|  | 
 CÁI THẤY CỦA NHỮNG NGƯỜI LỮ HÀNH TRÊN ĐƯỜNG HY VỌNG    Trong thời gian vận động phong thánh cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận, Mạng  Lưới Dũng Lạc (www.dunglac.org/) đã đưa  lên trên 10 cuốn sách của Ngài lên Tủ Sách Dũng Lạc. Đặc biệt là cuốn Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng,  ghi lại nhiều  mẩu chuyện sống động như những chứng nhân đã đi trên con đuờng này.
 Xin mở  đọc cuốn sách này cũng như trên 10 tác phẩm của ĐHY Nguyễn Văn Thuận trong Tủ  Sách Dũng Lạc:
 -  Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng.
 -  Đường Hy Vọng
 -  Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá
 -  Ðường Hy Vọng Dưới Ánh Sáng Lời Chúa và Công Ðồng
 -  Chứng Nhân Hy Vọng
 -  Sứ Điệp Đức Mẹ La Vang
 -  Tại Sao Tôi Chọn Chúa
 -  Cầu Nguyện
 -  Thập Đại Thành Công
 -  Niềm Vui Sống Đạo v. v..
  KHI MỘT NGỤC SĨ ĐUỢC TRAO BẰNG TIẾN SĨ DANH DỰ   Đã có văn sĩ, thi sĩ,  họa sĩ, ảnh sĩ, bác sĩ, dược sĩ, thì bây giờ cũng có ngục sĩ, là "bằng tiến sĩ  danh dự" được trao tặng những ai đã từng bị vùi giập mà vẫn phây phây cứ vậy  thôi. Đó là “ngục sĩ” Nguyện Văn Thuận đã khẳng định một cách dí dỏm trong một  lần đến thăm Mỹ để lãnh bằng tiến sĩ danh dự cách đây mấy năm do Viện Thần Học  Notre Dame ở New Orleans trao:
 Làm sao cũng chẳng làm  sao
 Dẫu có thế nào cũng  chẳng làm chi.
 Làm chi cũng chẳng làm  chi
 Dẫu có chuyện gì cũng  chẳng làm sao.
 Lạ lắm! Không ai có thể  tưởng tượng được rằng người đang đứng trước đám đông người Việt vùng New Orleans  nô nức đón chào kia lại đã từng là một "ngục sĩ" trên 13 năm, trong đó thì 9 năm  bị biệt giam. Cứ nghĩ rằng với bằng ấy năm bị đầy đọa, thì người phải còm cõi  xanh xao, "chất lượng xuống cấp," chứ có ngờ đâu vẫn tráng kiện cả thể xác lẫn  tinh thần.
 
  Con người đó chính là ĐHY Nguyễn Văn Thuận, đang trở thành như hiện  thân của niềm hy vọng cho lớp dân tan tác. Vẫn giọng khôi hài dí dỏm với biệt  tài kể truyện làm mọi người rộn lên niềm vui đầy xác tín của "Những Người Lữ  Hành Trên Đường Hy Vọng" như tựa đề cuốn sách của Ngài góp lại từ những suy tư  viết trong ngục tù. Quả thực, con người này vẫn tràn đầy nhiệt lực, có sức bật  sáng lên trong khóe mắt từng người gặp gỡ, có sức "truyền nhiễm" chất lửa của  Tinh Thương, của Tin Mừng. DÂY ĐEO "BỤI ĐỜI"
 Người lữ hành này lại  đeo một cây thánh giá cũng khá khác lạ. Thay vì được mạ vàng như thường thấy nơi  nhiều vị giám mục, dây đeo và cây thánh giá của Ngài lại làm bằng kẽm, giống như  kiểu mấy tay bụi đời bây giờ thường đeo như một cái "mốt". Hỏi ra mới biết đây  là loại "bụi đời" thứ thiệt, có "thành tích vào tù ra khám". Số là khi bị giam  tại Vĩnh Phú, sau một thời gian tạo được thiện cảm với tên coi tù, Ngài đã xin  được một đoạn dây kẽm và một khúc gỗ. Thế là Ngài đã biến chế thành một dây đeo  và một cây thánh giá. Ngài nói gỗ này từ vùng rừng núi Ba Vì là nơi có Đền Hùng,  vị quốc tổ Việt Nam.
