|
Gm phó Matthêô Nguyễn Văn Khôi
LỄ KÍNH CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN Ngày cử hành Năm Thánh với các giảng viên giáo lý
Tại nhà thờ Mằng Lăng, ngày 26/07/2010
Hôm nay, ngày 26 tháng 07, cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam nói chung, giáo phận Qui Nhơn chúng ta long trọng cử hành lần thứ 366 ngày sinh nhật trên trời của Chân Phước Anrê Phú Yên, Bổn mạng của các giảng viên giáo lý Việt Nam, trên chính đất thánh Mằng Lăng, quê hương của ngài. Trong khuôn khổ Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam, hôm nay cũng là ngày cử hành Năm Thánh với các giảng viên giáo lý trong giáo phận.
Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi, người chứng thứ nhất của Giáo Hội Việt Nam đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân Phước vào ngày Chúa Nhật, 05 tháng 03 năm 2000. Thánh lễ đầu tiên mừng kính cuộc tử đạo anh hùng của ngài đã được Đức Giám mục Giáo phận Phêrô Nguyễn Soạn long trọng cử hành chính tại Mằng Lăng này vào ngày 26 tháng 07 năm ấy. Đó là Đại Năm Thánh 2000 trên qui mô toàn thế giới. Hôm nay, giáp 10 năm, thánh lễ kính ngài lại được cử hành cũng trong bối cảnh Năm Thánh, đó là Năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam. Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu!
Anrê Phú Yên, mặc dù mới được tôn phong Chân Phước sau 117 thánh tử đạo Việt Nam, nhưng ngài đã đứng đầu danh sách những chứng nhân đức tin, đến độ người ta không ngần ngại truy tặng ngài danh hiệu “người chứng thứ nhất” của Giáo Hội Việt Nam, cũng như thánh Stêphanô được truy tặng danh hiệu “vị tử đạo tiên khởi” của Giáo Hội hoàn vũ. Nói đến tên tuổi của mỗi vị trong số 117 thánh tử đạo, có thể nhiều người không biết, hay chỉ được biết tại địa phương của các ngài, trong khi đó nói đến Anrê Phú Yên thì ở đâu người ta cũng biết, mặc dù ngài chỉ mới là một vị Chân Phước. Điều đó phần nào cũng nói lên tầm quan trọng của ngài trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
Anrê Phú Yên là ai và đã làm gì để xứng đáng chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu như thế? Ngài là con út của một góa phụ đạo đức có tên thánh là Gioanna sinh sống tại xóm Lò Giấy thuộc giáo xứ Mằng Lăng ngày nay. Năm 1641, khi lên 15 tuổi, ngài cùng với mẹ được lãnh nhận bí tích rửa tội do vị thừa sai Dòng Tên nổi tiếng là Cha Đắc Lộ và lấy tên thánh là Anrê. Là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng Anrê sớm có tư chất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện. Ngài tiến bước rất nhanh trên đường trọn lành: khiêm tốn, công minh và bẩm tính sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là những người đau ốm. Ngài đã được cha Đắc Lộ nhận vào số các thầy giảng, tức là những người giúp các thừa sai trong việc rao giảng Tin Mừng.
Sắc lệnh của Bộ Phong Thánh, ngày 27/01/2000, đã viết về ngài như sau: “Biết Chúa và yêu mến Chúa là sự cao đẹp tuyệt vời đã lôi cuốn tâm hồn chàng thanh niên Anrê, con người đã vui vẻ chấp nhận Tin Mừng và đã kiên cường chứng minh điều đó bằng đời sống thánh thiện và lòng nhiệt thành trong công cuộc tông đồ”.
Chính lòng nhiệt thành tông đồ của các thầy giảng đã là nguyên nhân đưa đến cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên. Sự nhiệt thành đầy can đảm ấy đã được bộc lộ trong câu trả lời rất thẳng thắn của ngài trước công đường, như lời quan Nghè Bộ nói với cha Đắc Lộ: “Anh ta thật bạo gan khi trả lời với tôi rằng anh ta là kitô hữu và tôn thờ Chúa Tể trời đất, và vì thế, anh sẵn sàng hiến mạng sống và chấp nhận mọi hình phạt người ta muốn ra cho anh”.
Vì lời tuyên xưng đức tin cách khẳng khái ấy ngài đã bị kết án tử hình. Ngài bình thản chờ đợi cái chết lòng đầy hân hoan. Ngài tiến lên pháp trường bằng những bước đi nhanh như thể đi lãnh nhận phần thưởng. Đi bên cạnh ngài, ngoài cha Đắc Lộ, còn có nhiều tín hữu công giáo Việt Nam và ngoại quốc, cũng như đông đảo đồng bào không công giáo; mọi người đều xúc động trước thái độ can trường của ngài. Đặc biệt những đồng bào không công giáo đã cảm nhận được nơi ngài tình thương mà ngài đã mang đến cho tất cả những người đồng hương của ngài. Đó là một sắc thái khá độc đáo trong cái chết của thầy Anrê Phú Yên của chúng ta.
