| 
 |  
 
 THẾ NÀO LÀ TỬ ÐẠO?  
 
Một  người được gọi là vị Tử Ðạo (Martyr) khi liều mạng sống của mình để  minh chứng cho Chân Lý hoặc sự xác thực của Ðức Tin Kitô Giáo. Chữ tử  đạo đã bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “Martus”, có nghĩa là chứng nhân  (Witness) và được Thánh Augustine diễn giải rằng: “Chính vì lý do tại  sao, chứ không phải sự đau khổ đã làm nên việc tử đạo” (Martyrem non  facit poena, sed causa) (Epist. 89.2). 
 
Nhưng chỉ trong sự phát  triển của các giáo huấn Kitô Giáo mà chữ CHỨNG NHÂN đã mang một ý nghĩa  đặc biệt hơn. Theo thuyết Giu Dêu (Judaism), của dân Do Thái (Israel),  thì tử đạo được coi như một việc đạo đức cá nhân đối kháng lại sự dữ,  hoàn hảo hóa nạn nhân và được dùng như sự nêu gương đạo đức cho dân được  Chúa chọn. Ðối với Epictetus, trong “Các hành động của những người Tử  Ðạo dân ngoại và những cuộc độc thoại” (The Acts of the Pagan Martyrs  and the Soliloquies), thì tử đạo mang ý nghĩa như tác động của một triết  gia, không những ông đã giảng dạy bằng lời, nhưng còn xác định sự thật  trong lời dạy của mình bằng hành động, đặc biệt nêu sự khác biệt đối với  những hoạt động của đam mê, kinh nghiệm thế tục, và ngay cả sự chết. 
 
Ðức  Giáo Hoàng Clement I (khoảng năm 96 AD), trong một tông thư sau thời  các thánh Tông Ðồ (Postapostolic Epistle), đã dùng chữ CHỨNG NHÂN để  diễn tả sự chịu đựng của các Thánh Phêrô và Phaolô trong những đau khổ  của các Ngài. “Phêrô đã chịu đau khổ vì việc bị ghen tương bất  chính...và vì đã tự minh chứng nên đã được vào nơi vinh quang” (5.4);  còn “Phaolô đã nêu ra gía đắt của sự chịu đựng...Ngài dạy sự công chính  cho toàn thế giới, và minh chứng trước những nhà lãnh đạo...và đã đi từ  thế giới này đến chốn linh thiêng” (5.5,7). Tương quan giữa hai sự kiện  trên đã nhấn mạnh đến sự chịu đựng của các Thánh Tông Ðồ mạnh mẽ đến độ  gần như mang ý nghĩa của sự lạnh cảm, không còn biết đau đớn là gì. Các  ngài đã lãnh đạm với sự đau khổ là vì đức tin mạnh mẽ của các ngài, hơn  là dấu hiệu của sự thật về lãnh đạm đó. 
 
Ðối với Thánh Ignatius of  Antioch (khoảng năm 116), ý nghĩa của Kitô giáo về sự Minh Chứng Ðức  Tin vào Chúa Kitô là Thiên Chúa, đã được hiểu như là Ðổ Máu Mình Ra. Tuy  nhiên Thánh Ignatius đã dùng hai chữ Người Mô Phỏng (Imitator) và Môn  Ðệ (Disciple) thay vì Ðấng Tử Ðạo, vì ngài nghĩ rằng vị tử đạo là người  đã bắt chước được Chúa Kitô cách hoàn mỹ trong sự đau khổ và cái chết  của Ngài. 
 
Trong cuộc tử đạo của Ðức Giám Mục Polycarp (khoảng  155), những chữ đấng tử đạo (martyr) và sự tử đạo (martyrdom) đã mang  trọn vẹn ý nghĩa của việc minh chứng rằng sự sống và chết của Ðức Kitô  là chính thực của Con Thiên Chúa. Những chữ đó dần dần đã được dùng để  diễn tả những đau khổ và truyền thuyết về các đấng tử đạo. Những người  đã minh chứng đức tin và chịu cực hình, nhưng không tử đạo, thì được gọi  là vị tuyên xưng đức tin (confessor).  
 