 Đây đúng là dấu tích  của tinh thần bất khuất từ tổ tiên tộc Việt, và của lời chứng mãnh liệt  (powerful witness) của một người lữ hành trên Đường Hy Vọng như lời ĐTGM Francis  Schulte tổng giáo phận New Orleans phát biểu khi trao bằng tiến sĩ danh dự cho  Ngài.
 Không can gì! Đó là lời  Ngài nhắc đi nhắc lại trong buổi nói chuyện với các sinh viên và đại chúng Mỹ và  Việt. Chẳng có gì làm cho mình chùn bước được. Không có gì cản trở nổi. Dù bị  cầm chân hơn 13 năm, người lữ hành vẫn cứ đầu cao mắt sáng bước đi trên đường hy  vọng. Và đó cũng chính là lời Kinh Thánh đã tạo nên sức mạnh khiến cho bao người  đã và đang cùng đi trên con đường này dám thách thức trước bao bạo lực, nhất là  qua gương của các tiền nhân anh hùng tử đạo Việt Nam.
 HY VỌNG LÀM SAO ĐƯỢC?!
 Cứ tưởng tượng coi,  trong hơn 13 năm tù thì Ngài bị 9 năm giam cách ly. Đếm từng phút, đếm từng giờ.  Ngày này qua ngày khác. Tháng này qua tháng khác. Năm này qua năm khác. Đằng  đẵng như vậy làm sao chịu nổi. Thần kinh căng thẳng đến rùng rợn. Cô đơn đến tột  cùng. Cô đơn và xa cách mọi sự tạo nên một cực hình có thể làm điên lên được.  Saint-Exupéry trong Một Chuyến Bay Đêm đã diễn thật tài tình cái nỗi cô đơn thèm  tình người này. Thà phải đi lao động vất vả nhọc mệt có thể còn khá hơn. Còn có  người nọ người kia. Đàng này xa cách mọi sự, thiếu thốn mọi sự, không còn gì  hết. Ngột ngạt vô cùng. Từng ngụm khí thở cũng quí quá sức. Chỉ mong có dịp  người coi ngục mở hé cửa ra là mình có thể hớp thêm được một ngụm khí trời. Ôi  một ngụm khí trời mọi khi vẫn chả bao giờ để ý, vậy mà bây giờ lại trở thành  niềm mơ ước, vì có sức "làm hoan lạc tâm can".
 Tờ Clarion Herald ở New  Orleans trong dịp đó thuật lại về những năm bị giam cách ly hãi hùng này:
 "Nhiều lúc tôi tự hỏi  đang là thật hay đang trong cơn ác mộng? Đôi khi tôi chỉ có thể đọc nổi một kinh  Kính Mừng hay một kinh Lạy Cha, vì không còn đủ sức tập trung tinh thần. Không  thể chịu nổi. Không thể chịu nổi! Dễ bị điên lắm. Tôi đã ốm xuống, sụt mất 48  pao. Nhưng mà đó cũng là điều tốt, vì chất mỡ và chất đường trong máu tôi tiêu  tan hết."
 "Khi tôi được thả tù,  nhiều người bảo: Chắc Đức Cha có nhiều giờ để cầu nguyện trong nhà tù. Tôi trả  lời: Thì cứ vào đó mà cầu nguyện, rồi về kể lại cho tôi nghe."
 BÍ MẬT VỀ MỘT KHÍ GIỚI MẠNH NHẤT
 Vậy mà con người ấy vẫn  không điên, nhưng vẫn đứng vững, vẫn thắng vượt, vẫn bước đi làm người lữ hành,  thì chắc hẳn phải có một bí mật gì? Thì đây trong những chuyến viếng thăm các  cộng đồng Việt ở Cali và vùng New Orleans, ĐHY Nguyễn Văn Thuận đã "bật mí" cái  bí mật này. Người ta tuốn đến tìm gặp gỡ Ngài như một hiện thân những khổ nạn,  những đọa đầy của một đời người. Cũng là những giẫy giụa của dân mình, của mỗi  người, nhiều lúc quá phi lý, mà chưa tìm ra câu trả lời. Từ đáy vực đen làm sao  tìm được nút bật sáng?
