, ngài mở nhiều mặt trận: lịch sử ghi lại, qua phép lạ và lời giảng dậy, Ngài đã chinh phục hơn 100,000 người trở lại cùng Chúa. Theo cha Lacordaire thì tại Lombardy, Đa Minh đã thành lập hội "Đạo Binh Chúa Giêsu" (Militia of Jesus Christ), tức là huynh đoàn Đa Minh hoặc dòng ba Đa Minh bây giờ. Trước những thành công liên tục, vào năm 1221, ngài một lần nữa phải triệu tập công đồng chung toàn dòng lần thứ 2 tại Bologna. Sau đó ngài đi thăm đức hồng y Ugolino, một ân nhân của dòng. Trên đường trở về lại Bologna, Đa Minh bị bệnh, và sau ba tuần chịu đựng cách can đảm, thánh nhân qua đời giữa các anh em. Ngay sau khi qua đời, nhiều người đã đến cầu khấn cùng ngài. Mười ba năm sau, đức giáo hoàng Gregorio, vào ngày 13 tháng 7 năm 1234 tuyên dương ngài lên bậc hiển thánh.


    LINH ĐẠO CỦA THÁNH ĐA MINH


    "Contemplare, contemplata aliis tradere". Bên cạnh việc truyền giáo qua giảng thuyết, Đa Minh nổi tiếng vì linh đạo đặc biệt của ngài. Linh đạo này là "hãy chiêm niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân". Như chúng ta đã biết, dòng Đa Minh là một hội dòng "pha", nghĩa là vừa hoạt động, vừa chiêm niệm. Trước đó, các linh mục triều hướng nhiều về hoạt động; còn linh mục dòng khổ tu thì theo tiến trình: "học tập - cầu nguyện - chiêm niệm - (trở về) học tập". Đa Minh đề ra phương cách mới: "học tập - cầu nguyện - giảng thuyết - chiêm niệm - (trở về) giảng thuyết - học tập". Linh đạo này về sau được thánh Thomas khai triển và trở nên nổi tiếng với câu châm ngôn "Contemplare, contemplata aliis tradere." Sống đúng theo câu châm ngôn trên, cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ "nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa." Làm sao một người có thể làm được như vậy? Chúng ta có thể làm được không? Được. Tất cả những gì Đa Minh thấy trên đường rao giảng đều là phương tiện ca tụng Chúa, để chiêm niệm và chia sẻ sự chiêm niệm đó cho tha nhân. Ở trên chúng ta đã biết, sách Phúc Âm ngài thường mang theo là sách của thánh Matthêu. Như Matthêu thuật lại nhiều chi tiết về cuộc đời của Chúa Giêsu, thì Đa Minh cũng thấy mọi biến cố trong cuộc sống, đều là phương cách giúp chiêm niệm và rao giảng Tin Mừng. Lòng nhiệt thành với việc rao giảng Tin Mừng của Đa Minh mạnh đến nỗi trong tông thư tuyên dương hiển thánh cho ngài, đức giáo hòang Gregory đã tuyên bố rằng không ai ngạc nhiên gì về sự thánh thiện của Đa Minh đáng nêu gương cho mọi người như sự thánh thiện của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô!

    Lậy Cha thánh Đa Minh, xin cầu cho chúng con.
    Chữ ký của vũng_nước
    "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lai? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi". (Matheu. 5, 13)

  2. Có 5 người cám ơn vũng_nước vì bài này:


  3. #2
    dominico_dung's Avatar

    Tuổi: 61
    Tham gia ngày: Nov 2007
    Tên Thánh: Dominico
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đàng trong
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 2,837
    Cám ơn
    6,848
    Được cám ơn 17,693 lần trong 2,615 bài viết