Shepherd of Hermas thì  nói rằng những người đã chịu “đau khổ vì danh Con Thiên Chúa thì được  tôn vinh, và tất cả mọi tội lỗi của họ cũng được cất đi.” Tác giả của  “Lá Thư gửi Diogetus” nhấn mạnh rằng sức can đảm phi thường của các đấng  tử đạo và những hi sinh vĩ đại của họ chỉ có thể giải thích bằng việc  biểu dương sức mạnh của Thiên chúa, đã hoạt động trong và qua các ngài.  Các đấng tử đạo chắc chắn được hưởng Nhan Thánh Chúa, điều này đã được  diễn đạt trong các bản văn của các Thánh Perpetua và Felicity (Passio),  của Thánh Justin Martyr (Dial. Tryph. 110.4), cũng như của nhà thần học  Tertullian (Apol. 50.13) và của Lactantius (Div. inst. 5.13.11). 
 
Giáo  Hội đã được hưởng nhờ công ơn các đấng tử đạo rất nhiều. Tuy nhiên sự  tôn kính các ngài đã không được phát triển nhanh đủ. Các Kitô hữu thời  sơ khai chỉ làm một nghi lễ đơn sơ và một nơi an táng riêng biệt cho các  ngài. Thánh tử đạo, đã có xương thánh được tôn kính đầu tiên và hằng  năm có lễ kính, là Thánh Polycarp of Smyrna. Các Thánh “Thần học gia”  như Jerome, Augustine, Theodoret of Cyr và Cyril of Alexandria đều lên  tiếng bênh đỡ việc tôn kính này. 
 
Ông Tertullian đã cho việc tử  đạo là một nghi thức rửa tội lần thứ hai (secunda intinctio), vì sự tử  đạo đã tẩy sạch mọi tội lỗi và làm cho đấng tử đạo được hưởng triều  thiên muôn đời. Thánh Origen (254) thì viết rằng sự tử đạo là một chứng  cớ của Kitô giáo, không những chỉ vì các Kitô hữu đã chứng tỏ họ có thể  chết vì Ðức Tin, nhưng bởi vì sự thách đố cái chết của người Kitô hữu đã  là bằng chứng hiển nhiên của sự chiến thắng trên sức mạnh của sự dữ, và  sự minh xác về cuộc sống lại đã làm cho họ vượt qua được những đau khổ.  Vì vậy, đời sống của đấng tử đạo là một hoàn thành của việc cố gắng  tiến tới hoàn hảo của người Kitô. 
 
Ðối với Thánh Clement of  Alexandria (213), việc chuẩn bị cho sự tử đạo cũng như sự tử đạo trong  việc chịu đựng các đau khổ thì tương đương với việc đổ máu mình ra vì  Chúa. Thánh Origen đã nhìn nhận rằng có biết bao nhiêu Kitô hữu đã chịu  tử đạo hằng ngày trong thâm tâm bằng sự chấp nhận vác thánh gía theo sau  Ðấng Cứu Ðộ (Hom. in Num.10.2). 
 
Ðể đối phó với các lạm dụng  trong việc tôn kính các Ðấng Tử Ðạo cách thái qúa, Thánh Augustine đã  thay đổi sự nhấn mạnh đến những đau khổ và cực hình mà các ngài đã phải  chịu bằng việc nghiên cứu thêm về vị tử đạo. Thánh Nhân cho rằng vị tử  đạo cũng là người tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô bằng việc hoàn bị  hóa các nhân đức và sống một đời sống hoàn toàn phù hợp với những giáo  huấn tinh thần của Giáo Hội. 
 
NHỮNG ÐIỀU KIỆN ÐỂ ÐƯỢC GỌI LÀ TỬ  ÐẠO 
 
Ðể được gọi là vị tử đạo, một Kitô hữu phải thực sự chịu  đựng những đau khổ, đang chết dần hay bị xử tử, vì đã làm chứng nhân  cho Ðức Giêsu Kitô. 
 
Có ba điều kiện thiết yếu, thứ nhất, đời sống  thể lý đang đi dần đến cái chết; thứ hai, kẻ làm cho người Kitô hữu  phải chết, thực sự rất ghét đời sống Kitô Giáo và Chân Lý; cuối cùng,  cái chết đã được người Kitô hữu chấp nhận một cách tình nguyện để minh  chứng đức tin. 
 