 Thánh lễ trong nhà thờ  giáo xứ Việt Nam vùng New Orleans đã chật ních người với bầu khí thật trang  trọng. Nhiều thành phần các tôn giáo cũng đến tham dự. Một bài hát làm nhiều  người xúc động đã vang lên đúng lúc đầy ý nghĩa do ca đoàn tổng hợp của các họ  đạo trong vùng. Bài hát này do chính linh mục nhạc sư Ngô Duy Linh sáng tác và  điều khiển, cảm hứng từ lời Kinh Thánh trong thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn  Roma, như một bí mật, như một câu trả lời cho tất cả. Và đây chính là "tuyên  ngôn" của những người lữ hành trên đường hy vọng:
 Không có gì. Không có  gì!
 Không có gì tách được  chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
 Không có gì. Không có  gì!
 Không có gì tách được  chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
 Dù là gian truân hay  cùng khốn.
 Bắt bớ, đói khát, hay  bị lột trần.
 Dù là hiểm nguy hay  gươm giáo.
 Giặc pha nhà cháy, hay  ngục tù đày lưu.
 Dù là sự sống hay sự  chết.
 Quyền thần, quản thần,  hay thiên sứ.
 Dù là nhân loại, hay  thụ tạo nào.
 Hiện tại tương lai, hay  vực thẳm trời cao.
 (Roma 8:35, 37-39)
 Đó là bí mật về một khí  giới mạnh nhất: Niềm Tin Yêu Hy Vọng. Không can chi! Có Chúa Toàn Năng độ trì  thì còn sợ gì ai! Bí mật mà Đức Giêsu đã trao cho các môn đồ trước khi từ giã:
 "Giữa thế gian, các con  sẽ phải khổ đau, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Gioan 16:33).
 Chết là cùng. Mà chết  vẫn chưa hết thì còn gì trên đời này phải sợ nữa! Vì thế mà người lữ hành cứ  hiên ngang bước tới.
 CÁI THẤY CỦA "NGỤC SĨ" EZEKIEL
 Người Việt mình nhìn  vào thân phận bi thảm của cả một dân tộc trải dài suốt lịch sử vẫn chưa sao tìm  được câu giải đáp. Nhiều lúc xem ra phí lí và tủi phận sinh ra làm người Việt  Nam gục mặt trước đà tiến của thế giới. "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Một trăm  năm độ hộ giặc Tây". Bao nhiêu năm "nổi tiếng" từng ngày, gia tài của mẹ để lại  trên Tivi báo chí, với những hình ảnh ghê rợn, nghèo đói, thua thiệt.
 Xâu xé từ thời Trịnh  Nguyễn, từ thời "bình Tây" thì ít mà "sát Tả" thì nhiều. Rồi gà cùng một mẹ  tranh lộn đá đáp nhau tận tình để phục vụ cho các thế lực "trật tự mới" muốn  dùng người mình thay chuột làm thí nghiệm cho mớ lý thuyết "tất yếu của lịch sử"  mới chế ra. Có thể vì mạng sống ở đây rẻ rúng hơn?! Nay thì thế giới đã cựa mình  chuyển sang thiên kỷ 3, có con đường nào cho người mình mở tới không hay vẫn tắc  lối?! Bằng ấy năm và bằng ấy cách đầy đọa vùi giập nhau khiến phải thua thiệt  cúi mặt nhục nhằn đã đủ chưa?!
 Ở Á Châu có hai nước  mang thân phận khổ nạn khá giống nhau. Đó là Việt Nam ở phía đông, và Do Thái ở  phía Tây. Những đầy đọa của dân tộc Do Thái đã mang một sử mạng làm nơi phát  sinh những tôn giáo lớn cho thế giới như Do Thái Giáo và Kitô giáo. Còn những  khốn cùng của dân Việt mình liệu có mang sử mạng gì?
 Trong lớp người bị đi  lưu đầy sang Babylon vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, có một "ngục sĩ" tên là  Ezekiel. Ngài là một tư tế và tiên tri. Hoàn cảnh của dân tộc Do Thái được tiên  ri Ezekiel diễn tả như một bãi tha ma đầy xác chết xình thối, sọ xương chồng  chất ngổn ngang ghê rợn. Tình trạng thật thê thảm tuyệt vọng.