    Default

    Mặc dầu là tổ phụ của một Dòng chuyên việc giảng thuyết, Thánh Đa Minh không phải là nhà Thuyết Giáo bẩm sinh. Ngài đã phải nỗ lực nhiều để trở thành nhà Thuyết Giáo. Nếu Đức Giêsu có 30 năm ẩn dật ở Nagiarét, thì Đa Minh khởi sự giảng thuyết khi đã 35 tuổi, sau một tiến trình dài chuẩn bị có định hướng trong học hành và cầu nguyện. Tiếp theo đó là 10 năm du thuyết theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Cha Đa Minh đã hình thành những kinh nghiệm sâu sắc để truyền thụ cho môn sinh mình trong sáu năm cuối đời. Xin mở lại những trang sử, để theo dõi những chặng đường tâm linh của Ngài, khởi từ chiếc nôi gia đình.
    Thánh Đa Minh sinh ngày 24-6-1170 tại Caleruega thuộc giáo phận Osma, miền Castille, nước Tây Ban Nha. Thân phụ ngài là bá tước Felix de Guzman, thân mẫu là chân phước Gioanna de Aza. Ba anh em trai đều thụ phong linh mục, người anh cả Antôniô làm tuyên úy bệnh viện, còn anh thứ Mannes, sau vào Dòng Thuyết Giáo của em mình.
    1/ Cây trồng trên đất chọn lựa
    Ngay từ khi chào đời và trong suốt thời thơ ấu, Đa Minh đã được sống trong bầu khí thuận lợi cho sứ vụ trong tương lai. Tuy thuộc gia đình quí tộc, mọi người đã đón chờ và nuôi dưỡng cậu để trở thành giáo sĩ chứ không phải hiệp sĩ. Trước khi sinh, bà Gioanna mơ thấy từ lòng mình có con chó nhảy ra, cắn bó đuốc chạy khắp địa cầu. Giấc mộng đó chứng tỏ bà ước mong con trai mình trở thành nhà thuyết giáo. Ước vọng tốt đẹp được diễn ra trong mộng bằng biểu tượng phổ biến đương thời : vì hình ảnh "con chó ngậm bó đuốc sáng rực" biểu hiệu nhà thuyết giáo, hỗ trợ vị mục tử Giêsu, canh chừng cho đoàn chiên khỏi sói rừng, đã từng xuất hiện trong tiểu sử thánh Benađô (1090-1153) cũng như nhiều bản văn thời Trung Cổ. Tóm lại, Đa Minh từ bé đã được đào tạo để phục vụ Thiên Chúa.
    Như thế, những câu chuyện hấp dẫn thời thơ ấu của Đa Minh, có lẽ chính là bài học của người thân muốn truyền thụ cho cậu hoài bão lớn lao ấy. Ngôi sao trên trán là lời nhắc nhủ sống thánh thiện cao vời, những sự kiện đơn sơ như nằm đất được dùng để nói đến hy sinh. Rồi khi Đa Minh bảy tuổi, gia đình đã gửi đến cậu ruột là linh mục xứ Gumiel gần đó. Constantin d'Ovieto so sánh sự kiện này như tiên tri Samuel được gửi đến thày cả Hêli trong Cựu Ước. Bảy năm sau, Đa Minh được theo học tại trường nhà thờ chính tòa Palencia . Nơi đây, Đa Minh không màng đến văn chương nghệ thuật, chỉ miệt mài học hỏi Lời Chúa. Đến độ "nhiều đêm gần như không ngủ để học hỏi Kinh Thánh".
    Sau này Kinh Thánh vốn là nguồn suy niệm không bao giờ cạn của thánh Đa Minh. Hành trang ngài luôn mang theo là Phúc Âm thánh Matthêu và các thư thánh Phaolô. Trên đường đi thuyết giáo, mỗi tối ngài đưa các bạn đồng hành vào nơi thanh vắng, cùng nhau đọc một vài đoạn Sách Thánh và chia sẻ cho nhau những gì mình suy niệm. Còn giờ đây ở Palencia , Đa Minh đang nghiền gẫm và khám phá Đức Kitô cũng như giáo huấn của Ngài.
    2/ Kinh nghiệm giác ngộ
    Nhiều nhà sử học gần đây thường coi kinh nghiệm giác ngộ, đổi đời, hay hoán cải của Đa Minh đã diễn ra trong biến cố bán sách giúp người nghèo. Nạn đói đang hoành hành ở Palencia , cũng như khắp Tây Ban Nha, trở thành lời kêu gọi phải hành động. Những năm gắn bó với Kinh Thánh đã sinh hoa kết trái. Từ một người nghiên cứu Kinh Thánh, cậu sinh viên Đa Minh trở thành người sống triệt để Tin Mừng.