Có thể nói, Anrê Phú Yên là đại diện tiêu biểu cho cộng đoàn kitô hữu Việt Nam lúc bấy giờ, một cộng đoàn bác ái huynh đệ đối với nhau và đối với người ngoài. Theo tất cả các chứng cứ và tài liệu, người công giáo Việt Nam thời ấy yêu thương nhau như anh em, đến độ người ta gọi đạo công giáo là “đạo của những người yêu thương nhau”. Tình yêu huynh đệ ấy bắt nguồn từ tình yêu nồng nàn đối với Thiên Chúa mà người ta có thể nhìn thấy nơi cuộc đời và nhất là những giây phút cuối đời của thầy Anrê.
Trên đường đến nơi hành quyết là cánh đồng bên ngoài thành Kẻ Chàm, nay thuộc giáo phận Đà Nẵng, ngài luôn miệng khuyên bảo mọi người bằng những lời được coi như di chúc sau cùng của ngài: “Hỡi anh em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống”. “Hỡi anh chị em, ta hãy trung tín cùng Đức Chúa Trời cho đến chết; cho đến chết, không một điều gì có thể dập tắt lòng thương mến Chúa Giêsu Kitô trong trái tim ta”. “Hỡi anh chị em, chúng ta hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”.
Sau khi để lại những lời tâm huyết ấy, thầy Anrê Phú Yên đã lớn tiếng kêu tên cực trọng Giêsu và anh dũng đón nhận cái chết đau đớn bằng mấy nhát giáo đâm thấu cạnh sườn bên trái và bị chém đầu. Ngài vui lòng chịu chết để trở nên giống Chúa Giêsu là Đấng mà ngài hết lòng yêu mến. Cha Đắc Lộ muốn trải chiếu dưới chân ngài để hứng lấy những giọt máu đào của ngài đổ ra vì đức tin, nhưng ngài muốn để máu ngài thấm vào lòng đất Việt như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 12,24-26). Giờ đây linh hồn của ngài đã ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa, như lời sách Khôn Ngoan ở bài đọc I (Kn 3,1-9). Trong những thử thách ấy, ngài đã toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến ngài và không gì có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma ở bài đọc II (Rm 8,31-39). Hôm ấy là ngày 26 tháng 07 năm 1644, khi thầy mới vừa tròn mười chín cái xuân xanh. Một của lễ đầu mùa đã được dâng cho Thiên Chúa để mở ra cho Giáo Hội Việt Nam một mùa xuân tươi thắm và một vụ mùa bội thu.
Kính thưa cộng đoàn, đặc biệt các giảng viên giáo lý và giới trẻ thân mến,
Chân Phước Anrê Phú Yên đã nêu gương cho chúng ta không những bằng cái chết vì đức tin, mà còn bằng cuộc sống đức tin và bằng nỗ lực truyền bá đức tin. Để có thể làm chứng cho đức tin bằng cái chết thì trước hết chúng ta phải làm chứng cho đức tin bằng cuộc sống, một cuộc sống chứng nhân và tông đồ. Đó là một sứ điệp được gửi đến cho tất cả mọi người tín hữu, đặc biệt là các anh chị em giảng viên giáo lý. Những trang sử về cuộc đời của thầy Anrê Phú Yên cho thấy rằng Giáo Hội Việt Nam được xây dựng phần lớn nhờ nỗ lực của người giáo dân. Quả thế, vào thời ấy các thừa sai chỉ là một con số rất ít ỏi và lâu lâu mới đến. Vì thế các thầy giảng phải thường xuyên thay thế các ngài rao giảng Tin Mừng. Thầy Anrê là tiêu biểu cho tất cả những vị rao giảng Tin Mừng vô danh ấy, là những người anh hùng trong cuộc sống trước khi tỏ ra anh hùng trong cái chết.
Để nói với giới trẻ hôm nay, tôi xin mượn lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong dịp lễ phong Chân Phước cho thầy Anrê Phú Yên: “Cuộc sống của Anrê Phú Yên đã cho chúng ta thấy quyết tâm của một con người không chấp nhận chối bỏ niềm tin, dù phải đối đầu với bạo lực. Giới trẻ có thể rút ra sức mạnh và sự can trường từ tấm gương của con người sẵn sàng hy sinh mạng sống vì anh em mình. Chớ gì tất cả các môn đệ của Đức Kitô tìm thấy nơi vị Chân Phước trẻ này sức mạnh và sự nâng đỡ trong cơn thử thách!”
----------------------------
Gm phó Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Giáo Hạt Phú Yên
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|