 Vậy mà trong cảnh huống  đó, tiên tri Ezekiel đã nhìn thấy trước một cuộc hồi sinh. Sở dĩ ông có niềm tin  ấy, vì dưới mắt ông, Thiên Chúa của tổ tiên ông vẫn đang dẫn đầu lịch sử của dân  tộc ông, mặc dù đang đi qua đêm đen hãi hùng, đang mò mẫm qua vùng mồ mả đầy xác  chết với xương trắng ngổn ngang. Lịch sử của dân tộc phải có một ý nghĩa, một  hướng đi, mặc dù dưới con mắt của nhiều người là phi lý, vô nghĩa và chán  chường. Cái hướng lịch sử này như một dòng sức sống đang được mở tới theo một  con đường huyền nhiệm do Đấng Toàn Năng, theo nhịp theo điệu. Đã đến lúc nhịp xe  lịch sử chuyển bánh thì không một sức mạnh nào cản ngăn được nữa. Tiên tri  Ezekiel đã thành công trong việc khắc sâu niềm tin này vào tâm khảm những kẻ lưu  đầy qua Thị Kiến Hồi Sinh, khi họ phải đương đầu với một tương lai mịt mù đen  tối của dân tộc và của chính mình:
 "Tay Giavê đã đến trên  tôi. Trong Thần Khí của Giavê, Người đem tôi ra và đặt tôi ở giữa cánh đồng, đầy  những xương. Người dẫn tôi đi quanh những xương ấy. Và này: các xương ấy nằm la  liệt trên mặt cánh đồng. Và này: chúng khô đét cả.
 Người phán với tôi: Con  người hỡi, các xương ấy hồi sinh được chăng? Tôi thưa: Lạy Đức Chúa Giavê, chính  Người biết.
 Người mới phán với tôi:  Hãy tuyên sấm trên các xương ấy và nói với chúng: các xương khô kia, hãy nghe  lời của Giavê! Đức Chúa Giavê phán với các xương ấy: này Ta sẽ đem Thần Khí đến  trên các ngươi. Và các ngươi sẽ sống. Trên các ngươi, Ta sẽ cột gân vào. Trên  các ngươi, Ta sẽ cho thịt mọc. Trên các ngươi, Ta sẽ căng da. Ta sẽ ban Thần Khí  xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ sống. Và các ngươi sẽ biết Ta là Giavê.
 Tôi đã tuyên sấm như đã  được lệnh. Tôi vừa tuyên sấm thì xảy có tiếng vang dậy. Và này: thật là huyên  náo! Các xương xích lại, cái này với cái nọ. Tôi nhìn. Và này: Trên các xương đã  có gân. Thịt mọc lên. Và da từ bên trên đã căng lên trên các xương. Nhưng không  có Thần Khí trong đó.
 Người lại phán với tôi:  Hãy tuyên sấm cho Thần Khí. Hãy tuyên sấm, hỡi con người, và nói với Thần Khí:  Đức Chúa Giavê phán thế này: "Từ bốn luồng gió, Thần Khí hỡi, hãy đến, hãy thổi  vào các tử thi này, để chúng được sống".
 Tôi đã tuyên sấm như  Người đã truyền cho tôi. Thần Khí đã nhập vào các xương. Chúng đã hồi sinh. Và  chúng đứng dậy trên chân chúng. Một đạo binh lớn, rất lớn.
 Bấy giờ Người phán với  tôi: Con người hỡi, các xương ấy tức là toàn thể nhà Israel. Này chúng nói:  Xương chúng tôi đã khô. Hi vọng tiêu ma. Chúng tôi đã bị chặt phăng mất.
 Cho nên ngươi hãy tuyên  sấm và nói với chúng: Đức Chúa Giavê phán thế này: Này Ta sẽ mở cửa mồ các  ngươi, hỡi dân Ta. Ta sẽ dẫn các ngươi về lại thửa đất của Israel. Và các ngươi  sẽ biết Ta là Giavê, khi Ta mở cửa mồ các ngươi và đem các ngươi lên khỏi mồ,  hỡi dân Ta. Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ  được sống. Ta sẽ cho các ngươi an cư nơi thửa đất của các ngươi" (Ez. 37:1-14)
 Quả thực, người Do Thái  đã phục hưng dân tộc từ một niềm tin. Rằng mình có thể và phải ngóc đầu dậy. Và  người diễn lên viễn ảnh cuộc hồi sinh đó, chính là tư tế Ezekiel, một "ngục sĩ"  trong cảnh lưu đầy.