    Vì đối với một sinh viên trẻ, bộ Tin Mừng và phần chú giải mà mình đã bỏ bao nhiêu thời gian để nắn nót ghi chép là cả một gia tài vô giá không thể lìa xa. Thế mà, chàng sinh viên Đa Minh đã đem bán gia tài ấy cùng với những vật dụng khác để có tiền giúp người nghèo. Anh nói : "Tôi không thể học trên trên những miếng da chết đang khi người khác chết đói". Như thế Tin Mừng đối với Đa Minh không còn là những hàng chữ chết nữa, mà đã trở thành Lời ban sự sống. Thánh Jordano nhấn mạnh quyết định bán sách của Đa Minh được thực hiện nhanh chóng, ngay lập tức, vì muốn thực hiện Lời Chúa : "Ai muốn nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, đoạn hãy theo Tôi" (Mt.19,21). Chúa lên tiếng gọi và Đa Minh đã đáp trả vững vàng.
    Sau khi hoàn tất chương trình học, Đa Minh theo lời mời của linh mục Diego, gia nhập hội kinh sĩ địa phận Osma. Ít lâu sau, anh thụ phong linh mục và làm phó bề trên kinh sĩ đoàn.
    3/ Tại Osma
    Gia nhập kinh sĩ đoàn trong thời vàng son này, cha Đa Minh đã học được kinh nghiệm sống chung theo tinh thần Giáo Hội tiên khởi (Cv.4,32). Theo tu luật Augustino, các kinh sĩ sống hòa hợp "một trái tim một tâm hồn", để tài sản làm của chung, đề cao kinh nguyên chung, việc học hành và chia nhau đi rao giảng, giúp đỡ người bất hạnh. Tại Osma, cha Đa Minh nổi bật về lòng khiêm tốn, trở nên người rốt hết trong cộng đoàn. Sau này, điều đầu tiên ngài căn dặn về việc huấn luyện tập sinh, là sống khiêm tốn trong lòng cũng như bên ngoài. Ngoài ra thánh Jordano còn ghi nhận, cha Đa Minh đã sử dụng cuốn "Đối chiếu các giáo phụ", bàn về các nết xấu và cuộc đời hoàn thiện. Nhờ đó cha khám phá ra những đường lối muôn nẻo dẫn tới ơn đứu độ. Cha hết mình sống theo đường lối đó.
    "Nhờ ơn sủng hỗ trợ, cuốn sách đã giúp cha đạt được một lương tâm tinh tuyền, chiêm ngưỡng được nhiều ánh sáng và lên đến đỉnh hoàn thiện"
    Thế nhưng điều cần nhấn mạnh hơn cả trong giai đoạn này là lối cầu nguyện của cha Đa Minh. Đó là biểu hiện của lòng khát vọng liên kết mật thiết với Đức Kitô, cảm thông những khốn khổ của nhân trần và hiến toàn thân cho họ được ơn cứu độ.
    4. Cha Đa Minh cầu nguyện
    Là người từng chung sống, chứng kiến và nghe cha Đa Minh cầu nguyện, chân phước Jordano ghi rằng :"Cha thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và người sầu khổ. Cha cảm thông với những sầu khổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài : "Chúa ơi ! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao? "
    Đó là sự đồng cảm với Đức Kitô, yêu nhân gian bằng những rung cảm, thao thức của chính Chúa thuở xưa. Tình yêu đó thúc đẩy cha, trong giờ cầu nguyện, thân thưa với Chúa về những người đã gặp, học với Chúa để biết xót thương và cảm thông với những người sẽ gặp :
    "Lúc nào cha cũng cầu xin cho được lòng bác ái đích thực để mưu tìm và chăm lo phần rỗi cho mọi người cách hữu hiệu. Cha nghĩ rằng chỉ khi nào mình noi gương Chúa Cứu Thế, hiến toàn thân toàn sức cứu rỗi các linh hồn thì mới thực sự trở thành chi thể của Chúa"