Như vậy, trường hợp thứ nhất, những người hăng say  muốn chết cho Ðức Kitô hoặc chọn lựa và chấp nhận một đời sống đau khổ  vì Ngài, thì, một cách chuyên môn, chưa phải là tử đạo. Kế đến, những  người chết vì truyền nhiễm, hoặc do hậu quả chấp nhận sự sống nguy hiểm  vì Chúa, hoặc vì hy sinh cho khoa học, cho quốc gia, hoặc vì những động  lực khác, vì nhầm lẫn hay tự tử đều không được kể là tử đạo. Sau hết,  những người chưa đến tuổi trưởng thành để có thể lý luận được, hoặc bị  giết ngoài ý muốn, cũng không được kể là tử đạo.  
 
Ðó là giáo huấn  tổng quát của các nhà thần học, mặc dù sự tranh luận vẫn chưa đi quá  quyết định rằng cần phải có sự ý thức của lương tâm trong việc chọn lựa  kỹ lưỡng, (điều kiện thứ ba). 
 
Nhà thần học Cajetan, một cách  riêng biệt, đã chấp thuận rằng một người có thể tử đạo trong khi đang  ngủ, và cũng trong cùng một lý luận, ông thêm rằng những trẻ em chưa  được rửa tội cũng được cứu rỗi vì đức tin của cha mẹ chúng. Ðiều đó minh  chứng việc Giáo Hội tôn kính các Thánh Anh Hài như những Ðấng Tử Ðạo mà  không đòi hỏi những phép lạ, đồng thời phù hợp với giáo huấn rằng việc  đổ máu đã thay thế cho nước tuôn ra từ Phép Thánh Tẩy. 
 
Có những  Ðấng Tử Ðạo đã chết trong sự trực tiếp minh chứng cho các chân lý của  Ðức tin (in odium fidei). Nhưng cũng có những Ðấng khác, như các Thánh  Gioan Baotixita (John the Baptist) và Maria Goretti, đã hiến dâng đời  của họ để bảo vệ nhân đức Kitô Giáo. Hoặc cũng có những vị chấp nhận cái  chết để bảo vệ huấn lệnh và kỷ luật của giáo Hội, như các Thánh Thomas  of Canterbury và John of Nepomuc. Trong các trường hợp này, các nhà thần  học đã theo hai phương pháp để quyết định rằng những Ðấng đó đã chịu tử  đạo. Thứ nhất, phương pháp thông thường của Giáo Hội với các nguyên tắc  và điều kiện đã nêu ở trên. Thứ hai, theo Thánh Ambrose thì tất cả  những sự thật (dù là sự thật gì và do ai thực hiện) trong Chúa Thánh  Thần, đều sẽ được nhận ra nhanh chóng là những chứng nhân anh hùng, qua  cái chết như những Kitô hữu tử đạo.  
 
Những người đã chết vì bất  trung, hoặc theo bè rối (heresy), hoặc theo ly giáo (schism), dù là họ  rất được kính trọng vẫn không được kể là tử đạo. Ngay cả những nhà  truyền giáo ngoài Công Giáo (non-Catholic) đã chết vì rao giảng Lời Chúa  vẫn không được kể là tử đạo Công Giáo.  
 
Sự tử đạo đã được các  nhà thần học luân lý chấp nhận như một hành động chính yếu của nhân đức  can đảm chịu đựng (Fortitude). Sự bao hàm của việc minh chứng căn bản và  cuối cùng của tình yêu đối với Ðức Kitô dưới danh nghĩa nhân đức luân  lý, có thể phần nào giải thích được những lý do phương thức. Nhưng hành  động anh hùng đã được khám phá từ cơ quan tình cảm của con người, và  cũng từ đó mà những đau khổ và kinh sợ được chế ngự bằng những nhân đức  chính yếu như tôn giáo, đức tin và nhất là, đức ái. Chính nhờ những giáo  huấn liên tục của Giáo Hội mà tình yêu cao độ của người Kitô đã được  biểu lộ để minh giải cho sự tội lỗi (dù đã được rửa tội hay chưa) cũng  như tha thứ tất cả mọi lỗi lầm, đồng thời ân xá tất cả những hình phạt  tạm, để rồi được hưởng triều thiên và hào quang vinh hiển muôn đời. 
 
LM.  Phaolô Nguyễn Văn Tùng 
 
(Theo New Catholic Encyclopedia) 
             
        
	
	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
 
	
    | 
 |