 
 TIN VUI VỀ CON ĐƯỜNG HY VỌNG
 
 
  Nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba. Một thời điểm đầy lo âu  khắc khoải nhưng cũng đầy vui mừng và hy vọng như công đồng Vatican II đã diễn  tả. Bước chân nào đang đi tới? Có phải là những bước  mệt mỏi lê lết trên đường New York, Paris, London, Tokyo, New Orleans, Los  Angeles? Có phải là những bước xiêu vẹo thất thểu, mất hướng ở những con đường  Việt Nam? Có phải những bước chùn chân buông xuôi phó mặc cho may rủi của những  cuộc vận hành?
 Thì đây, Đức Thánh Cha  Gioan Phaolô II đã viết một tông thư cho thời điểm này: Đệ Tam Thiên Niên sắp  đến (Tertio Millenio Adveniente) ngày 10 tháng 11 năm 1994:
 "Nay chúng ta đang tiến  gần đến đệ tam thiên niên của kỷ nguyên mới, tâm tư chúng ta hướng về những lời  nói của tông đồ Phao-lô: "Khi thời gian đã đến buổi trọn đầy, Thiên Chúa gửi Con  Mình đến, sinh từ một người phụ nữ" (Gl 4:4).
 "Sự kiện Ngôi Lời vĩnh  cửu, trong sự toàn mãn của thời gian đã mặc lấy thân phận của tạo vật, đem lại  cho biến cố của Bê-lem cách đây 2000 năm một giá trị hoàn vũ lạ lùng, Nhờ Ngôi  Lời, thế giới của các tạo vật được xuất hiện như một hoàn vũ, nghĩa là một vũ  trụ được xếp đặt trong trật tự. Và cũng chính Ngôi Lời khi nhập thể, làm mới lại  trật tự hoàn vũ nơi các tạo vật" (tông thư, số 3)
 Đức Thánh Cha có ý nói  một điều đơn sơ: để bước vào thiên niên thứ ba: chỉ có một con đường là tin thấy  Chúa Kitô trong cuộc sống. Ngài đã làm người ở giữa con người. Và Ngài mới là  Đường, là sự Thật và là Sự Sống. Tất cả những con đường khác chỉ là "sự tìm kiếm  Thiên Chúa bằng những bước mò mẫm" (TĐCV 17:27). Đúng là thời điểm tìm được Đức  Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thoát. Bởi vì chẳng còn có con đường giải phóng nào  khác được nữa!
 Đã thấy được như vậy  rồi thì dù có nghèo túng, bị vùi dập đầy đọa vẫn luôn hy vọng, vẫn xây dựng hóa  bình, vẫn khao khát thánh thiện công chính, và vẫn luôn hạnh phúc. Vì đã có Chúa  là nguồn giầu có và quyền năng rồi, thì không còn biết sợ gì nữa. Các thánh đúng  là những người lữ hành trên đường hy vọng:
 Làm sao cũng chẳng làm  sao
 Dẫu có thế nào cũng  chẳng làm chi.
 Làm chi cũng chẳng làm  chi
 Dẫu có chuyện gì cũng  chẳng làm sao.
 
 Mô-sê trong những lúc  đen tối nhất cuộc đời, mò mẫm tìm hướng đi trong sa mạc Madian thì được Chúa cho  thấy một cảm nghiệm: Ta là Đấng đang có mặt. Ta sẽ ở với con bất cứ nơi nào con  đi. Thấy được như vậy là một khúc quặt then chốt của cuộc đời Mô-sê. Ông đã trở  lại với dân trong một sức mạnh mới, với con mắt sáng ngời, đầy nhiệt lực giải  thoát, để đương đầu với bạo lực.