    Cha không hề nghi ngờ Thiên Chúa Đấng hằng xót thương. Cha chỉ xin Chúa mở rộng cõi lòng mình để biết yêu thương và cảm thông. Và trong giờ kinh nguyện nồng cháy đó, cha muốn đưa hết thảy lương dân, người Do thái, người Hồi giáo hay anh em Ly giáo... nghĩa là tất cả, đến với Chúa Cứu Thế.
    Lời cầu nguyện đó biểu lộ lòng cha yêu thương các tội nhân. Cha lấy tấm lòng của Thiên Chúa để ôm ấp họ. Cha không chuyển cầu cho bằng "kết hợp" ngày càng sâu xa hơn với Đức Giêsu, là Đấng trên Thánh Giá đã dạy cho loài người nghệ thuật yêu thương.
    Và như thế đó, hết đêm này tới đêm khác, cha Đa Minh học với Chúa nghệ thuật giảng thuyết. Tuy nhiên, cha không vội vã lên đường thi hành sứ vụ ngay. Có lẽ cha cũng chưa nghĩ tới điều đó. Suốt đời, cha không bao giờ đốt giai đoạn, cha biết chờ đợi đúng lúc.
    5/ Một đêm không ngủ
    Năm 1203, lần đầu tiên cha Đa Minh có cảm hứng lập Dòng, nhưng mọi chuyện đã xảy ra như bất ngờ. Giám mục Diego chọn cha Đa Minh tháp tùng đi Đan Mạch cầu hôn cho hoàng tử, con vua Alphonso VIII, miền Castille. Khi đi ngang miền nam nước Pháp, cha Đa Minh chứng kiến cảnh đau lòng. Người ta thiếu tin tưởng vào giới chức trong Giáo Hội. Ngày càng đông các thiện nam tín nữ rời bỏ Giáo Hội đi theo các nhóm Cathares, theo chủ thuyết nhị nguyên, vừa sống thanh thoát, vừa hoạt động hăng say.
    Ngay đêm đầu tiên ngủ tại quán trọ, cha gặp người chủ quán đã gia nhập nhóm Cathares. Thế là lửa nhiệt tâm với các linh hồn đã đượm nóng suốt bao năm chiêm niệm tại Osma, bỗng bừng cháy lên. Cha Đa Minh thức trắng đêm, thân ái nhưng thẳng thắn, trao đổi và thuyết phục người chủ quán trở về chính lộ. Chính đêm nay cha mường tượng thấy một điều : Muốn cảm hóa được lạc giáo, cần phải có những người nhiệt tình, hiểu và sống Tin Mừng, sẵn sàng ra đi, đối thoại và thuyết phục họ.
    6/ Đi như người loan báo tin vui
    Lửa nhiệt tình truyền giáo đã bùng lên trong cha Đa Minh đêm đó sẽ không bao giờ tắt nữa. Trong chuyến đi lần thứ hai (1205) để đón công chúa Đan Mạch, khi nghe tin công Chúa thất lộc (Nhiều người cho rằng công chúa vào tu trong đan viện), Giám mục Diego và cha Đa Minh hành hương Roma, xin đức thánh cha cho phép đi giảng cho người Cumans, Hồi Giáo. Trong ước muốn đảm nhận sứ vụ của Giáo Hội, hai vị đã tình nguyện đến những biên cương khó khăn nhất. Thế nhưng, tuân theo sự phân công của Giáo Hội, hai vị đã hy sinh ý định lớn lao, sẵn sàng phục vụ tại miền Nam nước Pháp.
    Trở về Montpellier, một lần nữa hai vị được chứng kiến sự thành công của nhóm Cathares. Các đặc sứ Tòa Thánh, các đan sĩ hoạt động tại đây, hầu như đã thất vọng hoàn toàn. Hai vị liền để tâm nghiên cứu tình hình và nhận ra lý do thất bại. Các đặc sứ thì uy nghi lộng lẫy với đoàn tùy tùng đông đảo, còn phái Cathares thành công nhờ nếp sống nghèo khổ hạnh.
    Nguồn gốc sâu xa của các nhóm lạc giáo khởi từ công cuộc canh tân đã khởi sự được hơn một thế kỷ. Giáo Hội đang sống trong thời đại canh tân, thường được gọi là cuộc canh tân Grêgoriô VII, vị giáo hoàng đã đẩy mạnh cuộc cải tổ này. Phong trào đã tìm thấy nguồn sinh lực gợi hứng từ Kinh Thánh và thời đại các Tông đồ để đáp lại những thách đố và lạm dụng như người ta thấy ngay trong nội bộ giáo sĩ : sự dốt nát, ù lì và thiếu khả năng để rao giảng.
