Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội," lời của Tertullian trong thế kỷ thứ ba đã được thể hiện nơi Cha Giuse Perez.
Cha Giuse sinh ở Coroneo, Mễ Tây Cơ, và gia nhập dòng Phanxicô khi 17 tuổi. Vì cuộc nội chiến ở Mễ thời bấy giờ, ngài buộc phải học triết thần ở California.
Sau khi được thụ phong linh mục ở Santa Barbara, ngài trở về Mễ Tây Cơ và phục vụ tại Jerecuaro từ năm 1922 trở đi. Vì sự bách hại dưới thời tổng thống Plutarco Calles (1924-28), Cha Giuse phải ngụy trang dưới nhiều hình thức khi đi thăm người Công Giáo. Vào năm 1927, tài sản của Giáo Hội bị quốc hữu hóa, các trường Công Giáo phải đóng cửa, và các linh mục, nữ tu ngoại quốc bị trục xuất.
Một ngày kia Cha Giuse và vài người bị bắt sau khi cử hành Thánh Lễ một cách lén lút. Cha Giuse đã bị quân lính đâm chết vào ngày 2 tháng Sáu 1928.
Về sau, thi hài Cha Giuse được cung nghinh về Salvatierra để chôn cất giữa tiếng hô vang dậy, "Vạn tuế Vua Kitô!"
Lời Bàn
Giáo Hội Công Giáo ở Mễ Tây Cơ bây giờ thì tự do hơn thời thập niên 1920. Ngày nay, đạo Công Giáo đang phát triển mạnh ở Mễ, một phần cũng nhờ sự ấp ủ của các vị tử đạo như Cha Giuse.
Sự lạc quan giữa những thử thách là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi mỗi người tín hữu. Chúng ta gọi đó là Đức Cậy, vì dựa vào sức mạnh của Chúa và vững tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu đã tin vào Đức Kitô đấng chiến thắng tội lỗi và ác thần, chúng ta sẽ thấy rằng không có gì có thể làm lay chuyển công trình Người thực hiện trên thế giờij này. Đối với những thử thách lớn lao hơn như cuộc tử đạo, đủ để thoát khỏi, thì thái độ lạc quan kiến quyết của người tín hữu quả là 1 cuộc hiển dương đức cậy như trường hợp của thánh Giuse Tuấn.
Thánh nhân sinh năm 1824 tại Nam Định trong 1 gia đình đạo nghĩa sốt sắng. Sau khi lớn lên, Thánh nhân lập gia đình và sống 1 đời sống mẫu mực. Năm 1861, theo chiếu chỉ phân sáp(như đã nêu ở các bài trên) gia đình Thánh nhân phải tản cư, nhưng không may thay Thánh nhân đã bị bắt cùng 1 số tín hữu khác lúc đó Ngài chỉ mới 36 tuổi. Họ bắt Ngài về phủ Xuân Trường. Ngài bị giam và đeo gông cùm như 1 tội nhân. Vì cương quyết không chối Chúa, quân lính đã lấy 1 thanh sắt nung đỏ khắc vào má Ngài 2 chữ “Tả Đạo” và bên kia là quê quán của Ngài.
Thánh nhân chẳng những không dám xúc phạm Thánh giá Chúa, mà còn hết lòng tôn kính suy tôn và cảm tạ người vì lòng thương xót hải hà của của Chúa, vì con người tội lỗi mà Ngài chịu mọi sự xỉ nhục bằng lòng cho tới cái chết đau thươngt rên thập giá. Khổ giá là nguồn ơn cứu chuộc, là sức mạnh nâng đỡ mọi người cũng như Thánh nhân trong cơn gian lao thử thách. Các quan chỉ muốn Thánh nhân bước qua Thánh Giá rồi sẽ tha về. Nhưng chẵng những người tôi tớ Chúa không làm thế mà ngược lại còn cung kính quỳ xuống trước tượng chịu nạn, và lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương baola cao cả của Chúa. Chúa thương con, Chúa đã chịu chết trên Thánh giá để chuộc lỗi con. Thánh Giá là nguồn ơn cứu độ, là sức mạnh đỡ nâng con!!!”
Ngày 07/06/1862, Thánh nhân được điệu ra pháp trường để tuyên xưng niềm tin bất khuất. Đấn nơi, Thánh nhân quỳ gối xuống, ngước mắt lên trời, phó dâng mạng sống để làm chứng cho Chúa. Và sau hồi chuông báo hiệu, linh hồn vị anh hùng đã về diện kiến Thánh nhan.
Để xứng đáng với sự anh hùng và hy sinh vì đức tin cao cả của Thánh nhân, năm 1951 thay mặt toàn thể Giáo hội Đức Thánh Cha Piô XII đã nâng Ngài lên bậc Chân phước, và ngày 19/06/1988 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã suy tôn Ngài lên bậc hiển Thánh!!!