 Abraham bước đi theo  tiếng gọi vào sa mạc cát mù mà không biết mình đi đâu. Ông chỉ chắc một  điều: Đấng Toàn Năng Hằng Hữu đang cùng đồng hành với mình và dẫn ông đi.  Vậy là ông đã sinh sản được một lớp dân của niềm tin và hy vọng phát triển như  sao trên trời.
 CÁI THẤY CỦA NHỮNG NGƯỜI  LỮ HÀNH TRÊN ĐƯỜNG HY VỌNG: Chúa Cấm Con Thất  Vọng.
 
  Cũng chính trong cái thấy ấy mà người lữ hành Nguyễn Văn Thuận khi làm  giám mục đã lấy khẩu hiệu: Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes). Và vị tư tế  này khi làm "ngục sĩ" trong cảnh lưu đầy Babylon thời mới ở chính quê hương  mình, cũng đã gióng lên niềm tin tuyệt đối qua những chặng đường đen tối nhất  của đời mình cũng như của dân tộc với "Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy  Vọng": "Hãy cố gắng, dù yếu  đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận  động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quị, bị nhiều cú đấm, bị thương  tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế" (Đường Hy  vọng #971).
 "Cha Charles de  Foucauld có để lại mấy giòng sau đây, đọc kỹ con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và  lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng:
 Dù con xấu xa, dù con  tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con  thất vọng điều đó.
 Dù con bội bạc cách  mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy, Chúa cũng  bắt buộc con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và  sự thánh thiện.
 Chúa cấm con ngã lòng  trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói: "Tôi không thể đi tới được,  đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp".
 Trước những sa ngã trở  đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: "Tôi không hề sửa mình được,  tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng..."
 Vậy Chúa muốn con phải  trông cậy luôn vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng  của Chúa.
 Phải, khi con nhớ tới  điều Chúa đã làm cho con, con tự nhiên bắt tin tưởng vào tình thương của Chúa.  Mặc dù con cảm thấy con là đứa phản bội, bất xứng, con vẫn tin cậy ở tình thương  ấy; con biết là Chúa luôn sẵn sàng để tiếp rước con như thể người cha của đứa  con hoang đàng trong Phúc Âm, nhất là vì chính Chúa đã không ngớt gọi mời con và  ban cho con những phương thế để đến dưới chân Chúa..." (Những Người Lữ Hành Trên  Đường Hy Vọng, trang 547-548)
 NGÂN HÀNG TÌNH THƯƠNG
 Niềm hy vọng này không  phải như kiểu ngồi chờ sung rụng, mà là một cuộc dấn thân lên đường:
 "Có hạng Công Giáo đợi  chờ", khoanh tay mong đợi niềm hy vọng đến. Có hạng "Công Giáo thụ động", "trốn  tránh, vô trách nhiệm". Họ chỉ biết "nhìn lên" để kêu cứu, mà không biết "nhìn  tới" để tiến, "nhìn quanh" để chia sẻ, gánh vác" (Đường Hy Vọng #996)
 "Chị Phanxica mang  trong mình nhiều thứ bệnh: nhức đầu, đau tim, viêm ruột... Chị đã được lắm bác  sĩ khám bệnh, giải phẫu, điều trị tại nhiều bệnh viện khác nhau. Và hầu như mọi  người đều bó tay. Tuy thế chị vẫn không nản lòng. Chị sống Lời Chúa mỗi ngày, và  có nhiều câu đã đánh động tâm trí chị cách mãnh liệt như: "Hãy sắm cho mình  những ví tiền sẽ không hề cũ nát, kho tàng không hao vơi trên trời, nơi trộm  không lai vãng và mọt không nhấm nát. Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con  cũng ở đó" (Luca 12: 33)
 Hôm khác chị lại gặp  một đoạn Lời Chúa đánh động: "Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống một  bát nước lã mà thôi, vì danh nghĩa là môn đồ, thì quả thật, Ta bảo các con, nó  sẽ không mất phần thưởng của nó" (Mt 10: 42)
 Những lời Chúa Giêsu  nói trên đã thấm thía vào tâm hồn chị, và chị nảy ra một sáng kiến: Thành lập  "Ngân Hàng Tình Thương", có mục đích đón nhận vốn của những ai muốn mở trương  mục, gom góp những lời nguyện và những việc hy sinh trong bổn phận vì tình  thương Chúa và các linh hồn. Số vốn ấy cùng với tình thương trên Thánh Giá sẽ  sinh nhiều ơn ích cho vinh quang Chúa, cho cuộc cứu rỗi nhân loại và nhất là cho  chính bản thân người mở trương mục.