    Tìm cách thoát ra những tệ lạm này, một đàng nhờ các giáo sĩ nhiệt tình, đàng khác nhờ chính những giáo dân nỗ lực trở lại với đời sống đơn giản và nghèo khó của giáo hội tiên khởi. Họ lấy việc sống như các Tông đồ làm lý tưởng. Những vị giáo sĩ muốn canh tân này đã đề ra hình thức cụ thể để thực hiện lý tưởng của mình bằng lối sống tu trì tại các kinh sĩ đoàn. họ nỗ lực đưa đời sống cầu nguyện và sứ vụ tông đồ vào lòng các đan viện. Số các Kinh Sĩ đoàn ngày càng gia tăng đã phát sinh nhiều cộng đoàn nổi tiếng như Prémontrée, Saint-Victor và tại Anh là nhóm Gilbertin.
    Những tín hữu muốn tham gia cuộc cải tổ liên đới lại thành các huynh đệ đoàn sám hối, họ nhấn mạnh đời sống nghèo, hãm mình nghiêm ngặt và rao giảng. Vì quá nhiệt tâm, nhiều người trong họ đã đi đến sai lầm, họ đánh giá việc khó nghèo như các Tông đồ là điều kiện tiên quyết và tối cần để giảng thuyết và trao ban các bí tích thành sự. Nhưng dầu sao, nếp sống nghèo của họ hấp dẫn hơn với quần chúng.
    Nhờ kinh nghiệm đã từng theo nếp sống giáo hội sơ khai tại kinh sĩ đoàn Osma, đức cha Diego và cha Đa Minh hăng hái cổ cõ các viện phụ rũ bỏ các hành lý cổng kềnh, để ra đi với đôi bàn tay trắng của Đức Kitô. Cần phải trở thành người loan báo tin vui chứ đừng làm kẻ chinh phục. Vị giám mục nói : "Xin quý ngài cho đoàn tùy tùng trở về, hãy đi từng hai người một theo gương các Tông đồ, Chúa sẽ chúc phúc cho những nỗ lực của quý ngài".
    Hiến kế xong, hai vị làm ngay điều mình nói và các viện phụ đều theo ... "Mọi người nhận vị Giám mục làm người chỉ huy toàn chiến dịch. Tất cả bắt tay vào việc truyền bá đức tin, tự nguyện sống nghèo, đi chân đất và không mang tiền bạc... Các ngài chỉ giữ lại sách và một số vật dụng tối cần thiết"
    Cha Đa Minh không quản ngại khó khăn vất vả. Mấy tháng liền Cha dành trọn ban ngày cho tha nhân và thức trắng đêm thờ phượng Chúa. Đặc biệt trong mỗi lần tranh luận, cha mời đối phương cử trọng tài. Sự tín nhiệm đó đã đem lại hiệu quả bất ngờ. Một lần kia, Chúa tỏ dấu xác nhận lời cha. "Ở Montréal, người Cathares không đốt nổi cuốn sách do cha viết". Đã đến lúc những hoạt động hăng say, lời giảng trìu mến kèm với dấu lạ cuốn sách không bị cháy, trỗ sinh hoa trái đầu mùa : một vài phụ nữ bỏ phái Cathares đến xin cha hướng dẫn.
    Cảm hứng theo tổ chức của lạc giáo, vốn có các "tín nữ" yểm trợ đắc lực cho những nhà du thuyết, cha Đa Minh đã bố trí họ trong cộng đoàn Prouille, miền Fanjeaux nước Pháp, ngay trên địa bàn của lạc giáo. Tu viện Prouille trở thành cơ sở đầu tiên của nữ đan viện Đa Minh (1206). Dưới mái trường êm ấm đó, các chị học theo Chúa Cứu Thế hiền từ và khiêm nhượng trong lòng, luyện tập mở rộng tâm hồn, mong ước cho mọi người được ơn cứu độ ... Và dĩ nhiên, trước tiên cho những thân hữu lạc giáo sống quanh mình.
    Năm 1207, Đức cha Diego phải trở về Osma để thu xếp công việc địa phận và qua đời tại đó. Chỉ còn cha Đa Minh với cái tên thân ái "Anh Đa Minh" vẫn tiếp tục rao giảng không mỏi mệt. Theo lời cha Jordano : "thỉnh thoảng có vài anh em đến chung sống với cha, nhưng chưa có ai khấn vâng lời".
    7/ Tình yêu Chúa thúc bách tôi