 ...Có nhiều chị bạn đã  hưởng ứng sáng kiến ấy, và như vết dầu loang ở trên tờ giấy, nhiều gia đình,  nhiều thanh niên thiếu nữ, nhiều cộng đoàn đã vui vẻ mở trương mục. Mấy lâu nay  họ nghĩ họ hết của, họ nghèo, không ngờ rằng thực sự họ là những kẻ rất giầu có,  vì mỗi một giây họ đều có thể sống tràn đầy tình thương để bỏ vốn vào đại cuộc  cứu rỗi nhân loại, để gởi đến những địa phương đang nóng bỏng trên thế giới...  Họ cầm trương mục trên tay và tự nhủ: "Từ bé tới giờ tôi chẳng bỏ vào ngân hàng  một xu! Hôm nay tôi mới bắt đầu..." Liền đó là một nụ cười âu yếm tươi nở trên  môi: "ngân hàng dễ thương thật!" Đời sống thiêng liêng của họ đã vươn lên; bởi  vì họ hiểu rõ ràng đây không phải là một "sổ kho", nhưng là một sự cam kết  trước, và rồi trong tuần tới phải làm hết mọi cách để hoàn thành kế hoạch, vượt  mức chỉ tiêu. Đời sống họ luôn tiến bộ như mũi tên bay. Tâm hồn họ cũng sẽ mở  rộng theo kích thước bao la của Hội Thánh và của thế giới. Họ sẽ cố gắng đáp ứng  những chiến dịch bỏ vốn theo nhu cầu giáo phận, theo ý của Đức Giám Mục, hoặc  cho một chuyến công du của Đức Thánh Cha được thành công.
 Mỗi phút giây trong đời  sống đều đáng giá ngàn vàng! Con đã tìm hiểu và mở trương mục chưa?" (Những  Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng, trang 548-550)
 NHỮNG NGƯỜI LỮ HÀNH TRÊN ĐƯỜNG HY VỌNG
 Và đây là lời mở đầu  của cuốn sách, thật ngắn gọn đơn sơ nhưng tóm lược tất cả cuộc hành trình cuộc  đời của mỗi người hôm nay đang tìm đường "bước qua ngưỡng cửa hy vọng" chuyển  mình vào thiên kỷ 3. Lời chia sẻ và cũng là lời chứng của một "ngục sĩ" viết từ  trong ngục tối, và của một người lữ hành vẫn đang còn phải bước đi, nhưng bước  đi trên đường tràn trề hy vọng:
 "Con thân yêu,
 Trên đường hy vọng,
 Xưa nay có nhiều người  lữ hành,
 Thuộc mọi giai cấp, mọi  lứa tuổi,
 Đủ mọi mầu da, mọi thời  đại.
 Người đi trước con,  người đi sát cánh con.
 Mỗi cuộc đời là một  huyền nhiệm,
 Muôn nghìn nỗi gian  truân thử thách;
 Ức triệu lòng dũng cảm  kiên cường.
 Trước gieo trong nước  mắt,
 Sau gặt trong hân hoan.
 Lắm lúc Cha chùn bước  nản lòng,
 Nhưng nhìn gương họ,  nghe tiếng họ,
 Tâm hồn Cha lại phấn  khởi tươi vui,
 Và cũng bước đi bên  những bạn đường yêu quí.
 ....
 Này người lữ khách hôm  nay thân mến!
 Nơi đây không cống hiến  cho con,
 Những lời khuyên lơn  răn bảo,
 Cũng không thay con suy  ngắm.
 Nhưng đây chỉ là những  kinh nghiệm sống
 Của các bậc Thánh và  các người Thánh,
 "Những người lữ hành  trên đường hy vọng"
 Họ có thật và họ sống  thật!
 ...
 Mong con hãy bình tâm  suy niệm,
 Để rút ra tia sáng,
 Soi chiếu bước chân  đi..."
 Lm. Trần Cao Tường
 
 	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất: |  |