    Năm 1208, do thái độ cứng rắn, đặc sứ Pierre Castelnau bị sát hại. Đức Innocentê III mất kiên nhẫn, tuyên bố thánh chiến với Albigeois. Nhưng cha Đa Minh không tham gia cuộc chiến này. Ba tài liệu viết tay của ngài còn được lưu giữ, gồm một thư gửi các nữ đan sĩ và hai chứng từ cấp cho người Cathares trở lại. Con đường ngài chọn vẫn là cầu nguyện và rao giảng. Ngài nói : "chống kiêu ngạo bằng khiêm tốn, chúng ta hãy đi chân không đến gặp Goliát". Cha không tin vào vũ khí bạo lực mà tin vào những hòn sỏi nhỏ bé cộng với sự phù trì của Thiên Chúa.
    Lần kia, khi khuyên một người lạc giáo trở về, cha nhận được câu trả lời bất ngờ : "Tôi không thể rời xa họ, vì tôi ăn nhờ ở trọ trong nhà họ". Cha Đa Minh vừa lúng túng vừa đau lòng vì không có gì để trợ cấp cho anh ta. Cuối cùng cha tìm ra giải pháp : tự bán thân mình để lấy tiền cứu anh khỏi hố thẳm tội lỗi.
    Như vậy, cha Đa Minh muốn theo sát Đức Kitô, vì "không có gì cao quý bằng kẻ hiến mạng sống mình cho người mình yêu". Nhiều lần cha ước mơ làm nạn nhân của những tấn tuồng tử đạo khủng khiếp. Khi đối phương hỏi ngài có sợ bị bắt không ? Ngài trả lời : "Nếu bắt được tôi, xin các anh đừng giết tôi ngay, hãy băm xác tôi ra thành trăm mảnh, xẻo tai cắt mũi, rồi để tôi nửa sống nửa chết hay muốn kết liễu thì tùy ý anh". Lần khác cha vui vẻ theo nhóm lạc giáo vào rừng gai, nhìn chân xước, máu chảy ngài nói "sám hối phải thế đó". Rồi cười thoải mái trước sự ngạc nhiên của họ.
    8/ Chân dung nhà thuyết giáo
    Cha Đa Minh thường chọn đi giảng ở Carcassone, vì ngài nói : "Ở Toulouse này tôi gặp nhiều người ca tụng, còn ở Carcas-sonne, mọi người chống lại tôi". Quả thế, tại vùng đó, đối phương sỉ nhục ngài đủ cách. Họ nhỗ nước miếng, ném bùn, nhét rơm vào áo rồi chế diễu. Như các tông đồ xưa, ngài sung sướng được chịu sỉ nhục vì Danh Chúa Kitô, kiên cường không lùi bước trước trở ngại đe dọa. Ngài bình thản tiếp tục hành trình, vui vẻ ca hát.
    Viện phụ Guillaume de Pierre, một nhân chứng đương thời cho ta biết : "Đa Minh khát khao mãnh liệt ơn cứu rỗi các linh hồn ... Ngài hăng say rao giảng ngày đêm, trong nhà thờ, nơi nhà riêng, giữa cánh đồng và ngay trên đường đi. Ngài không ngừng công bố Lời Chúa, cổ võ anh em cũng làm như vậy, bao giờ cũng chỉ nói về Chúa. Ngài từ chối chức giám mục Conséran... Ngài âu yếm an ủi anh em bệnh tật, kiên nhẫn khích lệ những người nản chí. Ngài quảng đại tặng người nghèo mọi thứ mình có. Ngài không có giường nào ngoài nhà thờ, nếu không có nhà thờ, ngài ngủ ghế, ngủ đất, hoặc tháo nệm gia chủ trải để nằm trên trỉ giường. Bao giờ tôi cũng thấy ngài mặc áo chùng, vá trên vá dưới. Ngài luôn luôn mặc áo xấu nhất trong anh em. Ngài cổ võ người này kẻ khác sống đức tin và bình an".
    Có lẽ từ năm 1213, cha Đa Minh phổ biến Kinh Mân Côi, khi đó còn dưới dạng thức đơn giản "Kính Mừng Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà có phúc hơn mọi người nữ". Nhóm Cathares vốn coi vật chất là điều xấu, họ không tin Chúa Giêsu nhập thể trong xác phàm và như thế họ cũng chối nhân tính đức Giêsu trên Thánh Giá. Lời kinh Mân Côi đơn sơ nhắc nhớ đến mầu nhiệm nhập thể và cứu độ, có sức tác động giúp suy niệm về cuộc sống, cuộc khổ nạn và vinh quang của Đức Giêsu, đưa nhiều người rời bỏ lạc giáo

    Ghi chú : Theo những sử liệu chính xác, Pierre Alain de la Roche OP (1428-75) ở Bretagne là người ổn định chuỗi 150 với ba mùa Vui, Thương, Mừng như hiện nay. Kinh "Thánh Maria" cũng chuyển biến từ thế kỷ XIII và có dạng hiện nay do đức Pio V ấn định năm 1508. Kinh "Sáng Danh" cuối mỗi chục kinh, xuất hiện ở nhà thờ Đaminh Sopra Minerva tại Roma năm 1613. Thánh danh Giêsu và Maria được đức Urbano IV (1261-64) thêm vào.



    Chữ ký của dominico_dung
    "ĐỪNG SỢ, BỞI VÌ CHA GỌI ĐÍCH DANH CON" (Isaia 43,1)

  4. Có 5 người cám ơn dominico_dung vì bài này:


  5. #3
    xoicucnong's Avatar

    Tham gia ngày: May 2008
    Tên Thánh: Martino
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đi bán dạo, mần răng có nhà hỉ...^^
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 868
    Cám ơn
    2,784
    Được cám ơn 1,699 lần trong 545 bài viết

    Default

    Cám ơn 2 anh vì đã cho mọi ngươi biết nhiều hơn về cha Thánh, cũng sắp tới ngày mừng kính của Ngài rồi...!!!
    Chữ ký của xoicucnong
    LẠY CHÚA, XIN CHO CÁC LINH HỒN ĐƯỢC AN NGHỈ NGÀN THU.

  6. Có 3 người cám ơn xoicucnong vì bài này:


  7. #4
    xoicucnong's Avatar

    Tham gia ngày: May 2008
    Tên Thánh: Martino
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Đi bán dạo, mần răng có nhà hỉ...^^
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 868
    Cám ơn
    2,784
    Được cám ơn 1,699 lần trong 545 bài viết

    Default

    Cám ơn 2 anh vì đã cho mọi ngươi biết nhiều hơn về cha Thánh, cũng sắp tới ngày mừng kính của Ngài rồi...!!!
    Chữ ký của xoicucnong
    LẠY CHÚA, XIN CHO CÁC LINH HỒN ĐƯỢC AN NGHỈ NGÀN THU.

  8. Có 2 người cám ơn xoicucnong vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com